Tính Quy Phạm Và Sự Phá Vỡ Nó Trong Thể Loại Thơ Đường Luật Văn Học Trung Đại Việt Nam-2
Bùi Tuý Phượng
Liên hoàn: là thơ có nhiều bài mà cứ câu cuối của bài trên đem xuống làm câu đầu của bài dưới.
THAN NGHÈO
I
Chưa chán ru mà quấy mãi đây,
Nợ nần dan díu mấy năm nay
Mang danh tài sắc cho nên nợ
Quen thói phong lưu hoá phải vay
Quân tử lúc cùng thêm thẹn mặt
Anh hùng khi gấp cũng khoanh tay
Còn trời, còn đất, còn non nước,
Có lẽ ta đâu mãi thế này.
II
Có lẽ ta đâu mãi thế này.
Non sông lẩn thẩn mấy thu chầy
Đã từng tắm gội ơn mưa móc
Cũng phải xênh xang hội gió mây
Hãy quyết phen này xem thử dã,
Song còn tuổi trẻ chịu chi ngay
Xưa nay xuất xử thường hai lối,
Mãi thế rồi ta sẽ tính đây.
III
Mãi thế rồi ta sẽ tính đây.
Điền viên thú nọ vẫn xưa nay
Giang hồ bạn lữ câu tan hợp,
Tùng cúc anh em cuộc tỉnh say
Toà đá Khương công đôi khóm trúc
Ao xuân Nghiêm tử một vai cày.
Thái bình vũ trụ càng thong thả
Chẳng lợi danh gì lại hoá hay.
IV
Chẳng lợi danh gì lại hoá hay.
Chẳng ai phiền luỵ, chẳng ai rày
Ngoài vòng cương toả chân cao thấp
Trong thú yên hà mặt tỉnh say
Liếc mắt coi chơi người lớn bé
Vểnh râu bàn những chuyện xưa nay
Của trời trăng gió kho vô tận
Cầm hạc tiêu dao đất nước này.
Nguyễn Công Trứ
Thuận nghịch độc: là lối thơ đọc xuôi, đọc ngược đều được, cũng có khi đọc xuôi là thơ nôm mà đọc ngược thành chữ Hán. Đây là lối chơi chữ rất công phu của cha ông ta ngày trước.
CẢNH TÂY HỒ
(Bài đọc xuôi)
Đây vui thực lạ cảnh Tây Hồ!
Trước tự trời kia khéo vẽ đồ
Mây lẫn nước xanh màu tỏ ngọc
Nguyệt lồng hoa thắm vẻ in châu
Cây la, tán rợp, từng cao thấp;
Sóng gợn, cầm tâu, dịp nhỏ to.
Bày khéo thú vui non nước đủ;
Tây Hồ giá ấy dễ đâu so.
(Bài đọc ngược)
So đâu dễ ấy giá Hồ Tây
Đủ nước, non: vui thú khéo bày.
To nhỏ dịp câu cầm gợn sóng
Thấp cao từng rợp tán lá cây.
Châu in vẻ thắm hoa lồng nguyệt,
Ngọc tỏ màu xanh nước lộn mây.
Đồ vẻ khéo kia trời tự trước;
Hồ Tây cảnh lạ thực vui đây.
Vô danh
Yết hậu: Là bài thơ có bốn câu thì ba câu đủ chữ, còn một câu cuối chỉ có một chữ. Nhưng nghĩa của chữ này hàm ý cả nội dung của toàn bài.
Sống ở nhân gian đánh chén nhè
Thác về âm phủ cắp kè kè
Diêm vương mới hỏi: Mang gì dấy?
- Be!
Phạm Thái
Lục ngôn thể: Là lối thơ thất ngôn xen vào vài câu sau tiếng. Viết lối thơ này nổi tiếng nhất là Nguyễn Trãi, Nhóm Hội Tao Đàn và Nguyễn Bỉnh Khiêm.
THUẬT HỨNG XXIV
Công danh đã được hợp về nhàn
Lành dữ âu chi thế nghị khen
Ao cạn vớt bèo cấy muống
Đìa thanh phát cỏ ương sen
Kho thu phong nguyệt đầy qua nóc
Thuyền chở yên hà nặng vạy then
Bui một tấc lòng trung lẫn hiếu
Mài chăng khuyết, nhuộm chăng đen.
Nguyễn Trãi
Tiệt hạ: là lối thơ mà câu nào cũng bỏ lửng như bị ngắt bớt ở cuối, nhưng ý nghĩa rõ rệt, người đọc đoán mà hiểu được.
KHÔNG ĐỀ
Thác bức rèm châu chợt thấy mà…!
Chẳng hay người ngọc có hay đà …
Nét thu dợn sóng hình như thể ...
Cung nguyệt quang mây nhác ngỡ là...
Khuôn khổ ra chiều người ở chốn...
Nết na xem phải thói con nhà...
Dở dang nhắn gửi xin thời hay...
Tình ngắn, tình dài chút nữa ta...
