Vũ Đình Hòa: Tôi đam mê toán học
Giới toán học ở Việt Nam không ai không biết tên ông – Vũ Đình Hòa, thành viên của đoàn học sinh Việt Nam đầu tiên thi Olympic Toán quốc tế 1974, thầy dạy Ngô Bảo Châu từ năm lớp 7 tới khi vào đại học. 36 năm trôi qua, bây giờ ông là một giảng viên toán ở ĐH Sư phạm, trưởng đoàn của nhiều thế hệ học sinh đi thi Olympic Toán. Ông cũng là một vị giám đốc trong tập đoàn FPT. Việc làm toán bây giờ, đối với ông, giống như một thú chơi.
Gia đình Vũ Đình Hòa hiện sống ở phố Trương Định, Hà Nội. Căn nhà của ông được thiết kế khá đẹp, sang trọng. Chủ nhà với cặp kính cận dày cộp, nói chuyện rất cởi mở, hòa nhã, phong thái của một trí thức. Nhìn ông, không còn thấy nét gì của cậu học trò gầy gò, ốm yếu năm xưa khi đi thi toán Quốc tế. Đó là vào tháng 7 năm 1974, Việt Nam lần đầu tiên cử đội tuyển dự thi Olympic Toán.
Năm ấy, thể lực Hòa rất kém. Anh bị viêm xoang, thêm chứng suy nhược thần kinh nặng, nhất là sau khi nhận được tin người anh trai hy sinh trong chiến dịch Đường Chín Nam Lào. Trong đội tuyển, Hòa được đánh giá là gương mặt xuất sắc nhất. Tuy thế, bệnh tật đã hại anh: Hòa bị ốm, phải đi viện trước ngày thi, và chỉ đạt huy chương bạc. Mặc dù vậy, đoàn vẫn gây tiếng vang lớn tại cuộc thi; Hòa và các bạn nổi tiếng đến mức báo chí trong nước đưa tin rất đậm đà, và càng đậm bao nhiêu thì việc các anh tiếp tục với hoạt động nghiên cứu khoa học về sau đó càng bị coi như sự “biến mất lặng lẽ” bấy nhiêu.
Hụt một lần du học
Tất nhiên là Hòa không biến mất. Nhưng sự nghiệp của một nhà khoa học không thể có những hoạt động rầm rộ, được công chúng để mắt theo dõi như một diễn viên hay ca sĩ được. Riêng đối với Vũ Đình Hòa, sự nghiệp riêng của ông còn có phần lận đận với những lần du học “hụt”, một lần bị cho ra khỏi biên chế, và vô số lần va chạm theo cách này cách khác với hệ thống hành chính của cơ quan Nhà nước – những thứ mà các nhà toán học như ông sợ nhất.
Trên đường từ CHDC Đức về nước, đoàn Olympic Toán Việt Nam ghé qua Liên Xô. “Chúng tôi nghe mấy bác ở Đại sứ quán nói là Đại học Lomonosov muốn giữ cả năm đứa lại, tặng cho năm suất học bổng”. Hồi ấy Liên Xô thực sự là “thiên đường XHCN”, được tin ấy thì học sinh nào cũng thích. Nhưng Hòa nghe nói (cũng chỉ “nghe nói”) rằng “nhà mình trả lời là cả đoàn phải về nước theo sự sắp đặt của Chính phủ”.
Một năm sau, nhờ thành tích quốc tế đã đạt, cả đoàn được đặc cách vào thẳng đại học, đi nước ngoài, trong đó bốn người sang Liên Xô, riêng Vũ Đình Hòa được phân công đi Đức, du học ngành toán ở Đại học Tổng hợp Ernst-Moritz-Arndt. Học giỏi xuất sắc, anh được làm chuyển tiếp sinh, rồi tiến sĩ. Bảo vệ xong, anh nhận được giấy đề nghị làm tiến sĩ khoa học (TSKH) của phía Đức, nhưng theo quy định, anh phải quay lại Việt Nam làm một số thủ tục giấy tờ. Ngày cuối cùng của năm 1984, Hòa về nước.
