Home » » Lý thuyết Keynes, các tranh cãi và ngăn chặn suy thoái

Lý thuyết Keynes, các tranh cãi và ngăn chặn suy thoái

Written By kinhtehoc on Thứ Năm, 17 tháng 11, 2011 | 00:55

Lý thuyết Keynes, các tranh cãi và ngăn chặn suy thoái
kinh tế ở Việt Nam


Hồ Hoàng Anh
Nguyễn Hoàng Bảo (**)
Đoàn Kim Thành


Bài do tác giả gửi cho vneconomist.net

Từ khóa: Keynes, tổng cầu, suy thoái, bẫy thanh khoản, nghịch lý của tiết kiệm, lạm phát mục tiêu tối đa, Việt Nam.

Suy thoái kinh tế toàn cầu đã tác động tràn vào (spillover effects) kinh tế Việt Nam ở mọi chiều kích khác nhau, rõ nhất kể từ tháng 10 năm 2008. Xuất khẩu, đầu tư trực tiếp nước ngoài, đầu tư gián tiếp, khách du lịch, cầu trong nước, mạng lưới kinh doanh xây dựng và phát triển kể từ khi thành lập doanh nghiệp và chuyển tiền, tất cả đều giảm mạnh. Trong mấy thập niên qua, kinh tế thị trường với quy luật cung cầu và sự đào thải, toàn cầu hóa với ưu và nhược điểm và vai trò rất hạn chế của nhà nước, theo trường phái của Adam Smith (1723 – 1790) được đề cập hầu hết trên văn đàn kinh tế trong và ngoài nước. Vai trò của nhà nước chỉ làm cản trở quá trình tiến hóa và chọn lọc tự nhiên của công nghệ, trình độ quản lý, quy mô sản xuất và phân phối của bàn tay vô hình. Nhưng kể từ khi suy thoái kinh tế toàn cầu năm 2007 và các mất cân đối kinh tế lớn trên thế giới, thất nghiệp leo thang, đời sống người dân bị ảnh hưởng nghiêm trọng, sản xuất đình đốn, thu nhập và phân phối xấu đi, thì vai trò can thiệp chủ động và tích cực của nhà nước trong việc quản lý nền kinh tế, theo John Maynard Keynes (1883–1946), được nhấn mạnh hơn bao giờ hết. Chính phủ các nước không thể bị động nhìn tình cảnh như vậy, mà phải hành động tức thời (1). Các quốc gia suy thoái cầu, giàu hay nghèo cũng vậy, đã đưa ra ngân sách cho các nhóm giải pháp kích cầu. Các quốc gia nghèo thì khó khăn hơn, vì bên cạnh những khó khăn mang tính thường trực của nước nghèo, thì còn phải đối mặt thêm với khó khăn do suy thoái. Chẳng hạn như với nguồn lực rất hạn chế về vốn tài chính, vốn vật thể, thiếu hụt cả về vốn con người với những tư duy phát triển, thiếu hụt và sự không tương thích của thể chế (thể chế chưa thông minh), mà còn dành một khoản ngân qũy hạn hẹp để kích cầu (2). Dường như các quốc gia này buộc phải lựa chọn giữa các mục tiêu vĩ mô: Ổn định hay phát triển, ngắn hạn hay dài hạn. Bài viết này trình bày lại lý thuyết Keynes, như một lời tri ân đến một nhà kinh tế của mọi thời đại, các tranh cãi xung quanh và với hy vọng tìm kiếm giải pháp ngăn chặn suy thoái kinh tế ở Việt Nam hiện nay.
Lý thuyết Keynes

Keynes cho rằng sản lượng và mức nhân dụng (dưới mức tiềm năng) trong nền kinh tế do cầu quyết định. Các thành phần tổng cầu bao gồm:

AD = C + I + G + X – M (eq 1)

Trong đó: C, I, G, X và M lần lượt là tiêu dùng, đầu tư, chi tiêu chính phủ, xuất khẩu và nhập khẩu. Trong đó nhập khẩu M = Cf + If + Gf; với Cf, If và Gf lần lượt là tiêu dùng, đầu tư và chi tiêu của chính phủ mua hàng hóa, dịch vụ nước ngoài.

