Mặc dù toàn bộ tác phẩm của Kant có thể được xem là một suy tưởng được mở rộng vềlôgíc học, nhưng ông chỉ chịu trách nhiệm về hai công trình minh nhiên dành cho chủ đề này. Một trong các công trình đó, FS, là một đóng góp đầu tay ngắn ngủi cho sự đổi mới một số sự quá đáng của phong cách hoa mỹ (baroque excesses) trong truyền thống Aristoteles. Công trình còn lại, quyển L, được Gottlob Benjamin Jäsche biên soạn từ bản sao được chú thích một cách nặng nề của Kant về cuốn sách giáo khoa của George Friedrich Meiter về lôgíc học Auszug aus der Vernunftlehre (1752). Kant dùng cuốn L làm sách giáo khoacho những bài giảng về lôgíc học là bộ môn mà ông đã dànhmất bốn thập niên kể từ lúc ông bắt đầu sự nghiệp khoa học của mình trong những năm 1755-6 cho đến năm 1796 thì chấm dứt. Các bản ghi chép về các bài giảng này còn sót lại từ những năm đầu 1770 (“Lôgíc học Blomberg”), đầu những năm 1780 (“Lôgíc học Vienna” và “Lôgíc học Heschel”), và đầu những năm 1790 (“Lôgíc học Dohna-Wundlacken”), toàn bộ những ghi chép này được phiên dịch trong quyển 9 của Nxb. Guyer và Wood (tức cuốn L). Từ những nguồn này, ta có thể tái dựng lại một bối cảnh ngành học này cho nỗ lực tham vọng của Kant muốn xác định lại phạm vi của lôgíc học trong triết học phê phán.
Các nội dung của từng quyển trong ba quyển phê phán được tổ chức thành một chuyên luận về lôgíc học theo kiểu/của Aristoteles đầu thời kỳ hiện đại, được chia thành “Học thuyết về các yếu tố cơ bản của nhận thức” (gồm “Phân tích pháp” và “Biện chứng pháp”) và “Học thuyết về phương pháp”. Được khép vào trong cấu trúc này, và nhất là trong CPR, là một sự tổ chức riêng biệt khác về những nội dung của lôgíc học được dẫn xuất từ truyền thống Descartes chống Aristoteles được minh họa bởi tác phẩm Art of Thinking [Nghệ thuật tư duy] hay “Lôgíc học Port-Royal” (1662) của Arnauld. Trong truyền thống này, lôgíc học không quan tâm nhiều lắm đến những hình thức của suy luận vốn rất được ưa thích trong truyền thống Aristoteles, mà chỉ quan tâm đến việc rèn luyện sự phán đoán để phân biệt giữa đúng và sai, do đó đưa ra một bài tập luyện trong việc “tự-kỷ luật” (xem “Bài luận văn thứ nhất”). Với mục đích này, Nghệ thuật tư duy được tổ chức dựa theo “khái niệm”, “phán đoán”, “lập luận” và “sắp xếp trình tự”. Sự phân chia này thấm nhuần phân tích phê phán của Kant về phán đoán lý thuyết, phán đoán thực hành và phán đoán thẩm mỹ, và rõ rành nhất trong CPR, tác phẩm này chồnglên trên hệ hình Aristoteles và hệ hình Descartes trong một nỗ lực tạo ra một “Lôgíc học siêu nghiệm”. “Cảm năng học siêu nghiệm” đóng vai trò là chức năng của việc cung cấp các chất liệu của tư duy được thực hiện bằng “khái niệm”; “Phân tích pháp siêu nghiệm” đưa ra sự sắp đặt ban đầu của tư duy được phân tích trong “phán đoán”; “Biện chứng pháp siêu nghiệm” làm nảy sinh ra những suy luận tam đoạn (ảo tưởng) được phân tích trong “lập luận”; và học thuyết về phương pháp luận đưa đến sự nối khớp có hệ thống về trithức được bàn thảo trong việc “sắp đặt trình tự”.