Đến đây thì câu chuyện cười đầu tiên đối với một nhà khoa học “Tây học” bắt đầu. Ông Hòa kể một cách hài hước: “Phải nói là hồi ấy Việt Nam lắm tiêu cực, còn tôi thì… cái dở nhất là không biết hút thuốc lá. Tôi nộp giấy tờ ở Bộ Đại học mà mãi không được nhận. Mất mấy tháng trời. Tôi bèn hỏi mẹ một đứa bạn, vốn làm nghề hành chính: “Không hiểu sao mãi mà cháu không nộp giấy tờ được”. Cô ấy kêu lên: “Giời ơi là giời, ở đây nói chuyện phải có thuốc lá cơ!”. Tôi hiểu ra, đi mua cả một bao thuốc lá mang đến. Thực ra các ông ấy cũng không hút hết đâu, chỉ cần 1-2 điếu thôi, nhưng về nguyên tắc là cứ phải có thuốc lá, “Sông Cầu là đầu câu chuyện” mà”.
Cuối cùng khâu giấy tờ cũng xong, nhưng Hòa không sang Đức được. Hơn thế nữa, mãi nửa năm sau anh mới được phân công đi làm ở phân viện Tính toán và Điều khiển, Viện Khoa học Việt Nam.
Chật vật chuyện biên chế
Thế hệ của Vũ Đình Hòa là những người Việt Nam đầu tiên được tiếp xúc với máy vi tính, và dân toán như ông thì càng có khả năng để trở thành những chuyên gia, doanh nhân trong lĩnh vực CNTT, “nghèo” nhất cũng là lập trình viên (tập đoàn FPT được thành lập vào thời gian này, năm 1989). Nếu “nhảy” sang CNTT, có thể bây giờ ông cũng đã là một triệu phú, một doanh nhân thành đạt. Nhưng Vũ Đình Hòa mê toán chứ không ham kinh doanh. Anh từ bỏ cơ hội làm việc cho FPT, sang Đức học tiếp. Những năm ấy là thời kỳ nước Đức thống nhất, du học sinh Việt Nam “bơ vơ”, anh tự lo tiền ăn học bằng nhiều nghề: bán bảo hiểm, viết chương trình máy tính, phiên dịch… Đầu năm 1997, anh trở về nước với tấm bằng TSKH. Về rồi mới biết mình đã bị cắt biên chế từ năm 1990.
“Cắt mà không báo gì cả, cắt trong khi bài tôi gửi về thì vẫn được đăng trên tạp chí của Viện” – Vũ Đình Hòa kể lại. “Các ông tổ chức chỉ giải thích: “Cậu không có tên trong Viện vì viện cũ là Viện Tính toán Điều khiển, giờ đổi tên là Viện Công nghệ Thông tin rồi”. Thế là tôi không được hưởng lương tí gì suốt 7 năm trời. Lại phải xin vào, thi công chức, tính chế độ mới hoàn toàn, coi như người mới đi làm”.
Vị TSKH cười hì hì. Ông Hòa trẻ hơn rất nhiều so với tuổi 53 bây giờ, có lẽ cũng nhờ tính cách thoải mái, ít tham vọng, ít bức xúc mà ông “rèn” được sau nhiều năm làm việc trong cơ quan Nhà nước. Bệnh xoang đã khỏi. Ông bảo: “Hồi thi toán quốc tế là lúc mình ốm yếu nhất, khổ nhất đấy. Càng về sau càng khỏe lên, nhất là từ khi xác định là mình chả cần gì, chả tham vọng gì. Sinh ra trên đời đã là niềm vui lớn rồi. Chết đi, có đem được gì theo đâu mà phải đấu đá vật lộn”.