Luận điểm 1: Tiền lương chỉ ảnh hưởng đến quyết định lựa chọn giữa lao động và tư bản của doanh nghiệp (L/w = K/r) (3). Thất nghiệp không thể đưa đến việc giảm tiền lương bởi vì người lao động sẽ từ chối làm việc nếu mức lương thấp.

Luận điểm 2: Đầu tư phụ thuộc vào: (a) sức cầu trong thực tế và (b) dự đoán của các doanh nghiệp về khả năng sinh lợi của đầu tư trong tương lai. Lãi suất chỉ ảnh hưởng đến quyết định lựa chọn giữa tư bản và lao động của doanh nghiệp (tương tự như trên: K/r = L/w). Vì thế việc cố tình cắt giảm lãi suất đến một mức nào đó sẽ không làm tăng đầu tư, không làm tăng sản lượng và tình trạng này được gọi là bẫy thanh khoản (xem chú thích 1).

Luận điểm 3: Tiêu dùng phụ thuộc vào thu nhập và khuynh hướng tiêu dùng biên. Khuynh hướng tiêu dùng biên giảm xuống khi thu nhập tăng lên. Tiêu dùng đóng vai trò quan trọng trong việc đưa nền kinh tế đến trạng thái cân bằng tại sản lượng tiềm năng và mức nhân dụng tối đa và gia tăng tổng cầu thông qua hiệu ứng số nhân (k). Số nhân (k) trong một nền kinh tế mở chịu ảnh hưởng trực tiếp của khuynh hướng tiêu dùng biên (c), khuynh hướng xuất khẩu biên (e) và khuynh hướng nhập khẩu biên (m).

k = 1/[(1 – c)+(e – m)] (eq 2)

Ở luận điểm này, có thể thấy hai ý chính: (a) Tiết kiệm quá mức trong điều kiện suy thoái, làm nghiêm trọng thêm vấn đề suy thoái và thậm chí làm ngưng trệ nền kinh tế (stageflation) (4). Vấn đề này gọi là nghịch lý của tiết kiệm. Mọi cố gắng tiết kiệm (5) của các cá nhân, sẽ thu hẹp cầu và thu hẹp sản lượng quốc gia. Có thể khảo sát tiết kiệm hiện tại và tăng trưởng trong dài hạn và ngắn hạn (xem chú thích 2); (b) Lý thuyết Keynes theo đuổi một xã hội hài hòa. Một xã hội có mức nhân dụng cao, nhưng không gây ra lạm phát và Keynes đưa ra khái niệm tỷ lệ thất nghiệp không làm tăng tốc lạm phát (nonaccelerating inflation rate of unemployment). Keynes chú trọng các biện pháp làm thay đổi phân phối thu nhập theo hướng có lợi cho khuynh hướng tiêu dùng biên, giảm một cách tương đối thu nhập ở khu vực có khuynh hướng tiêu dùng biên thấp (khu vực người có thu nhập cao) và tăng một cách tương đối thu nhập ở khu vực có khuynh hướng tiêu dùng biên cao (khu vực người có thu nhập thấp).
Tranh cãi xung quanh lý thuyết Keynes

