Bao Công tên
thật là Bao Chửng (包拯; 999 - 1062), tự Hy Nhân. Ngoài ra, ông còn được
gọi là Bao Thanh Thiên, Bao Hắc Tử hay Bao Long Đồ..
Bao Công nổi tiếng là một
vị quan "thanh liêm, chấp pháp nghiêm, không khiếp sợ quyền uy hay vị nể tư
tình" dưới thời hoàng đế Tống Nhân Tông (1022 - 1063).
I.
Cuộc đời
Bao Công, người Hợp Phì, Lư
Châu (nay là thành phố Hợp Phì, tỉnh An Huy, Trung Quốc). Cha ông là Bao
Nghi, từng giữ chức đại phu trong triều. Sau khi qua đời, Bao Nghi được phong
Hình Bộ Thị Lang.
Lúc nhỏ, Bao Công đã nổi
tiếng là đứa con hiếu thảo, đôn hậu, sống mực thước.
Năm 1027, ông thi đậu tiến
sĩ, được cử đến nhậm chức tri huyện Kiến Xương (nay thuộc tỉnh Giang
Tây), nhưng vì cha mẹ già yếu, không thể đến sống ở Kiến Xương, nên Bao Công
xin được khoan nhận việc, để ở lại chăm sóc cho cha mẹ.
Sau khi cha mẹ qua đời, ông
mới đi nhậm chức tri huyện Thiên Trường (nay thuộc tỉnh An Huy), sau đó là tri
phủ Đoan Châu (nay thuộc TP. Triệu Khánh, tỉnh Quảng Đông).
Nghe tiếng Bao Công tận tụy
và thanh liêm, nhà vua cho triệu ông về kinh giao cho chức Trung thừa, rồi lần
lượt thăng các chức Giám Sát Ngự Sử, Trực học sĩ Long Đồ các, Tam Tư Hộ Bộ Phó
Sử, đến Thiên Chương Các Thị Chế (nên người đời sau còn gọi ông là Bao Thị
Chế).
Năm 1052(?), vì giúp đỡ
người thân là Trương Nghêu Tá làm phật lòng hoàng đế Nhân Tông, ông bị thuyên
chuyển đến Hà Bắc làm Nhậm đốc chuyển vận sử. Bốn năm sau, ông mới được triệu về
kinh nhậm chức Phủ doãn Phủ Khai Phong.
Chức vụ cao nhất là Bao Công
đảm nhận ở cuối đời là Khuông Mật Phó Sử, tương đương với chức phó tể
tướng.
Năm 1062, ông lâm bệnh mất ở
nơi làm việc, hưởng thọ 64 tuổi.
Hoàng đế Tống Nhân Tông đích
thân làm chủ lễ truy điệu, phong cho Bao Công là Lễ Bộ Thượng Thư, truy tặng
hiệu "Hiếu Túc", có nghĩa là hiếu đạo và thiết diện vô tư và còn phái một đoàn
ngự lâm quân hộ tống linh cửu ông về mai táng ở quê nhà ông.
Hiện nay đền thờ của ông có
hai câu liễn: "Lý Oan Ngục, Quan Tiết Bất Thông, Tự Thị Diệm La Khí Tượng. Chẩn
Tai Lê, Từ Thiện Vô Lương, Y Nhiên Bồ Tát Tâm Trường". Đại ý nói về phẩm chất
cao quý của ông..
II.
Bài thơ duy nhất còn lại...
Là một người có học vị cao
và sống ở một thời đại văn thơ nở rộ, chắc Bao Công cũng sáng tác không ít, song
đáng tiếc là cho đến nay chỉ còn lại một bài ông làm lúc mới bước vào đường hoạn
lộ là:
Thư Đoan Châu quận trai
bích
Phiên âm:
Thanh tâm vi trị
bản
Trực đạo
thị thân mưu
Tú cán chung thành đống
Tinh cương bất tác câu
Thương sung thử tước
hí
Thảo tận
thố hồ sầu
Sử
sách hữu di huấn
Vô di lai giả tu.
Dịch nghĩa:
Đề lên tường thư trai ở
quận Đoan Châu.
Lòng trong sạch là cái gốc
của việc trị nước,
Đao ngay thẳng là điều mưu cầu của việc tu thân.
Thân cây đẹp tốt rốt cuộc sẽ thành
rường cột,
Gang thuần chất không thể uốn thành móc cong.
Kho đầy hẳn bọn chuột và chim sẻ vui
mừng.
Cỏ hết
thì bọn thỏ và chồn rầu rĩ.
Sử sách có lời di huấn:
Chớ để lại điều xấu hổ cho
con cháu mai sau!
Nguyễn Khắc Phi dịch
thơ:
Thanh liêm: gốc "trị
quốc"
Cương
trực: "tu thân" cầu.
Cây thẳng ắt làm cột,
Thép ròng chẳng uốn
câu.
Kho đầy:
chuột, sẻ khoái.
Cỏ hết: thỏ, chồn sầu.
Sử sách nêu di huấn:
Chớ để nhục về
sau!
Bùi Thụy Đào Nguyên, soạn.
Thông tin thêm:
-Theo An Chi: Có người cho
rằng '''Bao Chuẩn''' mới là tên thật là sai. Vì chửng (?) có nghĩa là cứu vớt,
giúp đỡ. Theo Khang Hy tự điển: Thiết âm của chữ này là "chi sửng thiết", "chưng
thượng thanh" (Chuyện Đông chuyện Tây, tạp chí Kiến thức ngày nay 247, ngày 1
tháng 6 năm 1997).
-GS. Nguyễn Khắc Phi cho
biết: Đoan Châu có một đặc sản nổi tiếng đó là Đoan nghiên. Đây là thứ nghiên
mực làm bằng loại đá quý chỉ có ở địa phương này, rất được các vua quan hâm mộ.
Nhưng khi Bao Công rời Đoan Châu, ông không hề đem theo một chiếc Đoan nghiên
nào! (Thơ văn cổ Trung Hoa, mảnh đất quen mà lạ, Nxb Giáo dục, 1999, tr.
248).