SỰ RA ĐỜI VÀ PHÁT TRIỂN CỦA TRIẾT HỌC MÁC-LÊNIN
CHƯƠNG III
SỰ RA ĐỜI VÀ PHÁT TRIỂN CỦA TRIẾT HỌC MÁC-LÊNIN
Mục tiêu:
Sau khi học xong chương này anh/chị sẽ hiểu được sự ra đời của triết học Mác là một tất yếu khách quan; thực chất của cuộc cách mạng trong triết học do Mác và Ăngghen thực hiện; thấy được sự hơn hẳn về chất của triết học Mác so với các trào lưu triết học khác; đồng thời, thấy rằng triết học Mác không phải là biệt phái, mà là kết quả phát triển liên tục của dòng chảy lịch sử triết học của nhân loại.
Nội dung:
I. NHỮNG ĐIỀU KIỆN LỊCH SỬ RA ĐỜI CỦA TRIẾT HỌC MÁC
1. Điều kiện kinh tế-xã hội
Chủ nghĩa Mác ra đời vào những năm 40 của thế kỷ XIX ở Tây Âu. Đó cũng là thời kỳ Chủ nghĩa Tư bản đã bước sang giai đoạn mới nhờ tác động của cách mạng công nghiệp. Sự phát triển của CNTB làm cho những mâu thuẫn xã hội vốn có của nó bộc lộ ngày càng gay gắt. CNTB phát triển có nghĩa là kinh tế TBCN phát triển - đây là điều kiện vật chất quan trọng để thực hiện những lý tưởng cao đẹp của con người, trong đó có lý tưởng xã hội chủ nghĩa.
Thực tiễn đấu tranh cách mạng của giai cấp vô sản nảy sinh yêu cầu khách quan phải có lý luận mới, khoa học dẫn đường. Trong khi ấy, có một loạt những lý luận không khoa học đang tìm cách len lỏi vào phong trào công nhân. Chẳng hạn như “chủ nghĩa xã hội tiểu tư sản” - chống CNTB, nhưng đòi thực hiện sở hữu nhỏ, tức là đi ngược lại lịch sử ; “chủ nghĩa xã hội phong kiến” - chống CNTB nhưng đòi quay trở về chủ nghĩa phong kiến ; “chủ nghĩa xã hội tư sản” - cho rằng không cần phải đập tan nhà nước tư sản, chỉ cần sửa chữa nó. Trước tình hình đó đòi hỏi phải có lý luận mới khoa học ra đời để dẫn đường cho phong trào công nhân. Sự ra đời của Chủ nghĩa Mác là sự giải đáp về mặt lý luận những vấn đề thời đại đặt ra trên lập trường của giai cấp vô sản cách mạng.
2. Nguồn gốc lý luận và những tiền đề khoa học tự nhiên
a. Nguồn gốc lý luận
Mác và Ăngghen kế thừa toàn bộ những tinh hoa lý luận của nhân loại từ cổ đại đến thời đại các ông nhưng trực tiếp là kinh tế - chính trị cổ điển Anh; CNXH không tưởng Pháp và triết học cổ điển Đức. Với kinh tế - chính trị cổ điển Anh, Mác và Ăngghen đã kế thừa học thuyết giá trị của A.Xmít và Đ.Ricácđô và vận dụng vào phân tích kinh tế TBCN, chỉ ra nguồn gốc của giá trị thặng dư. Mác và Ăngghen cũng kế thừa Xanh Ximông, Phuriê ở những luận điểm: cần và có thể đập tan nhà nước tư sản. Với triết học cổ điển Đức, Mác, Ăngghen khắc phục vỏ duy tâm, thần bí của triết học Hêghen kế thừa phương pháp biện chứng của ông ta, đặt phương pháp biện chứng này trên nền thế giới quan duy vật. Đồng thời khắc phục tính siêu hình trong triết học Phoiơbắc, kế thừa CNDV nhân bản của ông và làm giàu chủ nghĩa duy vật này bằng phương pháp biện chứng. Đồng thời cả chủ nghĩa duy vật, cả phương pháp biện chứng đều được các ông nâng lên về chất. Trên cớ sở đó, Mác và Ăngghen đã sáng tạo nên chủ nghĩa duy vật biện chứng.
b. Tiền đề khoa học tự nhiên
Đó là những phát minh khoa học như định luật bảo toàn vật chất và vận động; định luật bảo toàn và chuyển hoá năng lượng. Hai phát minh khoa học này đã chứng minh tính thống nhất vật chất của thế giới, đồng thời chỉ ra rằng, mọi sự vật và hiện tượng trong thế giới luôn nằm trong mối liên hệ tác động qua lại lẫn nhau. Thuyết tế bào; thuyết tiến hoá đã chứng minh sự thống nhất về mặt kết cấu sinh học của thế giới hữu sinh; chỉ ra rằng, sự sống và sự đa dạng phong phú của các loài sinh, động vật là kết quả tiến hoá tự nhiên, lâu dài của chính giới tự nhiên. Những phát minh này tạo ra điều kiện, tiền đề cho thế giới quan duy vật và phương pháp biện chứng ra đời.