Kinh tế học Cổ Điển cho rằng cầu lao động phụ thuộc vào tiền lương. Trên thị trường lao động, khi cung lao động lớn hơn cầu lao động, việc giảm tiền lương sẽ kích thích thuê mướn, giảm thất nghiệp và có thể đạt mức nhân dụng tối đa (6). Vì thế họ ủng hộ việc xóa bỏ các quy định về tiền lương tối thiểu và các nghiệp đoàn lao động. Keynes tranh cãi rằng tiền lương phụ thuộc vào nhiều yếu tố. Tiền lương danh nghĩa, không phải tiền lương thực, là đối tượng được thỏa thuận trong các hợp đồng lao động giữa người chủ thuê mướn và nhân công, hợp đồng này phụ thuộc vào luật định, sức mạnh mặc cả và nghiệp đoàn lao động. Việc giảm tiền lương danh nghĩa tức thời là rất khó bởi vì các ràng buộc của hợp đồng lao động thường có tính dài hạn. Thậm chí, nếu không có luật định và nghiệp đoàn lao động, người lao động vẫn đấu tranh chống lại việc giảm sút tiền lương. Họ chỉ chấp nhận khi có một sự giảm sút tương ứng của mức giá chung. Theo Keynes, giảm tiền lương sẽ làm giảm tiêu dùng, dẫn đến giảm tổng cầu. Điều này sẽ dẫn đến sự sụt giảm trong doanh thu và lợi nhuận kỳ vọng và các doanh nghiệp sẽ giảm đầu tư. Hơn nữa, giảm tiền lương, dẫn đến sự giảm sút trong mức giá, người ta sẽ không chi tiêu vì kỳ vọng hàng hóa và dịch vụ sẽ còn giảm giá nữa. Do đó, giảm tiền lương sẽ làm cho vấn đề càng trở nên tồi tệ hơn.

Kinh tế học Cổ Điển cho rằng khi tiết kiệm quá nhiều, tạo ra thặng dư cung của các khoản cho vay, lãi suất phải giảm xuống để đưa thị trường cho vay về điểm cân bằng. Keynes tranh luận rằng đầu tư và tiêu dùng trong ngắn hạn không thay đổi nhiều khi lãi suất thay đổi (đường I và S có độ dốc rất cao). Khi đầu tư giảm từ I xuống I’, ngụ ý lãi suất có thể âm tại điểm cân bằng mới là giao điểm của I’ và S, nền kinh tế rơi vào “bẫy thanh khoản”. Keynes cho rằng tiết kiệm quá nhiều sẽ giảm tiêu dùng, giảm tổng cầu và dẫn đến giảm sản lượng cân bằng và thu nhập.
Tiết kiệm, vì thế sẽ giảm tương ứng từ S xuống S’, thị trường cho vay lại đạt đến điểm cân bằng mà không cần phải điều chỉnh lãi suất, thay vào đó là một sự suy thoái. Theo Keynes, trong ngắn hạn, không phải tiết kiệm và đầu tư, mà là cung và cầu tiền sẽ quyết định lãi suất. Vòng lặp tiếp tục, khi thu nhập giảm xuống, chi tiêu cũng giảm xuống, dẫn đến giảm doanh thu và lợi nhuận kỳ vọng, đầu tư sẽ tiếp tục giảm. Điều này sẽ làm cho đường I’ tiếp tục dich chuyển sang trái, tái tạo lại tình trạng tiết kiệm dư thừa và làm cho suy thoái càng tồi tệ hơn.
Hình 1
E1 - Figure 1.JPG (7.79 KiB) Đã xem 6815 lần.


Trường phái Áo phê phán những nền tảng lý thuyết của Keynes đòi hỏi phải có sự quản lý tập trung, điều này sẽ dẫn đến sự lạm dụng quyền. Trường phái Cổ Điển và Tân Cổ Điển cho rằng sự sử dụng chính sách kích cầu này có thể đưa đến nguy cơ của sự hình thành các nhóm lợi ích có dính líu hay liên quan đến chính phủ. Trường phái kinh tế học Cổ Điển Mới, mà đại diện là Robert Lucas, kỳ vọng hợp lý sẽ đánh bật hết bất kỳ chính sách tiền tệ và tài chính. Nhưng những người ủng hộ Keynes thì cho rằng kỳ vọng hợp lý chỉ vận hành trong điều kiện nền kinh tế có một điểm cân bằng ở mức nhân dụng tối đa, mà mức giá cứng nhắc đưa đến nhiều điểm cân bằng trong ngắn hạn.
Ngăn chặn suy thoái ở Việt Nam