Vô danh
Vĩ tam thanh: là lối thơ ba tiếng cuối cùng của mỗi câu thơ, chữ nào cũng có âm giống nhau.
KHÔNG ĐỀ
Tai nghe gà gáy tẻ tè te.
Bóng ác vừa lên hé hẻ hè.
Non một chồng cao von vót vót,
Hoa năm sắc nở loẻ loè loe.
Chim, tình bầu bạn kia kìa kỉa
Ong, nghĩa vua tôi nhe nhẻ nhè.
Danh lợi mặc người ti tí tỉ.
Ngủ trưa chưa dậy khoẻ khoè khoe.
Vô danh
Song điệp: Là lối thơ mỗi câu hoặc ở đầu, hoặc ở cuối có đặt hai cặp điệp tự.
KHÔNG ĐỀ
Vất vất, vơ vơ cũng nực cười!
Căm căm, cúi cúi có hơn ai?
Nay còn chị chị, anh anh đó;
Mai đã ông ông, mụ mụ rồi
Có có, không không, lo hết kiếp;
Khôn khôn, dại dại chết xong đời.
Chi bằng láo láo, lơ lơ vậy,
Ngủ ngủ, ăn ăn nói chuyện chơi.
Vô danh
Hoạ vận: là bài thơ gieo đúng các chữ vần của bài thơ trước – tức là bài thơ xướng - để đáp lại nghĩa của bài trước hoặc biểu hiện thái độ đồng tình hoặc phản đối lại.
Bài xướng: Hỏi Ả Bán Chiếu
Ả ở đâu nay bán chiếu gon ?
Chẳng hay chiếu ấy hết hay còn ?
Xuân thu nay độ bao nhiêu tuổi ?
Đã có chồng chưa được mấy con ?
Nguyễn Trãi
Họa :
Tôi ở Tây hồ bán chiếu gon.
Nỗi chi ông hỏi hết hay còn ?
Xuân thu tuổi mới trăng còn lẻ,
Chồng còn chưa có,có chi con !
Nguyễn Thị Lộ
Dĩ đề vi vận: lấy đầu đề làm vần
KHÔNG CHỒNG TRÔNG BÔNG LÔNG
Bực gì bằng gái chực phòng không
Tơ tưởng vì chưng một tấm chồng,
Trên gác rồng mây ngao ngán nhẽ,
Bên trời cá nước ngẩn ngơ trông.
Mua vui lắm lúc cười cười gượng,
Giả dại nhiều khi nói nói bông.
Mới biết có chồng như có cánh,
Giang sơn gánh vác nhẹ bằng lông.
Nguyễn Khuyến
Tập danh: trong mỗi câu có danh từ gắn với đề tài
MỪNG ÔNG LÃO HÀNG THỊT ĂN THƯỢNG THỌ
Nay tiết mừng ông mới Bảy mươi,
Cổ hy(1) chưa dễ mấy lăm người.
Răng long nhưng hãy còn tinh mắt
Đầu bạc nhưng mà chửa tắc tai.
Bè bạn bày vai kèo (2) chén Lý (3)
Cháu con dưới gối múa sân Lai. (4)
Xưa nay vẫn giữ lòng chân thực
Chữ đức giả xương máu để đời.
Nguyễn Khuyến
Áp cú: từ cuối của câu trước trở thành từ đầu của câu sau.
CHỪA RƯỢU
Những lúc say sưa, cũng muốn chừa,
Muốn chừa, nhưng tỉnh lại hay ưa,
Hay ưa nên nỗi không chừa được,
Chừa được, nhưng mà cũng chẳng chừa.
Nguyễn Khuyến
Bát điệp: thể thơ trong đó tất cả 8 câu đều có lồng vào một hoặc hai từ giống nhau.
GÁI MUỘN CHỒNG
Ai giám thương đâu gái có chồng
Thương vì một nỗi chực phòng không.
Thương con quốc đực kêu mùa hạ
Thương cái bèo non giạt biển đông
Thương vợ chồng Ngâu duyên chểnh mảng,
Thương cha mẹ nhện số long đong.
Cái thương quân tử thương là thế,
Có giám thương đâu gái muộn chồng.
Khuyết Danh
Phú Đắc: giải thích và phát triển ý của một câu ca dao hay một câu thơ bằng một bài thơ, nhưng nội dung phải phù hợp với sự việc đó.
GIÀ CÒN MUỐN LẤY CHỒNG
Phú Đắc:
Bà già đã bảy mươi tư,
Ngồi trong cửa sổ gửi thư kén chồng
Đã trót sinh ra kiếp má đào,
Bảy mươi tư tuổi có là bao ?
Xuân xanh xấp xỉ hàng răng rụng
Ngày vắng ân cần mảnh giấy trao.
Chữ nhất nhi chung đành đã vậy (1)
Câu tam bất hiếu nữa làm sao (2)
May mà lấy được ông chồng trẻ,
Họa có sinh ra được chút nào ?