Sự nhạy cảm ở Kant về những dị biệt giữa truyền thống lôgíc học “Aristoteles” và truyền thống lôgíc học “hiện đại” rõ ràng là xuyên suốt trong các bài viết và các bài giảng của ông về lôgíc học. Ở mức độ khái quát nhất, FS có thể được đọc như là nỗ lực thay thế sự nhấn mạnh của truyền thống đến những sự tinh vi của các hình thái suy luận bằng một chú trọng mới vào tự ý thức và phán đoán. Ta có thể theo dõi sựđấu tranh và sự thích ứng giữa hai truyền thống lôgíc học được giới thiệu trong văn bản này trong các tác phẩmcủaKant. Rõ ràng nhất là trong Lời tựa cho lần xuất bản thứ hai của CPR, ở đó Kant quan sát thấy rằng lôgíc học kể từ thời Aristoteles “không thể đi thêm một bước tiến nào cả, cơ hồ như đã hoàn chỉnh và hoàn tất hẳn rồi” (B viii). Ông không xét đến những nỗ lực của“các nhà hiện đại” mở rộng hơn mônLôgíc học nhờ chất liệu được rút ra từ tâm lý học, siêu hình học và nhân loại học là có đóng góp gì lớn. Kant cho rằng Lôgíc học “là môn khoa học trình bày cặn kẽ và chứng minh chặt chẽ những quy luật hình thức của mọi tư duy chứ không làm điều gì khác hơn cả (bất kể tư duy ấy là tiên nghiệm hay thường nghiệm, có nguồn gốc hay đối tượng như thế nào)” (CPR B ix). Ông còn nói thêm rằng trong môn Lôgíc học, “giác tính không làm việc với cái gì khác hơn là với chính mình và với hình thức của mình.” (B ix) và xem bất cứ nỗ lực nào nhằm bổ sung nó chỉ đơn thuần là việc làm tổn hại đến tính nguyên vẹn của bộ môn.
Dù giới hạn môn Lôgíc học vào sự trình bày những hình thức của giác tính và chối bỏ những bổ sung tâm lý học, siêu hình học và nhân loại học, sự tận tâm của Kant với dự án hiện đại về việc mở rộng môn Lôgíc học là không bao giờ phải bàn cãi. Sự mở rộng được đề xuất của ông là tham vọng hơn nhiều so với đơn thuần là thêm vào những “tính chất” từ các khoa học riêng biệt và viết lại chi li môn “Lôgíc học phổ biến” của truyền thống thành môn “Lôgíc học siêu nghiệm” của thời hiện đại. Lôgíc học phổ biến thuần túy “không làm việc với gì khác hơn là với các mô thức đơn thuần của tư duy” (CPR A 54/ B 78) và hoàn toàn là tiên nghiệm; nó được phân biệt với Lôgíc học phổ biến được ứng dụng là môn “hướng đến những quy luật của việc sử dụng giác tính dưới các điều kiện chủ quan thường nghiệm mà môn Tâm lý học dạy cho ta biết.” (A 53/B 77). Cả hai được phân biệt với Lôgíc học siêu nghiệm được trình bày trong CPR, là môn “chỉ nghiên cứu các quy luật của giáctính và lý tính trong chừng mực môn học này quan hệ với những đối tượng một cách tiên nghiệm.” (A 57/ B 82).
Với sự phát triển của một môn Lôgíc học siêu nghiệm hiện đại, Kant không có ý đồ bác bỏ những thành tựu của truyền thống lôgíc học. Thay vào đó ông tiến hành phân tích phán đoán được rút ra từ truyền thống và sử dụng chúng như là một manh mối để phát hiện những thao tác của giác tính trong Lôgíc học siêu nghiệm. Những khái niệm mà ông dùng để tạo thành bước chuyển từ Lôgíc học truyền thống sangLôgíc học hiện đại là “tính thống nhất” và “sự tổng hợp”. Các phán đoán của Lôgíc học phổ biến, được trừu tượng hóa khỏi mọi nội dung [của nhận thức], là “những chức năng mang lại tính thống nhất” (CPR A 69/B 94); khi được chuyển thành Lôgíc học siêu nghiệm,chúng biểu thị sự tổng hợp của một chủ thể thông giác tự khởi có trước mặt mình một “cái đa tạp của cảm năng tiên nghiệm” (A 77/B 102). Sự tổng hợp siêu nghiệm được rút ra từ những chức năng lôgíc của Lôgíc học phổ biến hình thành nên bảng các phạm trù hay “danh mục của tất cả các khái niệm thuần túy có tính nguyên thủy để làm công việc tổng hợp mà giác tính chứa đựng trong nó một cách tiên nghiệm” (A 80/B 106). Với những sự tổng hợp này, Kant muốn thích ứng với cả Lôgíc học truyền thống được dựa trên những hình thức của phán đoán và suy luận lẫn với Lôgíc học hiện đại bắt nguồn từ cái cogito [cái Tôi tư duy] của Descartes và dựa trên tự-ý thức và thông giác.