Tất cả quan điểm phân tích kích cầu bên dưới phải bám vào quan điểm “số tiền hạn hẹp phải được sử dụng thông minh”: (1) Kích cầu theo Keynes, vì một số người có quan điểm kích cầu chung chung hay kích lộn qua phía cung, (2) Sắp xếp theo thứ tự ưu tiên về tầm quan trọng (chủ quan của người viết) vì nguồn tài chính sử dụng có hạn, (3) Tiến hành trong ngắn hạn cho đến khi nền kinh tế đã đi vào qũy đạo ổn định, liên tục và sàng lọc tự nhiên của kinh tế thị trường, thì can thiệp phải chấm dứt, nếu tiếp tục thì sẽ là sự cản trở cho phát triển. Hỗ trợ lãi suất cho các dự án đầu tư dài hạn, của gói kích cầu thứ hai, của chính phủ vào đầu tháng 4 năm 2009 (được thực hiện hỗ trợ lãi suất từ 1/4/2009 đến 31/12/2011) là vi phạm nguyên tắc kích cầu của Keynes. Kích cầu được sử dụng bằng tiền trái phiếu chính phủ dài hạn mà đi tài trợ lãi suất cho dự án đầu tư dài hạn? (4) Kích cầu là đưa nền kinh tế về qũy đạo bình quân có tính đến những vấn đề năng cao năng lực cạnh tranh của nền kinh tế, năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp, những vấn đề phải đối mặt trước và sau suy thoái cầu. Kích cầu mà không tính đến năng lực cạnh tranh là kích cầu tĩnh (tạm gọi như vậy). Nhưng quá chú trọng năng lực cạnh tranh mà đi xa qũy đạo kích cầu của Keynes cũng không được, vì vấn đề của kích cầu là vấn đề ngắn hạn, còn vấn đề năng lực cạnh tranh là vấn đề thường trực và luôn tính đến trong dài hạn. Quan điểm đổi mới công nghệ trong thời điểm này để năng cao năng lực cạnh tranh là đi sai với tinh thần kích cầu của Keynes, bởi vì máy móc công nghệ đều nhập từ bên ngoài, cho nên thay đổi công nghệ ngay lúc này là kích cầu cho bên ngoài, chứ không phải kích cầu trong nước (xem phương trình số nhân tổng cầu số 2).


Kích cầu xuất khẩu

Tuy lựa chọn phát triển kinh tế dựa vào xuất khẩu là đúng đắn (xem chú thích 3), nhưng xuất khẩu của Việt Nam chủ yếu sản phẩm thô, hàm lượng giá trị gia tăng trong sản phẩm không cao, nằm trong quỹ đạo gia công, chế biến và lắp ráp và đặc biệt là trong mặt hàng xuất khẩu thì hàm lượng nhập khẩu chiếm tỷ trọng lớn (đây là vấn đề thương mại tạo thương mại) làm cho nhập khẩu ngày càng nhiều hơn và lệ thuộc vào hàng nhập. Do nền kinh tế dựa nhiều vào xuất khẩu (năm 2007 chiếm 77% GDP) nên suy thoái từ bên ngoài ảnh hưởng ngay đến nền kinh qua kênh này, chưa kể hàng các nước không bán được tràn vào Việt Nam.

Như vậy câu hỏi đặt ra, cho các nhà hoạch định chính sách: Kích cầu xuất khẩu bắt đầu từ đâu? Vì nguồn lực có hạn cho nên chúng ta chỉ có thể bắt đầu quan trọng nhất đến vấn đề ít quan trọng hơn.

Thứ nhất, tập trung hỗ trợ trực tiếp ngành xuất khẩu mà có tỷ lệ nội địa hóa (7) cao nhất (nội lực), thường là những ngành xuất khẩu nông sản (thủy sản, trồng trọt và chăn nuôi). Trong công thức (2) có thể thấy khuynh hướng xuất khẩu biên (e) và khuynh hướng nhập khẩu biên (m) thể hiện trong số nhân của tổng cầu (k). Hơn nữa, chính sách này cũng giải quyết vấn đề đời sống cho những người thất nghiệp ở đô thị và trở về quê hòa nhập vào cuộc sống.