Như vậy triết học Mác ra đời là tất yếu lịch sử, tất nhiên phải có những điều kiện chủ quan như sự thông minh, lòng yêu thương những người lao động của chính Mác và Ăngghen.
II. QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN TRIẾT HỌC MÁC
1. C.Mác và Ph.Ăngghen và quá trình chuyển biến tư tưởng của các ông từ CNDT và dân chủ cách mạng sang CNDV và cộng sản chủ nghĩa
C.Mác (5/5/1818 - 14/3/1883), năm 1841 C.Mác nhận bằng tiến sỹ và từ đầu 5/1842 – 3/1843 ông làm ở báo Sông Ranh. Chính thời kỳ làm ở báo Sông Ranh đấu tranh cho dân chủ đã giúp ông chuyển biến bước đầu từ chủ nghĩa duy tâm và tinh thần dân chủ cách mạng sang chủ nghĩa duy vật và cộng sản chủ nghĩa. Khi báo Sông Ranh bị cấm (từ 1/4/1843) Mác đặt ra cho mình nhiệm vụ xem xét có phê phán triết học Hêghen về xã hội và nhà nước. Trong thời gian Mác ở Croixnăc (từ tháng 5 - 10/1843) Mác đã tiến hành phê phán triết học pháp quyền của Hêghen, qua đó phê phán chủ nghĩa duy tâm của Hêghen nói chung. Cuối tháng 10/1843 Mác sang Pari. Tại đây được tiếp xúc với không khí cách mạng Pháp và các đại biểu tiêu biểu của phong trào công nhân đã giúp Mác chuyển biến dứt khoát sang chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa cộng sản. Các bài báo: Bàn về vấn đề Do Thái; Góp phần phê phán triết học pháp quyền của Hêghen. Lời nói đầu đăng trên tạp chí Niên giám Pháp - Đức tháng 2/1844 đánh dấu quá trình chuyển biến này.
Ph.Ăngghen (28/11/1820 - 5/8/1895) trong khoảng thời gian 1842 - 1843 có điều kiện tiếp xúc đời sống và phong trào công nhân ở Anh nên đã có sự chuyển biến về lập trường và thế giới quan. Điều này thể hiện rõ ở những bài báo cũng đăng trên tạp chí Niên giám Pháp - Đức: Lược thảo phê phán khoa kinh tế chính trị - đứng trên lập trường duy vật phê phán A.Xmít và đ.Ricácđô; Tình cảnh nước Anh; Tômát Cáclây - vạch trần quan điểm phản động của Cáclây vì đã phê phán chủ nghĩa tư bản trên lập trường của chủ nghĩa phong kiến..
2. Giai đoạn đề xuất những nguyên lý triết học duy vật biện chứng và duy vật lịch sử
Từ 1844 - 1848 là giai đoạn C.Mác và Ph.Ănghen chuyển biến dứt khoát và từng bước hình hành tư tưởng của mình. Điều này thể hiện ở một loạt tác phẩm như Bản thảo kinh tế - triết học 1844 - phê phán triết học duy tâm Hêghen, phê phán khoa kinh tế chính trị cổ điển Anh, tìm nguyên nhân tha hoá con người ở sở hữu tư nhân; Gia đình thần thánh - phê phán phái Hêghen trẻ, đề xuất một số nguyên lý triết học duy vật của mình; Hệ tư tưởng Đức - phê phán các hệ tư tưởng Đức bấy giờ, trình bày quan niệm duy vật về lịch sử; Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản - đánh dấu sự hình thành chủ nghĩa Mác trên tất cả các bộ phận cấu thành (triết học, chủ nghĩa cộng sản khoa học và kinh tế chính trị học).
3. Giai đoạn Mác và Ăngghen bổ sung, phát triển lý luận triết học
Mác và Ăngghen luôn tổng kết thực tiễn phong trào cách mạng và bổ sung lý luận triết học của mình. Các tác phẩm Đấu tranh giai cấp ở Pháp ; Ngày mười tám tháng sương mù của Lui Bônapáctơ; Nội chiến ở Pháp, v.v đã được Mác phát triển nhiều nguyên lý của chủ nghĩa duy vật lịch sử, như đấu tranh giai cấp trong xã hội có giai cấp là một trong những động lực phát triển của xã hội có giai cấp đối kháng; tính tất yếu của chuyên chính vô sản, về thái độ phải đập tan nhà nước tư sản, v.v. Phê phán Cương lĩnh Gôta phát triển lý luận về hình thái kinh tế - xã hội, trình bày tư tưởng về hai giai đoạn phát triển của chủ nghĩa cộng sản. Chống Đuy-rinh, Biện chứng của tự nhiên, Tư bản, v.v phát triển cụ thể nhiều vấn đề về phép biện chứng, quan hệ giữa triết học với khoa học tự nhiên, phê phán các quan điểm sai trái; phân tích xã hội tư bản chỉ ra tính tất yếu của sự ra đời nhà nước vô sản, v.v sau khi Mác mất Ăngghen đã biên tập xuất bản tập 2, 3 của bộ Tư bản, hoàn thành những tác phẩm triết học quan trọng như: Nguồn gốc của gia đình, của chế độ tư hữu và của nhà nước; Lútvích Phoiơbắc và sự cáo chung của triết học cổ điển Đức.