Nguyễn Khuyến
Vấn nghi: Câu thơ nào cũng theo thể hỏi, nên sau mỗi câu đều đặt được dấu hỏi cả.
VẤN NGUYỆT
Trải mấy thu nay vẫn hãy còn ?
Cớ sao khi khuyết lại khi tròn ?
Hỏi con Ngọc thỏ đà bao tuổi ?
Chớ chị Hằng Nga đã mấy con ?
Đêm thẳm cớ chi soi gác tía ?
Ngày xanh còn thẹn với vừng son ?
Năm canh lơ lửng chờ ai đó ?
Hay có tình riêng với nước non ?
Vô danh
Liên ngâm, hoặc liên cú: Là một bài thơ do nhiều người cùng làm; cứ lần lượt mỗi người đọc một hai câu liên tiếp cho đến khi thành bài.
CẢNH HỒ TÂY
(Bài thơ này do bà Liễu Hạnh, cùng các ông Phùng Khắc Khoan; ông họ Lý; ông họ Ngô đi chơi thuyền ở Hồ Tây rồi ngâm vịnh mà thành.)
Liễu: Hồ Tây riêng chiếm một bầu trời,
Lý: Bát ngát tứ mùa rộng mắt coi.
Cõi ngọc xanh xanh làng phía cạnh.
Phùng: Trâu vàng biêng biếc nắng vành khơi,
Che mưa nhà lợp và gian cỏ,
Ngô: Chèo gió ai bơi một chiếc chài
Râu thủng chó đua đàn sủa tiếng,
Lý: Trời hôm bếp thổi khói tuôn hơi.
Mơn mơn tay lái con chèo quế,
Phùng: Xàn xạt mình deo chiếc áo tơi.
Thuyền Phạm phất phơ chơi bể rộng,
Ngô: Bè Trương thấp thoáng thr sông trời.
Đò đưa bãi lác tai dồn dã,
Lý: Giọng hát bờ lau tiếng thảnh thơi.
Cò xuống đua qua vùng cát đậu,
Phùng: Diều bay, sẽ liệng đám mây chơi.
Khúc ca trong đục ầm bến nước.
Ngô: Quầng mắt xanh đen sạch bụi đời.
Đầu gối lọng hà lai láng chuyện
Lý: Tay soi tiền giáp lả lơi cười.
Trốc sen ngả nón chứa rau búp,
Phùng: Đáy nước dìm phao bắt ca tươi
Có lúc hoa kề bày tiệc rượu,
Ngô: Hoạ khi tựa bóng đứng đầu mui.
Say rồi cởi áo quăng dòng mát,
Lý: Tắm đoạn, xoay quần hóng gió phơi.
Trẻ mục Yên hoa bày tiệc rượu
Phùng: Lũ tiều Thượng uyển hẹn lời dai.
Bắt cò cứ vững ngồi rình bụi,
Ngô: Mò ngọc khen ai khéo lặn ngòi.
Tay lưới thế thần khôn mắc vướng,
Lý: Lưỡi câu danh lợi nhẹ tham mồi .
Hạ rồi bến mát còn yêu nắng,
Phùng: Đông hết thành xuân chửa thấy mai
Thú cảnh yên hà sang dễ đọ,
Ngô: Sóng lòng trần tục dạ hồ vơi.
Xe săn Vị thuỷ tha hồ hỏi,
Lý: Thuyền tới Đào nguyên mặc sức bơi.
Chuông sớm giục thanh lòng Phật đó,
Liễu: Trăng tròn soi một bóng tiên thôi.
(Nguyên văn bằng chữ Hán trong Truyện Liễu Chúa được Phan Kế Bính dịch ra chữ Nôm)
2.5.2. Nghệ thuật tổ chức câu thơ, bước đầu manh nha hình thức câu thơ điệu nói
Theo ý kiến của Trần Đình Sử trong công trình Mấy về đề về thi pháp văn học trung đại Việt Nam, chúng tôi tóm tắt đặc điểm của câu thơ trung đại nói chung trong đó có cách biểu của câu thơ Đường luật như sau:
Trước hết, ở các nhà thơ trung đại thường vắng cách biểu thị trực tiếp của chủ thể trữ tình dưới dạng thức “tôi”, “ta”, “chúng ta”. Câu thơ do đó thiếu vắng chủ từ biểu thị một chủ thể, tạo ra một sự cảm nhận mơ hồ, phiếm chỉ, một chủ thể có tính tổng hợp
Ngàn mai gió cuốn chim bay mỏi
Dặm liễu sương sa khách bước dồn
Thứ hai, từ đặc điểm vừa nêu dẫn đến một biểu hiện nữa trong thơ trữ tình trung đại: khi trữ tình, nhà thơ không chỉ hướng người đọc vào một miền lý tưởng, hoài tưởng trong tâm tư, mà còn hướng người đọc vào vị thế, địa vị, cảnh ngộ của chính mình trong thế giới. Cái họ muốn khêu gợi đồng cảm không chỉ là cảm xúc của họ, tâm trạng họ, mà chủ yếu là cảnh ngộ của họ, vị thế của họ, tình cảm mà họ thể nghiệm:
Cổ kim hận sự thiên nan vấn
Phong vận kỳ oan ngã tự cư
(Độc Tiểu Thanh ký – Nguyễn Du)
“Ngã” là từ Nguyễn Du chỉ bản thân mình.