Nếu không xác định được như thế, có lẽ Vũ Đình Hòa đã phải rất khổ sở. Người làm khoa học vốn thích sự rõ ràng, chính xác. Nhưng môi trường dành cho họ lại phức tạp, lẫn lộn, khó đánh giá. “Có lần một đồng nghiệp của tôi đề nghị lãnh đạo Viện là nếu có đề tài nghiên cứu khoa học thì nên phân chia đều cho anh em làm. Các sếp kêu lên, bảo nếu thế thì lãnh đạo phải từ chức hết. Tôi cũng không hiểu vì sao mà sếp lại phải từ chức nếu chia đều đề tài cho anh em? Tôi chỉ thấy phức tạp quá, mệt quá, ôi cái chuyện quan hệ, bè cánh…”. Suốt 5 năm ở Viện, ông không được dự lấy một seminar nào (vì có tổ chức đâu), thiếu sự trao đổi, thiếu môi trường thông tin, chuyên môn cùn mòn dần. Lương thấp, nếu muốn có thu nhập thêm thì phải có dự án, mà muốn tham gia dự án lại phải có quan hệ… Cuối cùng, ông chia tay cơ quan, chuyển sang Đại học Sư phạm – trường cũ thời cấp ba.
Vẫn mê toán
Bây giờ thì ông vui vẻ với công việc của một giảng viên đại học, người dẫn đầu những đội tuyển học sinh Việt Nam đi thi Olympic Toán quốc tế. Sự hài lòng tất nhiên cũng chỉ là tương đối: So với thời ông, chất lượng đầu vào của ngành toán, CNTT hiện nay rất thấp, điểm thi ĐH lấy gần sát điểm sàn. Nhiều sinh viên nghèo ở tỉnh, cố thi đậu vào đại học để sau này có việc làm, trong giờ học chỉ ngủ. Thầy Hòa thương, không nỡ quát mắng các em, nhưng thấy ở số đông sinh viên ngày nay, niềm đam mê sao mà ít? Thật chẳng giống ông – người được ví là “nhìn ra vẻ đẹp của toán học như nhà tạo mẫu thấy các chân dài trên sàn diễn”; người có thể cắm cúi làm toán không ngẩng lên, không hề biết xung quanh ồn ã chuyện gì. Hòa đã yêu toán như thế từ khi còn nhỏ, gia đình rất nghèo, tám anh chị em, các chị đều phải bỏ học đi làm sớm.
Ngoài thời gian làm ở trường, Vũ Đình Hòa cũng được mời làm giám đốc Trung tâm Bồi dưỡng Tài năng Công nghệ Trẻ FPT. Cuộc sống vật chất của ông khá ổn, gia đình hạnh phúc, đã có cháu ngoại. Nhưng bây giờ, ông làm toán chỉ để cho vui, “lúc nào không có việc gì thì lại làm toán, như là một hình thức giải trí”. Ông không lấy nghiên cứu toán học là sự nghiệp nữa, nhưng chuyện này cũng là bình thường trong giới khoa học ở Việt Nam lâu nay: “Từ hồi ở Viện, mình đã thấy nếu chỉ làm toán không thì rất khó sống, phải có nghề gì đó. Thật sự tất cả mọi người Việt Nam, mỗi người chắc phải có 2-3 nghề đúng không?”.
Chính phủ đang triển khai kế hoạch đầu tư 651 tỷ đồng phát triển ngành toán ở Việt Nam. Khoản đầu tư khiến nhiều người chú ý. Bạn bè hỏi ông Hòa: “Vừa rồi có tổ chức tập huấn cho giáo viên bộ môn toán – tin ở các trường năng khiếu, sao danh sách không có tên cậu? Không thấy tên bất cứ người nào tiếng tăm cả, toàn các ông lạ hoắc”. Vũ Đình Hòa chỉ cười. Ông bảo: “Có lẽ quan trọng là phải có cách làm học sinh thích học toán, tôn trọng, vinh danh các em, miễn thi đại học, thi tốt nghiệp v.v. Như thế tốt hơn. Nói chung kích cầu thì đúng, nhưng vấn đề là cách thức thực hiện thế nào cho hiệu quả. Cuối cùng thì vấn đề đọng lại ở hai từ cơ chế”.Edit