4. Thực chất và ý nghĩa của cuộc cách mạng trong triết học do C.Mác và Ph.ăngghen thực hiện
Thực chất cuộc cách mạng trong triết học do Mác và Ăngghen thực hiện thể hiện ở những điểm chủ yếu sau:
Thứ nhất, khắc phục sự tách rời giữa thế giới quan duy vật và phương pháp biện chứng trong triết học trước đó, Mác và Ăngghen đã tạo ra sự thống nhất hữu cơ giữa chủ nghĩa duy vật và phương pháp biện chứng là chủ nghĩa duy vật biện chứng. Đây là bước phát triển cách mạng trong triết học do Mác và Ăngghen thực hiện.
Thứ hai, sáng tạo ra chủ nghĩa duy vật lịch sử làm cho triết học của C.Mác và Ph.Ăngghen trở nên triệt để. Trước khi triết học Mác ra đời chưa có một nhà triết học nào giải thích được một cách duy vật lĩnh vực lịch sử - xã hội - tinh thần. Triết học Mác ra đời đã khắc phục được những hạn chế này.
Thứ ba, với sự sáng tạo ra chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử Mác và Ăngghen đã khắc phục sự đối lập giữa triết học với hoạt động thực tiễn. Triết học của hai ông trở thành công cụ nhận thức và cải tạo thế giới của nhân loại tiến bộ. Triết học của hai ông đã gắn bó với phong trào cách mạng của giai cấp vô sản, còn phong trào vô sản cần đến sự chỉ đường, dẫn dắt của triết học này.
Thứ tư, với sự ra đời của triết học Mác, Mác và Ăngghen đã khắc phục sự đối lập giữa triết học với các khoa học cụ thể. Trước khi triết học Mác ra đời thì triết học hoặc là đối lập với các khoa học cụ thể, hoặc là hoà tan vào nó. Từ khi triết học Mác ra đời thì quan hệ giữa triết học Mác với các khoa học cụ thể là quan hệ biện chứng, tác động qua lại lẫn nhau. Các khoa học cụ thể cung cấp cho triết học Mác các thông số, dữ liệu khoa học, tài liệu khoa học để triết học Mác khái quát, còn triết học Mác đóng vai trò thế giới quan, phương pháp luận chung nhất cho các khoa học cụ thể.
Ý nghĩa của cuộc cách mạng trong triết học do C.Mác và Ph.ăngghen thực hiện
Cuộc cách mạng trong triết học do Mác và Ăngghen thực hiện có ý nghĩa hết sức to lớn:
- Làm cho triết học thay đổi cả về vai trò, vị trí, chức năng trong hệ thống tri thức khoa học.
- Làm cho chủ nghĩa xã hội không tưởng có cơ sở trở thành khoa học.
- Làm cho triết học Mác trở thành công cụ nhận thức và cải tạo thế giới của giai cấp công nhân và nhân dân lao động.
5. Giai đoạn Lênin trong sự phát triển triết học Mác
V.I.Lênin (1870 - 1924) - người đã vận dụng sáng tạo và phát triển triết học Mác vào thời đại đế quốc chủ nghĩa và bắt đầu xây dựng CNXH hiện thực. Ông đã có những đóng góp to lớn vào việc phát triển chủ nghĩa Mác nói chung, triết học Mác nói riêng.
Khi chống lại những người dân tuý Nga, Lênin đã phát triển lý luận hình thái kinh tế - xã hội của Mác, bảo vệ sự trong sáng của triết học Mác trước sự xuyên tác của phái dân tuý Nga; phát triển quan niệm duy vật về lịch sử. Điều này thể hiện rõ trong các tác phẩm: “Những "người bạn dân" là thế nào và họ đấu tranh chống những người dân chủ - xã hội ra sao?”; “Nội dung kinh tế của chủ nghĩa dân tuý và sự phê phán trong cuốn sách của ông Xtơruvê về nội dung đó”.
Khi chống lại chủ nghĩa duy tâm chủ quan của phái Makhơ, Lênin đã khái quát được những thành tựu khoa học đương thời, đưa ra định nghĩa nổi tiếng về vật chất, khắc phục được cuộc khủng hoảng về thế giới quan trong vật lý học; bổ sung nhiều vấn đề quan trọng cho lý luận nhận thức duy vật biện chứng. Điều này được Lênin trình bày trong “Chủ nghĩa duy vật và chủ nghia xkinh nghiệm phê phán” v.v.
Lênin có nhiều đóng góp vào việc phát triển phép biện chứng, lý luận nhận thức, vấn đề nhà nước và cách mạng, vấn đề chuyên chính vô sản, vấn đề xây dựng Đảng kiểu mới v.v
Có thể nói, Lênin đã tạo ra một giai đoạn mới trong sự phát triển triết học Mác. Nhưng cần lưu ý rằng, về bản chất triết học của Lênin là triết học Mác.