Thứ ba, cũng từ những đặc điểm “câu thơ thiếu chủ thể” vừa nêu, nên thơ trung đại là lấy cảm xúc từ nghe nhìn nên yếu tố họa rất phát triển thi trung hữu họa:
Sóng biếc theo làn hơi gợn tí
Lá vàng trước gió khẽ đưa vèo
(Thu điếu – Nguyễn Khuyến)
Thứ tư, theo nguyên tắc cảm nhận toàn vẹn của người trung đại, thơ văn trung đại dù ngắn hay dài (có khi lên đến hàng trăm, nghìn câu) vẫn có một đặc điểm chung là không chia đoạn mà nó là một chuỗi liên tục, liền mạch.
Sự phá vỡ sự toàn vẹn bằng cách chia khổ, ta có thể gặp trong thơ Tú Xương mà Năm mới chúc nhau và Đêm xuân trời mưa, … là những ví dụ của biểu hiện phi quy phạm.
Tóm lại, nhìn chung thơ trung đại không phát triển năng lực giao tiếp trực tiếp của lời thơ, nó không hướng tới việc trò chuyện với người đọc, mà giao tiếp gián tiếp. Nó không nói với ai, mà nói với trời đất, chính mình bằng năng lực cảm nhận nghe nhìn, suy cảm, và bằng cách đó nó phát huy năng lực cảm giác tưởng tượng, liên tưởng hết sức sắc bén, tinh tế. Nhưng như vậy nó chỉ đóng khung giao tiếp trong phạm vi những người tri thức, có học thức.
Từ những đặc điểm chung nhất đó, chúng tôi khảo sát từ nội sinh của các tác phẩm thơ Đường luật, đặc biệt là ở thế kỷ XVIII – XIX, khi nhu cầu dân chủ hoá lên cao, thì những biểu hiện trong câu thơ có khác. Các nhà thơ mượn lời của người khác để tự tình, tự trào, giễu cợt, mỉa mai:
Tao ở nhà tao tao nhớ mi
Nhớ mi tao mới bước chân đi
(Bỡn nhân tình – Nguyễn Công Trứ)
Khéo khéo đi đâu lũ ngẩn ngơ
Lại đây chị dạy học làm thơ
Hồ Xuân Hương
Tôi nghe kẻ cướp nó lèn ông
Nó lại lôi ông đến giữa đồng
(Hỏi thăm quan tuần mất cướp – Nguyễn Khuyến)
Anh mừng cho chú đỗ ông Nghè
Chẳng đổ thì trời cũng chẳng nghe
(Mừng ông nghè mới đỗ - Nguyễn Khuyến)
Đến mai mua nứa ông mần lại
Đù mẹ đù cha cái dát giường
(Chửi dát giường – Tú Xương)
2.5.3. Nhịp thơ
Văn học nói chung và thơ trữ tình nói riêng bao giờ cũng quan tâm tới vấn đề nhịp điệu. Nhờ nhịp điệu gắn liền với những chỗ ngừng, ngắt được phân bố hợp lý căn cứ vào quy luật tổ chức nội dung ý nghĩa của ngôn từ và khả năng chú ý, theo dõi cũng như nhịp thở tuỳ trạng thái cảm xúc của độc giả mà chuỗi ngôn từ bất định kia được cấu trúc, trở thành tác phẩm nghệ thuật, có khả năng gây xúc động và đưa lại những nhận thức mới về cuộc sống, nhịp điệu trong thơ phải đảm trách nhiệm vụ vừa phân định lớp lang của dòng cảm xúc được diễn tả bằng những âm thanh mang nghĩa, vừa đóng vai người thuyết minh tích cực, tận tuỵ cho chính dòng cảm xúc ấy, khi lượng ngôn từ dùng để dẫn giải, rào đón, mô tả đã được rút lại gần ở mức tối thiểu”.
Yếu tố tạo nên nhịp điệu quan trọng nhất ở đây là những chỗ ngừng, chỗ ngắt trong sự phân bố mau, thưa đa dạng của chúng; là độ dài, ngắn khác nhau của các quãng nghỉ hơi sau mỗi khổ thơ, đoạn thơ.