Một truyền thống lịch sử xa hơn của Lôgíc học cũng được biểu hiện trong công trình của Kant: đó là định nghĩa của Epicurus về Lôgíc học như là một bộ chuẩn tắc hay “khoa học về việc sử dụng giác tính một cách thận trọng và đúng đắn” (L tr. 275). Bộ chuẩn tắc này được phân biệt với “bộ công cụ cho nghệ thuật tranh luận” của Aristoteles là bộ đã đưa ra những quy luật cho những suy luận đúng hay những suy luận có sức thuyết phục. Kant tự nhận là đi theo truyền thống Epicurus khiông nhấn mạnh đến vai trò của Lôgíc học như là một khoa học phân biệt giữa các phán đoán. Thật thế, với CPR, nó mang lại một bộ chuẩn tắc cho việc phân biệt những phán đoán và suy luận đúng với những phán đoán và suy luận sai, còn CPrR là giữa những châm ngôn của hành động tốt và những châm ngôn của hành động xấu, và sau cùng CJ là giữa các phán đoán về cái đẹp và những phán đoán về sự dễ chịu và cái thiện. Trong mỗi quyển phê phán, cả phân tích pháp phê phán lẫn biện chứng pháp phê phán đều là những bộ chuẩn tắc theo nghĩa này: phân tích pháp là một “bộ chuẩn tắc cho sự phân xử (về cái đúng đắn hình thức của nhận thức chúng ta)” (L, tr. 531), trong khi biện chứng pháp chứa đựng “những dấu hiệu nhận biết và những quy luật phù hợp với những gì ta có thể thừa nhận rằng có cái gì đó không khớp với các tiêu chuẩn hình thức của chân lý, mặc dù nó có vẻ như khớp với các tiêu chuẩn này” (L tr. 532).
Trong Lôgíc học siêu nghiệm, nỗ lực kết hợp Lôgíc học truyền thống và Lôgíc học hiện đại lại với nhau của Kant được triệt để hóa bởi những người kế tục ông như Fichte và Hegel. Họ không xét thấy nhất thiết phải hòa giải bảng các phán đoán truyền thống với sự tổng hợp của tự-ý thức, mà lập luận trực tiếp từ hoạt động tổng hợp của tự-ý thức cho cả hình thức lẫn nội dung của phán đoán. Sự quá đáng này trong việc phát triển lôgíc học của Kant rốt cuộc đã gây nên một phản ứng chống lại dự án của Lôgíc học siêu nghiệm. Phản ứng này có nhiều hình thức ảnh hưởng khác nhau, từ các nghiên cứu tâm lý học và xã hội học về các hình thức của lập luận đến một Lôgíc học về tính hiệu lực đặt trọng điểm vào sự biện minh hình thức cho các mệnh đề mà không kể đến nội dung hay quan hệ của chúng với thế giới.
Đinh Hồng Phúc dịch
Nguồn: Howard Caygill. 1995. A Kant Dictionary. Malden: Blackwell Publishing.
Các chữ viết tắt tên tác phẩm của Kant:
- CPR: Critique of Pure Reason / Phê phán lý tính thuần túy (bản A: 1781; bản B: 1787)
- CPrR: Critique of Practical Reason / Phê phán lý tính thực hành (1788)
- CJ: Critique of Jugement / Phê phán năng lực phán đoán (1790)
- FS: The False Subtlety of the Four Syllogistic Figures / Chứng minh sự tinh tế sai lầm của bốn dạng tam đoạn luận(1762)
- L: Logic / Lôgíc học(1800)