TÓM LƯỢC NHỮNG VẤN ĐỀ CẦN GHI NHỚ
Trong chương này, anh/chị cần ghi nhớ:
1/ Sự ra đời của triết học Mác là một tất yếu khách quan. Tính tất yếu khách quan này được quy định bởi điều kiện kinh tế - chính trị - xã hội, tiền đề khoa học tự nhiên và tiền đề lý luận.
2/ Sự hình thành chủ nghĩa Mác nói chung, triết học Mác nói riêng là một quá trình (chuyển từ dân chủ cách mạng, duy tâm sang chủ nghĩa cộng sản và duy vật biện chứng của Mác và Ăngghen).
3/ Triết học của Mác và Ăngghen được V.I.Lênin bổ sung, phát triển trong điều kiện mới về khoa học, chủ nghĩa xã hội trở thành hiện thực và chủ nghĩa tư bản đã chuyển sang giai đoạn đế quốc chủ nghĩa. Về bản chất triết học của V.I.Lênin là triết học Mác.
3/ Sự ra đời triết học Mác là một cuộc cách mạng trong lịch sử triết học. Thực chất cuả cuộc cách mạng này được thể hiện ở chỗ: khắc phục sự đối lập giữa thế giới quan duy vật và phương pháp biện chứng tạo ra sự thống nhất giữa chủ nghĩa duy vật và phương pháp biện chứng; sáng tạo ra chủ nghĩa duy vật lịch sử; khắc phục sự đối lập giữa triết học và hoạt động thực tiễn của con người; khắc phục sự đối lập giữa triết học với các khoa học cụ thể.
Chúc anh/chị thành công!
CÂU HỎI SUY LUẬN
Câu hỏi 1: Vì sao nói sự ra đời của triết học Mác là một tất yếu lịch sử?
Gợi ý: Phải chỉ ra được sự ra đời triết học Mác là do những điều kiện khách quan và chủ quan quy định thống nhất với nhau tạo nên.
Điều kiện khách quan là những điều kiện kinh tế - chính trị - xã hội; nguồn gốc về lý luận, tiền đề về khoa học tự nhiên khi ấy.
Điều kiện chủ quan là tình yêu thương nhân dân lao động của Mác và Ăngghen, sự thông minh, cần cù chịu khó làm việc, v.v của hai ông.
Câu hỏi 2: Phân tích thực chất cuộc cách mạng trong triết học do Mác và Ăngghen thực hiện?
Gợi ý: Phân tích làm rõ 4 điểm chủ yếu sau :
- Mác và Ăngghen đã khắc phục sự đối lập giữa thế giới quan duy vật và phương pháp biện chứng trước đây trong lịch sử triết học, tạo ra sự thống nhất hữu cơ giữa chủ nghĩa duy vật và phương pháp biện chứng. Đó là chủ nghĩa duy vật biện chứng. So sánh trong lịch sử triết học để thấy có các nhà triết học duy vật nhưng siêu hình, máy móc; hoặc có các nhà biện chứng nhưng lại duy tâm. Nghĩa là thế giới quan duy vật và phương pháp biện chứng thường tách rời nhau. Trong triết học của Mác, thế giới quan duy vật thống nhất hữu cơ với phép biện chứng.
- Sáng tạo ra chủ nghĩa duy vật lịch sử là biểu hiện vĩ đại nhất của cuộc cách mạng trong triết học do Mác và Ăngghen thực hiện. Chứng minh rằng trong lịch sử triết học chưa có đại biểu nào duy vật triệt để, tức là giải thích lịch sử, xã hội vẫn duy tâm.
- Với sự sáng tạo ra chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử Mác và Ăngghen đã khắc phục sự đối lập giữa triết học với hoạt động thực tiễn của con người. Triết học của 2 ông đã trở thành công cụ lý luận nhận thức và cải tạo thế giới của nhân loại tiến bộ.
- Với sự sáng tạo ra chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, Mác và Ăngghen đã giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa triết học với các khoa học cụ thể. Quan hệ giữa triết học Mác với các khoa học cụ thể là quan hệ biện chứng, tác động qua lại lẫn nhau.
CÂU HỎI ÔN TẬP:
1. Vì sao chúng ta gọi triết học do Mác, Ăngghen sáng lập là triết học Mác-Lênin ?
Gợi ý: Đọc phần Giai đoạn Lênin trong sự phát triển triết học Mác để chứng minh rằng, triết học Mác do Lênin phát triển trong điều kiện mới một cách sáng tạo.
2. Từ lịch sử triết học Mác - Lênin anh (chị) rút ra được những bài học gì cho việc nghiên cứu triết học?
Gợi ý :
- Phải thấm nhuần thế giới quan duy vật và phương pháp biện chứng.
- Chống chủ nghĩa xét lại và chống chủ nghĩa giáo điều khi vận dụng triết học Mác-Lênin.
- Phải kiên định lập trường của chủ nghĩa Mác-Lênin trong đổi mới.
- Phải biết phát triển triết học Mác-Lênin vào thực tiễn Việt Nam, nhưng không được tuyệt đối hoá điều kiện dân tộc để không xa vào chủ nghĩa xét lại. Chính sự bổ sung cho triết học Mác trong điều kiện mới ở Việt Nam sẽ góp phần phát triển triết học Mác.