Tóm lại: có thể nói nhịp thơ là cái được nhận thức thông qua toàn bộ sự lặp lại có tính chất chu kỳ, cách quãng hoặc luân phiên theo thời gian của những chỗ ngừng, chỗ ngắt và của những đơn vị văn bản như câu thơ (dòng thơ), khổ thơ, thậm chí là đoạn thơ
Thơ Đường luật, các câu thất ngôn phần lớn ngắt nhịp 4/3:
Bước tới đèo Ngang, bóng xế tà
Cỏ cây chen đá, lá chen hoa
(Qua đèo Ngang - Bà huyện Thanh Quan)
Kình tiết thanh tu khí phách đương
Dục tương chích thủ vãn đồi dương
(Vịnh Chu Văn An - Nguyễn Khuyến)
Son phấn hữu phần liên tử hậu
Văn chương vô mênh luỵ phần dư
(Độc Tiểu Thanh ký - Nguyễn Du)
Nhưng cũng có những hiện tượng phá vỡ quy tắc ngắt nhịp ấy, chúng tôi coi nó như là biểu hiện phi quy phạm thể loại.
Phúc của chung, thì họa của chung
Nhằm thì họa khỏi, phúc về cùng
(Bảo kính cảnh giới 5 – Nguyễn Trãi)
Người nhớ vua, nhìn sa đũa ngọc
Kẻ trông chồng ngẫm ruổi mây xanh
(Họa bài vịnh trang, bài 7, Hồng Đức quốc âm thi tập)
Thế Hán, Sở xem đà mấy chốc
Cuộc Tần, Tùy đổi những bao giờ
(Kỳ, Hồng Đức quốc âm thi tập)
Chẳng phải quan mà chẳng phải dân
Ngơ ngơ ngẩn ngẩn hóa ra đần
(Cười mình – Tú Xương)
Bắt chước ai, ta chúc mấy lời
Chúc cho khắp hết cả trong đời
(Chúc năm mới, Tú Xương)
Chẳng phải Ngô cũng chẳng phải ta
Đầu thì trọc lốc áo không tà
Hồ Xuân Hương
2.6. Giọng điệu và ngôn ngữ
Giọng điệu nghệ thuật với tư cách một phạm trù thẩm mỹ, một yếu tố có vai trò hết sức quan trọng trong cấu thành phong cách nhà văn là vấn đề đã được nhận ra từ lâu kể cả trong văn học phương Tây và văn học phương Đông. Nhiều bậc thầy về nghệ thuật ngôn từ, nhiều nhà nghiên cứu đã chỉ ra và chứng minh vai trò quan trọng của giọng điệu (tone) hay “văn khí”, “hơi văn”, “giọng văn” (cách gọi quen thuộc ở Trung Hoa và Việt Nam) không chỉ trong sáng tác mà cả trong nghiên cứu, tiếp cận tác phẩm văn học và phong cách cá nhân nhà văn
2.6.1. Giọng hóm, nhẹ, trong, lành
Trước những hiện tượng “tự nhiên” đáng yêu của đời sống, như: Giữa đường gặp một sư ni, hay một cô tiểu ngủ ngày, Nguyễn Khuyến thể hiện giọng hóm hĩnh, nhẹ mà trong sáng, chỉ qua một hình ảnh, từ ngữ
Người xinh, cái bóng tình tinh cũng...
(Đề ảnh tố nữ)
Bao nả giang sơn một cắp tròn
Nghìn thu sương tuyết vẫn không mòn
Biết chăng chỉ có ông hà bá
Mỉm mép cười thầm với nước non
(Gái rửa ... bờ sông)
Tú Xương thì mượn lời vợ mà trách mình:
Quanh năm mua bán ở mom sông
Nuôi đủ năm con với một chồng … (Thương vợ)
Hồ Xuân Hương cũng nhẹ nhàng:
Ghé mắt trông ngang thấy bảng treo
Kia đền thái thú đứng cheo leo (Đề đền Sầm Nghi Đống)
v.v…
2.6.2. Giọng châm biếm sắc sảo thâm thúy
Châm biếm khác với hóm, nhẹ ở mức độ gay gắt và tính chủ ý của sự phê phán, ở ý nghĩa sâu sắc và mang tnh khái quát xã hội của hình tượng nghệ thuật. Giọng châm biếm thể hiện qua lời văn, hơi văn mạnh mẽ, sắc sảo, cay độc, thâm thúy nhằm vạch trần thực chất cái lỗi thời, lố bịch, xấu xa của đối tượng đáng cười.
Trước những đối tượng hài hước, thậm chí trơ trẽn trong xã hội, giọng châm biếm, mỉa mai xuất hiện:
Ông về đốc học bấy lâu nay
Gần đó mà tôi vẫn chửa hay !...
(Gửi ông đốc học Ngũ Sơn)
Với Tú Xương thì:
Một đoàn thằng hỏng đứng mà trông
Nó đỗ khoa này có sướng không
Trên ghế bà đầm ngoi đít vịt
Dưới sân ông cử ngỏng đầu rồng
(Giễu người thi đỗ – Tú Xương)
Hồ Xuân Hương cũng tát thẳng vào mặt hiền nhân quân tử:
Quan tử dùng dằng đi chẳng dứt
Đi thì không nỡ, ở không xong (Thiếu nữ ngủ ngày)
Hay:
Hiền nhân quân tử ai là chẳng
Mỏi gối chồn chân vẫn muốn leo
Tóm lại hai gam giọng ấy, chúng tôi cho là sự phá cách so sự những gì mà quy phạm đặt ra cho thể loại thơ vốn rất nghiêm ngặt này.
2.6.3. Ngôn ngữ nôm na mà quý phái
Ngôn ngữ đời sống trong thơ Đường luật Việt Nam trung đại
Lớp từ khẩu ngữ được sử dụng linh hoạt, ta có thể gặp nó ngay trong thơ Nguyễn Trãi, TK XV:
Dầu bụt, dầu tiên ai kẻ hỏi,
Ông này đã có thú ông này (Mạn thuật, bài 6)
Ở Hồng Đức quốc âm thi tập cũng có hiện tương câu thơ mang tính chất lời nói:
Trước có đầu, sau có đuôi
Lớn hơn mọi vật gọi là voi
(Voi)
Những từ quen thuộc trong khẩu ngữ dân gian đi vào thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm bỗng trở nên thú vị lạ thường:
Nhá rau lại tiếc mùi canh ngọt
Nếm ếch lại thèm có giống măng
(Bài 90, Bạch Vân quốc ngữ thi)
Bà chúa thơ Nôm Hồ Xuân Hương rất giỏi sử dụng các đại từ nhân xưng, các từ cảm thán, … được sử dụng gần như hết công suất:
Này này chị bảo cho mà biết
Chốn ấy hang hùm chớ mó tay
(Trách Chiêu Hổ, 1)
Thần này ví biết dường này nhỉ
Thà trước thôi đành ở vậy xong
(Lấy chồng chung)
Đến Tú Xương, khẩu ngữ đi vào thơ ông thật tự nhiên và dễ dàng như không có một trở lực ngăn được:
Thì thế mà cũng thi
Ới khỉ ơi là khỉ!
Cũng có những câu thơ như được ghép bằng những nguyên âm:
Á, ớ, u, ơ, ngọn bút chì (Đi thi)
Nguyễn Khuyến cũng là bậc thầy sử dụng khẩu ngữ, xin dẫn bài Lên lão, mà chúng tôi cho là điển hình cho cách thể hiện từ ngữ dân gian như vậy:
Ông chẳng hay ông tuổi đã già
Năm lăm ông cũng lão đây mà
Anh em làng xóm xin mời cả
Xôi bánh trâu heo cũng gọi là
Chú Đáo bên làng lên với tớ
Ông Từ xóm chợ lại cùng ta
Bây giờ đến bậc ăn dưng nhỉ
Có rượu thời ông chống gậy ra
Và ở thơ Đường luật cũng không thiếu những tiếng chửi:
Cha kiếp xin ra phận má hồng (Lấy lẽ - Tú Xương)
Đù cha đù mẹ đứa riêng ai (Ông Hàn – Tú Xương)
Xem hoa, ta chỉ xem bằng mũi
Đếch thấy hơi thơm một tiếng khà (Tạ lại người cho hoa trà – Nguyễn Khuyến)
Cái kiếp tu hành nặng đá đeo
(…) Trái gió cho nên mới lộn lèo (Hồ Xuân Hương)
Tóm lại, ngôn ngữ dân tộc, ngôn ngữ đời sống góp phần quan trọng phá vỡ tính quy phạm đồng thời khẳng định quá trình dân tộc hóa dân chủ hóa thể loại, một thể loại vốn được mệnh danh là nghiêm ngặt, quy phạm vào bậc nhất của văn học Việt Nam trung đại.
3. Biểu hiện tính quy phạm và việc phá vỡ tính quy phạm qua bài thơ Thiếu nữ ngủ ngày của Hồ Xuân Hương
Thiếu nữ ngủ ngày là một bức họa bằng thơ của Hồ Xuân Hương miêu tả những vẻ đẹp đầy ý nghĩa nhân văn của con người trần thế.
Thật vậy, ở hai câu đề Hồ Xuân Hương đã chú ý giới thiệu nhân vật làm đối tượng thẩm mỹ được nêu lên trong đầu đề bài thơ:
Mùa hè hây hẩy gió nồm đông
Thiếu nữ nằm chơi quá giấc nồng…
Câu khai đề được Hồ Xuân Hương ngắt thành nhịp 2 – 3 tạo nên sự khác thường nhằm làm bật nổi những đặc điểm của mùa hè, gợi lên cảm giác nóng bức, ngột ngạt. Tiếp theo danh từ mùa hè là đơn vị câu có kết cấu đảo ngược được Hồ Xuân Hương dùng để nhấn mạnh tính chất bao trùm không gian làm bối cảnh nghệ thuật là một bầu không khí hết sức dịu dàng, mát mẻ thích hợp cho sự nghỉ ngơi của con người.