SỰ RA ĐỜI VÀ PHÁT TRIỂN CỦA TRIẾT HỌC MÁC-LÊNIN
Mục tiêu:
Sau khi học xong chương này anh/chị sẽ hiểu được sự ra đời của triết học Mác là một tất yếu khách quan; thực chất của cuộc cách mạng trong triết học do Mác và Ăngghen thực hiện; thấy được sự hơn hẳn về chất của triết học Mác so với các trào lưu triết học khác; đồng thời, thấy rằng triết học Mác không phải là biệt phái, mà là kết quả phát triển liên tục của dòng chảy lịch sử triết học của nhân loại.
Nội dung:
I. NHỮNG ĐIỀU KIỆN LỊCH SỬ RA ĐỜI CỦA TRIẾT HỌC MÁC
1. Điều kiện kinh tế-xã hội
Chủ nghĩa Mác ra đời vào những năm 40 của thế kỷ XIX ở Tây Âu. Đó cũng là thời kỳ Chủ nghĩa Tư bản đã bước sang giai đoạn mới nhờ tác động của cách mạng công nghiệp. Sự phát triển của CNTB làm cho những mâu thuẫn xã hội vốn có của nó bộc lộ ngày càng gay gắt. CNTB phát triển có nghĩa là kinh tế TBCN phát triển - đây là điều kiện vật chất quan trọng để thực hiện những lý tưởng cao đẹp của con người, trong đó có lý tưởng xã hội chủ nghĩa.
Thực tiễn đấu tranh cách mạng của giai cấp vô sản nảy sinh yêu cầu khách quan phải có lý luận mới, khoa học dẫn đường. Trong khi ấy, có một loạt những lý luận không khoa học đang tìm cách len lỏi vào phong trào công nhân. Chẳng hạn như “chủ nghĩa xã hội tiểu tư sản” - chống CNTB, nhưng đòi thực hiện sở hữu nhỏ, tức là đi ngược lại lịch sử ; “chủ nghĩa xã hội phong kiến” - chống CNTB nhưng đòi quay trở về chủ nghĩa phong kiến ; “chủ nghĩa xã hội tư sản” - cho rằng không cần phải đập tan nhà nước tư sản, chỉ cần sửa chữa nó. Trước tình hình đó đòi hỏi phải có lý luận mới khoa học ra đời để dẫn đường cho phong trào công nhân. Sự ra đời của Chủ nghĩa Mác là sự giải đáp về mặt lý luận những vấn đề thời đại đặt ra trên lập trường của giai cấp vô sản cách mạng.
2. Nguồn gốc lý luận và những tiền đề khoa học tự nhiên
a. Nguồn gốc lý luận
Mác và Ăngghen kế thừa toàn bộ những tinh hoa lý luận của nhân loại từ cổ đại đến thời đại các ông nhưng trực tiếp là kinh tế - chính trị cổ điển Anh; CNXH không tưởng Pháp và triết học cổ điển Đức. Với kinh tế - chính trị cổ điển Anh, Mác và Ăngghen đã kế thừa học thuyết giá trị của A.Xmít và Đ.Ricácđô và vận dụng vào phân tích kinh tế TBCN, chỉ ra nguồn gốc của giá trị thặng dư. Mác và Ăngghen cũng kế thừa Xanh Ximông, Phuriê ở những luận điểm: cần và có thể đập tan nhà nước tư sản. Với triết học cổ điển Đức, Mác, Ăngghen khắc phục vỏ duy tâm, thần bí của triết học Hêghen kế thừa phương pháp biện chứng của ông ta, đặt phương pháp biện chứng này trên nền thế giới quan duy vật. Đồng thời khắc phục tính siêu hình trong triết học Phoiơbắc, kế thừa CNDV nhân bản của ông và làm giàu chủ nghĩa duy vật này bằng phương pháp biện chứng. Đồng thời cả chủ nghĩa duy vật, cả phương pháp biện chứng đều được các ông nâng lên về chất. Trên cớ sở đó, Mác và Ăngghen đã sáng tạo nên chủ nghĩa duy vật biện chứng.
b. Tiền đề khoa học tự nhiên
Đó là những phát minh khoa học như định luật bảo toàn vật chất và vận động; định luật bảo toàn và chuyển hoá năng lượng. Hai phát minh khoa học này đã chứng minh tính thống nhất vật chất của thế giới, đồng thời chỉ ra rằng, mọi sự vật và hiện tượng trong thế giới luôn nằm trong mối liên hệ tác động qua lại lẫn nhau. Thuyết tế bào; thuyết tiến hoá đã chứng minh sự thống nhất về mặt kết cấu sinh học của thế giới hữu sinh; chỉ ra rằng, sự sống và sự đa dạng phong phú của các loài sinh, động vật là kết quả tiến hoá tự nhiên, lâu dài của chính giới tự nhiên. Những phát minh này tạo ra điều kiện, tiền đề cho thế giới quan duy vật và phương pháp biện chứng ra đời.