Trong câu thừa đề, Hồ Xuân Hương dùng danh từ Thiếu nữ là từ Hán – Việt đã được sự sụng trong đầu đề bài thơ gắn với nội dung miêu tả sự xuất hiện của nhân vật trong một tư thế hết sức đặc biệt nhưng lại rất phù hợp với hoàn cảnh lúc bấy giờ. Nhờ có sự miêu tả sinh động, cụ thể nên câu thơ có tác dụng xua tan mặc cảm về cái thói quen ngủ ngày (ngủ trưa) có thể có trong nhận thức người đọc khi mới tiếp xúc với đầu đề bài thơ Thiếu nữ ngủ ngày. Hơn nữa, chính sự miêu tả hợp lí ấy còn có tác dụng làm thể hiện hình tượng người thiếu nữ trong hai câu thực và hai câu luận là có cơ sở.
Ở hai câu thực và hai câu luận, do chọn được thời điểm thích hợp và do phác thảo được những đường nét chung về nhân vật cho nên Hồ Xuân Hương có điều kiện hướng ngòi bút vào việc miêu tả các chi tiết, bộ phận trên thần thể nhân vật và đã khắc họa thành công “bức tranh khỏa thân” nhân vật thiếu nữ. Bằng sự kết hợp bút pháp tả thực với bút pháp ước lệ, chỉ trong bốn câu thơ thất ngôn của bài thơ, Hồ Xuân Hương đã miêu tả một cách sống động, tài tình vẻ đẹp tự nhiên đầy hấp dẫn trên thân thể người thiếu nữ.
Gắn với cách nhìn, cách cảm, cách thưởng thức vẻ đẹp con người của tác giả thơ ca dân gian, Hồ Xuân Hương đã nâng nét bút đầu tiên miêu tả mái tóc là hình ảnh tượng trưng cho tuổi xuân của thiếu nữ. Hồ Xuân Hương không dừng lại ở việc trực tả sự vật như cách miêu tả quen thuộc trong ca dao mà đã thực hiện việc gợi tả theo lối điểm xuyết thật trang nhã của thơ Đường luật. Hồ Xuân Hương không tả hình dáng, màu sắc của mái tóc mà tập trung miêu tả chiếc lược trúc là vật mà thiếu nữ sử dụng để trang điểm nhằm tôn thêm vẻ mượt mà óng ả của mái tóc tuổi xuân.
Sau khi tả mái tóc, Hồ Xuân Hương miêu tả tiếp một bồ phận quan trọng, tượng trưng cho sức trẻ của thiếu nữ một cách tế nhị. Hồ Xuân Hương đã vận dụng cách gọi tên sự vật kín đáo trong câu tục ngữ “Nương long mỗi ngày mỗi cao/ Má đào mỗi ngày mỗi đỏ” cho nên sự vật được miêu tả ở đây sinh động và trở thành một hình ảnh nửa hư nửa thực đầy hấp dẫn.
Ở câu thực thứ hai, Xuân Hương cũng không miêu tả đường nét, hình thể của nương long mà tập trung miêu tả cái yếm đào là vật mà thiếu nữ nhằm tôn thêm vẻ đẹp đầy đặn của nương long. Nhờ việc sử dụng chính xác các cụm động từ biếng cài, trễ xuống cho nên các bộ phận tương trưng cho sức trẻ, cho tuổi xuân tràn đầy sinh lực của thiếu nữ nhà thơ gợi được những nét đẹp trên thân thể của người con gái đang trong tư thế ngủ quá giấc nồng:
Lược trúc biếng cài trên mái tóc
Yếm đào trễ xuống dưới nương long…
Đến hai câu luận, tác giả đi sâu miêu tả vẻ đẹp thân thể nhân vật trung tâm của bài thơ (thiếu nữ) theo trật tự từ ngoài vào trong, từ trên xuống dưới nhằm tập trung khám phá vẻ đẹp ở những bộ phận kín đáo với những chi tiết tinh vi cụ thể. Điểm nổi bật trong hai câu luận là việc tác giả đã phối hợp sử dụng nghệ thuật ước lệ với phương thức tu từ ẩn dụ khá nhuần nhuyễn để biểu hiện những vẻ đẹp trinh nguyên, tươi trẻ của nhân vật. Điều đáng lưu ý trong hai câu luận là việc Hồ Xuân Hương đã dùng hai điển cố văn học vốn là những địa danh ước lệ gợi hình ảnh những xứ sở thần tiên trong thần thoại Trung Quốc để làm định nhữ cho danh từ trung tâm “đôi gò Bồng Đảo, một lạch Đào Nguyên”. Nhờ nghệ thuật mỹ lệ hóa mà đối tương miêu tả trong hai câu luận trong sáng sôi động. Tiếp theo hai điển cố, tác giả dùng những hình ảnh ẩn dụ để miêu tả đặc điểm chủ yếu của hai bộ phận kín đáo, đồng thời muốn chỉ rõ đay mới là những nét đặc trưng vẻ đẹp của người phụ nữ:
Đôi gò Bồng Đảo sương còn ngậm
Một lạch Đào Nguyên suối chửa thông…
Tuy vậy, ngòi bút kì diệu của Hồ Xuân Hương chưa dừng ở đây, mà còn tiếp tục một cách sắc sảo trong phần kết của bài thơ thất ngôn bát cú. Trong hai câu kết, Hồ Xuân Hương lại hướng sự chú ý của người đọc từ nhân vật thứ hai không kém phần quan trọng của bài thơ này là chàng quân tử.
Vẫn là miêu tả nhân vật, song ở hai câu kết, Hồ Xuân Hương không miêu tả hình dung, diện mạo… mà lại tập trung miêu tả hành vi, động tác, thái độ, cử chỉ của nhân vật. Cho nên, tuy cùng xuất hiện giữa bối cảnh mùa hè hây hẩy gió nồm đông, nhân vật quân tử xuất hiện đã bộc lộ những diễn biễn nội tâm trước một tình huống bất ngờ, nhưng lại rất lí thú
Quân tử dùng dằng đi chẳng dứt
Đi thì cũng dở, ở không xong
Trong câu kết thứ nhất, sau danh từ Hán – Việt được dùng để định danh nhân vật, Hồ Xuân Hương đã dùng một số tính từ, đồng từ để diễn tả hành động, tâm lí của chàng quân tử. Từ láy dùng dằng là tính từ, được tác giả dùng để miêu tả cử chỉ đầu tiên khi chàng mới bắt gặp cảnh thiếu nữ ngủ ngày. Cứ chỉ ấy phản ánh sự xung đột giữa hai đối lực đang diễn ra trong nội tâm nhân vật. Đó là sự xung đột giữa một bên là những ràng buộc đạo đức của người quân tử, với một bên là sự đam mê cái đẹp trong tâm hồn đa cảm của chàng trai trẻ trước những hành ảnh tuyệt mỹ của người thiếu nữ ngủ ngày đang hiển hiện trước mắt. Và qua động từ đi, tác giả đã tô đậm sự xung đột giữa hai đối lực ấy trong nỗi tâm nhân vật Quân tử.
Trong câu kết thứ hai, động từ đi vẫn được Hồ Xuân Hương sử dụng và đặt lên vị trí đầu câu thơ, Song, nếu như từ đi ở câu kết thứ nất là động từ miêu tả động tác của nhân vật, thì từ đi ở câu kết thứ hai là động từ đã được danh từ hóa lên để nêu lên một sự việc có tính giả định cho một tình huống ứng xử đặc biệt của chàng Quân tử trước sức hấp dẫn bởi vẻ đẹp “khỏa thân” của thiếu nữ. Như vậy, đến câu kết thứ hai, xung đột giữa hai đối lực diễn ra trong nội tâm nhân vật Quân tử đã được Hồ Xuân Hương thể hiện càng thêm rõ và nhơ đó mà người đọc càng thêm trân trọng, đồng tình với những cử chỉ, động tác tự nhiên, đáng yêu của chàng Quân tử diễn ra trước đó. Rõ ràng, dưới ngòi bút của HXH nhân vật quân tử tuy chỉ được miêu tả qua hai câu kết nhưng vẫn không kém phần sinh động. Viết xong hai câu kết, Hồ Xuân Hương chẳng những phác họa thành công nhân vật quân tử mà còn hoàn thiện được “bức tranh khỏa thân” người thiếu nữ ngủ ngày. Bằng việc thể hiện quân tử, HXH đã bổ sung cho bức tranh ấy một màu sắc thẫm mĩ đầy ý nghĩa nhân văn. Đó là giá trị vẻ đẹp thân thể thiếu nữ đầy sức sống, đầy sức cuốn hút, tình cảm thẫm mĩ của con người nhất là những người khác giới.
Đến đây có thể nói vẻ đẹp tâm hồn của chàng quân tử được bộc lộ một cách tự nhiên có tác dụng phản chiếu vẻ đẹp thân thể của người thiếu nữ và HXH đã thưch hiện thành công một qua trình sáng tạo nghệ thuật trong việc khắc họa những vẻ đẹp của con người. Sự sống động và sức hấp dẫn ở vẻ đẹp thân thể của nàng thiếu nữ đẫ được bộ lộ qua tâm hồn chàng quân tử, đã đẩy giá trịvẻ đẹp thân thể nàng thiếu nữ đạt đến đỉnh cao của sự hoàn thiện, hoàn mỹ.
Có một điều là: từ lúc xuất hiện tới nay, bài thơ Thiếu nữ ngủ ngày của Hồ Xuân Hương đã mang nhiều tên gọi khác nhau (Đọc dồn cho mấy cậu học trò dòm trộm khi ngủ, Thiếu nữ, Ngủ quên). Mắc dù đã nhiều lần bị “thay tên đổi họ” như vậy, nhưng trong lòng bạn đọc thì bài thơ Thiếu nữ ngủ ngày của Hồ Xuân Hương vẫn còn nguyên vẹn vẻ đẹp nghệ thuật và ý nghĩa nhân văn vô cùng tiến bộ./.
Nguồn: http://www.vanchuongviet.org/ |