Như vậy triết học Mác ra đời là tất yếu lịch sử, tất nhiên phải có những điều kiện chủ quan như sự thông minh, lòng yêu thương những người lao động của chính Mác và Ăngghen.
II. QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN TRIẾT HỌC MÁC
1. C.Mác và Ph.Ăngghen và quá trình chuyển biến tư tưởng của các ông từ CNDT và dân chủ cách mạng sang CNDV và cộng sản chủ nghĩa
C.Mác (5/5/1818 - 14/3/1883), năm 1841 C.Mác nhận bằng tiến sỹ và từ đầu 5/1842 – 3/1843 ông làm ở báo Sông Ranh. Chính thời kỳ làm ở báo Sông Ranh đấu tranh cho dân chủ đã giúp ông chuyển biến bước đầu từ chủ nghĩa duy tâm và tinh thần dân chủ cách mạng sang chủ nghĩa duy vật và cộng sản chủ nghĩa. Khi báo Sông Ranh bị cấm (từ 1/4/1843) Mác đặt ra cho mình nhiệm vụ xem xét có phê phán triết học Hêghen về xã hội và nhà nước. Trong thời gian Mác ở Croixnăc (từ tháng 5 - 10/1843) Mác đã tiến hành phê phán triết học pháp quyền của Hêghen, qua đó phê phán chủ nghĩa duy tâm của Hêghen nói chung. Cuối tháng 10/1843 Mác sang Pari. Tại đây được tiếp xúc với không khí cách mạng Pháp và các đại biểu tiêu biểu của phong trào công nhân đã giúp Mác chuyển biến dứt khoát sang chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa cộng sản. Các bài báo: Bàn về vấn đề Do Thái; Góp phần phê phán triết học pháp quyền của Hêghen. Lời nói đầu đăng trên tạp chí Niên giám Pháp - Đức tháng 2/1844 đánh dấu quá trình chuyển biến này.
Ph.Ăngghen (28/11/1820 - 5/8/1895) trong khoảng thời gian 1842 - 1843 có điều kiện tiếp xúc đời sống và phong trào công nhân ở Anh nên đã có sự chuyển biến về lập trường và thế giới quan. Điều này thể hiện rõ ở những bài báo cũng đăng trên tạp chí Niên giám Pháp - Đức: Lược thảo phê phán khoa kinh tế chính trị - đứng trên lập trường duy vật phê phán A.Xmít và đ.Ricácđô; Tình cảnh nước Anh; Tômát Cáclây - vạch trần quan điểm phản động của Cáclây vì đã phê phán chủ nghĩa tư bản trên lập trường của chủ nghĩa phong kiến..
2. Giai đoạn đề xuất những nguyên lý triết học duy vật biện chứng và duy vật lịch sử
Từ 1844 - 1848 là giai đoạn C.Mác và Ph.Ănghen chuyển biến dứt khoát và từng bước hình hành tư tưởng của mình. Điều này thể hiện ở một loạt tác phẩm như Bản thảo kinh tế - triết học 1844 - phê phán triết học duy tâm Hêghen, phê phán khoa kinh tế chính trị cổ điển Anh, tìm nguyên nhân tha hoá con người ở sở hữu tư nhân; Gia đình thần thánh - phê phán phái Hêghen trẻ, đề xuất một số nguyên lý triết học duy vật của mình; Hệ tư tưởng Đức - phê phán các hệ tư tưởng Đức bấy giờ, trình bày quan niệm duy vật về lịch sử; Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản - đánh dấu sự hình thành chủ nghĩa Mác trên tất cả các bộ phận cấu thành (triết học, chủ nghĩa cộng sản khoa học và kinh tế chính trị học).
3. Giai đoạn Mác và Ăngghen bổ sung, phát triển lý luận triết học
Mác và Ăngghen luôn tổng kết thực tiễn phong trào cách mạng và bổ sung lý luận triết học của mình. Các tác phẩm Đấu tranh giai cấp ở Pháp ; Ngày mười tám tháng sương mù của Lui Bônapáctơ; Nội chiến ở Pháp, v.v đã được Mác phát triển nhiều nguyên lý của chủ nghĩa duy vật lịch sử, như đấu tranh giai cấp trong xã hội có giai cấp là một trong những động lực phát triển của xã hội có giai cấp đối kháng; tính tất yếu của chuyên chính vô sản, về thái độ phải đập tan nhà nước tư sản, v.v. Phê phán Cương lĩnh Gôta phát triển lý luận về hình thái kinh tế - xã hội, trình bày tư tưởng về hai giai đoạn phát triển của chủ nghĩa cộng sản. Chống Đuy-rinh, Biện chứng của tự nhiên, Tư bản, v.v phát triển cụ thể nhiều vấn đề về phép biện chứng, quan hệ giữa triết học với khoa học tự nhiên, phê phán các quan điểm sai trái; phân tích xã hội tư bản chỉ ra tính tất yếu của sự ra đời nhà nước vô sản, v.v sau khi Mác mất Ăngghen đã biên tập xuất bản tập 2, 3 của bộ Tư bản, hoàn thành những tác phẩm triết học quan trọng như: Nguồn gốc của gia đình, của chế độ tư hữu và của nhà nước; Lútvích Phoiơbắc và sự cáo chung của triết học cổ điển Đức.
4. Thực chất và ý nghĩa của cuộc cách mạng trong triết học do C.Mác và Ph.ăngghen thực hiện
Thực chất cuộc cách mạng trong triết học do Mác và Ăngghen thực hiện thể hiện ở những điểm chủ yếu sau:
Thứ nhất, khắc phục sự tách rời giữa thế giới quan duy vật và phương pháp biện chứng trong triết học trước đó, Mác và Ăngghen đã tạo ra sự thống nhất hữu cơ giữa chủ nghĩa duy vật và phương pháp biện chứng là chủ nghĩa duy vật biện chứng. Đây là bước phát triển cách mạng trong triết học do Mác và Ăngghen thực hiện.
Thứ hai, sáng tạo ra chủ nghĩa duy vật lịch sử làm cho triết học của C.Mác và Ph.Ăngghen trở nên triệt để. Trước khi triết học Mác ra đời chưa có một nhà triết học nào giải thích được một cách duy vật lĩnh vực lịch sử - xã hội - tinh thần. Triết học Mác ra đời đã khắc phục được những hạn chế này.
Thứ ba, với sự sáng tạo ra chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử Mác và Ăngghen đã khắc phục sự đối lập giữa triết học với hoạt động thực tiễn. Triết học của hai ông trở thành công cụ nhận thức và cải tạo thế giới của nhân loại tiến bộ. Triết học của hai ông đã gắn bó với phong trào cách mạng của giai cấp vô sản, còn phong trào vô sản cần đến sự chỉ đường, dẫn dắt của triết học này.
Thứ tư, với sự ra đời của triết học Mác, Mác và Ăngghen đã khắc phục sự đối lập giữa triết học với các khoa học cụ thể. Trước khi triết học Mác ra đời thì triết học hoặc là đối lập với các khoa học cụ thể, hoặc là hoà tan vào nó. Từ khi triết học Mác ra đời thì quan hệ giữa triết học Mác với các khoa học cụ thể là quan hệ biện chứng, tác động qua lại lẫn nhau. Các khoa học cụ thể cung cấp cho triết học Mác các thông số, dữ liệu khoa học, tài liệu khoa học để triết học Mác khái quát, còn triết học Mác đóng vai trò thế giới quan, phương pháp luận chung nhất cho các khoa học cụ thể.
Ý nghĩa của cuộc cách mạng trong triết học do C.Mác và Ph.ăngghen thực hiện
Cuộc cách mạng trong triết học do Mác và Ăngghen thực hiện có ý nghĩa hết sức to lớn:
- Làm cho triết học thay đổi cả về vai trò, vị trí, chức năng trong hệ thống tri thức khoa học.
- Làm cho chủ nghĩa xã hội không tưởng có cơ sở trở thành khoa học.
- Làm cho triết học Mác trở thành công cụ nhận thức và cải tạo thế giới của giai cấp công nhân và nhân dân lao động.
5. Giai đoạn Lênin trong sự phát triển triết học Mác
V.I.Lênin (1870 - 1924) - người đã vận dụng sáng tạo và phát triển triết học Mác vào thời đại đế quốc chủ nghĩa và bắt đầu xây dựng CNXH hiện thực. Ông đã có những đóng góp to lớn vào việc phát triển chủ nghĩa Mác nói chung, triết học Mác nói riêng.
Khi chống lại những người dân tuý Nga, Lênin đã phát triển lý luận hình thái kinh tế - xã hội của Mác, bảo vệ sự trong sáng của triết học Mác trước sự xuyên tác của phái dân tuý Nga; phát triển quan niệm duy vật về lịch sử. Điều này thể hiện rõ trong các tác phẩm: “Những "người bạn dân" là thế nào và họ đấu tranh chống những người dân chủ - xã hội ra sao?”; “Nội dung kinh tế của chủ nghĩa dân tuý và sự phê phán trong cuốn sách của ông Xtơruvê về nội dung đó”.
Khi chống lại chủ nghĩa duy tâm chủ quan của phái Makhơ, Lênin đã khái quát được những thành tựu khoa học đương thời, đưa ra định nghĩa nổi tiếng về vật chất, khắc phục được cuộc khủng hoảng về thế giới quan trong vật lý học; bổ sung nhiều vấn đề quan trọng cho lý luận nhận thức duy vật biện chứng. Điều này được Lênin trình bày trong “Chủ nghĩa duy vật và chủ nghia xkinh nghiệm phê phán” v.v.
Lênin có nhiều đóng góp vào việc phát triển phép biện chứng, lý luận nhận thức, vấn đề nhà nước và cách mạng, vấn đề chuyên chính vô sản, vấn đề xây dựng Đảng kiểu mới v.v
Có thể nói, Lênin đã tạo ra một giai đoạn mới trong sự phát triển triết học Mác. Nhưng cần lưu ý rằng, về bản chất triết học của Lênin là triết học Mác.
TÓM LƯỢC NHỮNG VẤN ĐỀ CẦN GHI NHỚ
Trong chương này, anh/chị cần ghi nhớ:
1/ Sự ra đời của triết học Mác là một tất yếu khách quan. Tính tất yếu khách quan này được quy định bởi điều kiện kinh tế - chính trị - xã hội, tiền đề khoa học tự nhiên và tiền đề lý luận.
2/ Sự hình thành chủ nghĩa Mác nói chung, triết học Mác nói riêng là một quá trình (chuyển từ dân chủ cách mạng, duy tâm sang chủ nghĩa cộng sản và duy vật biện chứng của Mác và Ăngghen).
3/ Triết học của Mác và Ăngghen được V.I.Lênin bổ sung, phát triển trong điều kiện mới về khoa học, chủ nghĩa xã hội trở thành hiện thực và chủ nghĩa tư bản đã chuyển sang giai đoạn đế quốc chủ nghĩa. Về bản chất triết học của V.I.Lênin là triết học Mác.
3/ Sự ra đời triết học Mác là một cuộc cách mạng trong lịch sử triết học. Thực chất cuả cuộc cách mạng này được thể hiện ở chỗ: khắc phục sự đối lập giữa thế giới quan duy vật và phương pháp biện chứng tạo ra sự thống nhất giữa chủ nghĩa duy vật và phương pháp biện chứng; sáng tạo ra chủ nghĩa duy vật lịch sử; khắc phục sự đối lập giữa triết học và hoạt động thực tiễn của con người; khắc phục sự đối lập giữa triết học với các khoa học cụ thể.
Chúc anh/chị thành công!
CÂU HỎI SUY LUẬN
Câu hỏi 1: Vì sao nói sự ra đời của triết học Mác là một tất yếu lịch sử?
Gợi ý: Phải chỉ ra được sự ra đời triết học Mác là do những điều kiện khách quan và chủ quan quy định thống nhất với nhau tạo nên.
Điều kiện khách quan là những điều kiện kinh tế - chính trị - xã hội; nguồn gốc về lý luận, tiền đề về khoa học tự nhiên khi ấy.
Điều kiện chủ quan là tình yêu thương nhân dân lao động của Mác và Ăngghen, sự thông minh, cần cù chịu khó làm việc, v.v của hai ông.
Câu hỏi 2: Phân tích thực chất cuộc cách mạng trong triết học do Mác và Ăngghen thực hiện?
Gợi ý: Phân tích làm rõ 4 điểm chủ yếu sau :
- Mác và Ăngghen đã khắc phục sự đối lập giữa thế giới quan duy vật và phương pháp biện chứng trước đây trong lịch sử triết học, tạo ra sự thống nhất hữu cơ giữa chủ nghĩa duy vật và phương pháp biện chứng. Đó là chủ nghĩa duy vật biện chứng. So sánh trong lịch sử triết học để thấy có các nhà triết học duy vật nhưng siêu hình, máy móc; hoặc có các nhà biện chứng nhưng lại duy tâm. Nghĩa là thế giới quan duy vật và phương pháp biện chứng thường tách rời nhau. Trong triết học của Mác, thế giới quan duy vật thống nhất hữu cơ với phép biện chứng.
- Sáng tạo ra chủ nghĩa duy vật lịch sử là biểu hiện vĩ đại nhất của cuộc cách mạng trong triết học do Mác và Ăngghen thực hiện. Chứng minh rằng trong lịch sử triết học chưa có đại biểu nào duy vật triệt để, tức là giải thích lịch sử, xã hội vẫn duy tâm.
- Với sự sáng tạo ra chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử Mác và Ăngghen đã khắc phục sự đối lập giữa triết học với hoạt động thực tiễn của con người. Triết học của 2 ông đã trở thành công cụ lý luận nhận thức và cải tạo thế giới của nhân loại tiến bộ.
- Với sự sáng tạo ra chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, Mác và Ăngghen đã giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa triết học với các khoa học cụ thể. Quan hệ giữa triết học Mác với các khoa học cụ thể là quan hệ biện chứng, tác động qua lại lẫn nhau.
CÂU HỎI ÔN TẬP:
1. Vì sao chúng ta gọi triết học do Mác, Ăngghen sáng lập là triết học Mác-Lênin ?
Gợi ý: Đọc phần Giai đoạn Lênin trong sự phát triển triết học Mác để chứng minh rằng, triết học Mác do Lênin phát triển trong điều kiện mới một cách sáng tạo.
2. Từ lịch sử triết học Mác - Lênin anh (chị) rút ra được những bài học gì cho việc nghiên cứu triết học?
Gợi ý :
- Phải thấm nhuần thế giới quan duy vật và phương pháp biện chứng.
- Chống chủ nghĩa xét lại và chống chủ nghĩa giáo điều khi vận dụng triết học Mác-Lênin.
- Phải kiên định lập trường của chủ nghĩa Mác-Lênin trong đổi mới.
- Phải biết phát triển triết học Mác-Lênin vào thực tiễn Việt Nam, nhưng không được tuyệt đối hoá điều kiện dân tộc để không xa vào chủ nghĩa xét lại. Chính sự bổ sung cho triết học Mác trong điều kiện mới ở Việt Nam sẽ góp phần phát triển triết học Mác.