Thứ hai, phải khảo sát độ nhạy giữa mức tăng cung xuất khẩu, mức giảm cầu nhập khẩu với sự phá giá đồng Việt Nam, để có thể có được chính sách phá giá tiền đồng trong phạm vi có hiệu quả. Chuyên gia kinh tế Vũ Quang Việt cho rằng xuất khẩu vào qúy hai năm 2009 sẽ giảm mạnh vì hợp đồng xuất khẩu có thể không được ký tiếp và nguy cơ ảnh hưởng tiêu cực của kinh tế thế giới đến Việt Nam sẽ rõ nét nhất.

Thứ ba, hỗ trợ các ngành hay doanh nghiệp thay thế hàng nhập hay có khuynh hướng thay thế hàng nhập, việc này làm giảm khuynh hướng nhập khẩu biên trong số nhân của tổng cầu.

Kích cầu bằng chính sách tài khóa
Chính sách tài khóa là chính sách còn lại đầu tiên mà phải nghĩ tới trong điều kiện suy thoái hiện nay. Các tiêu chuẩn cần phải đặt ra khi sử dụng chính sách này trong điều kiện suy thoái cầu của Keynes như sau:

(1) Sử dụng chính sách này phải đưa vào mức lạm phát mục tiêu tối đa (maximum targeted inflation). Vì gia tăng chi tiêu và/hay giảm thuế đều dẫn đến lạm phát, do đó phải khống chế lạm phát ở mức cho phép. Tăng chi tiêu/giảm thu ngân sách, trong điều kiện suy suy thoái, là phải nghĩ ngay đến tác động của lạm phát đến an sinh xã hội, đầu tư trong nước và nước ngoài. Chú ý đây không phải sự đánh đổi giữa tăng trưởng kinh tế và ổn định kinh tế (kích cầu), mà là sự đánh đổi giữa sự ổn định kinh tế này (kích cầu) và một sự ổn định khác (mức lạm phát tối đa không được vượt qua). Phải điều chỉnh tỷ lệ thâm hụt ngân sách (hay cụ thể hơn là nguồn thu và chi) với tỷ lệ lạm phát tối đa cho phép, hơn là điều chỉnh tỷ lệ thâm hụt ngân sách (khống chế 8% GDP cho năm 2009, bình quân chỉ có 5%) với tăng trưởng kinh tế có hiệu chỉnh xuống còn 5% như một số nhà kinh tế bàn đến. Tiêu chuẩn này phòng ngừa nguy cơ có thể đưa đến tình trạng ngưng trệ (stageflation) như đã đề cập bên trên. Mức lạm phát dự kiến 15% (chứ không phải mức lạm phát mục tiêu tối thiểu) là cao trong nền kinh tế suy thoái, ảnh hưởng mạnh đến an sinh xã hội trên diện rộng và đầu tư trong và ngoài nước;

(2) Về nguyên tắc tác động của chi tiêu chính phủ đến số nhân của tổng cầu phải lớn để có thể vực dậy hoạt động kinh tế đất nước. Nếu chính phủ tăng chi tiêu, người dân nhận thêm tiền và chi vào hàng hóa tiêu dùng thêm và để dành lại. Hàng hóa bán thêm được do người dân chi tiêu dùng thêm, cho phép doanh nghiệp thuê mướn thêm lao động và trả lương cho họ và những người này, đến lượt họ, họ sử dụng tiền lương để chi tiêu. Tiến trình này tiếp tục. Ở mỗi bước, tiến trình gia tăng chi tiêu nhỏ hơn so với bước trước. Tiến trình này tiếp tục cho đến khi hội tụ về điểm cân bằng và được gọi là tiến trình số nhân của chi tiêu của chính phủ;

(3) Phải minh bạch thu chi chính phủ và kiểm soát các dự án công, đặc biệt là ngân qũy sử dụng vào kích cầu, vì nguy cơ lạm quyền (như trường phái của Áo) hay nguy cơ hình thành các nhóm lợi có liên quan đến chính phủ (như trường phái của Cổ Điển và Tân Cổ Điển) là tình huống có thể xảy ra và nếu là như thế thì chính sách kích cầu sẽ không còn hiệu lực. Tiền sử dụng kích cầu, từ trái phiếu chính phủ (64 ngàn tỷ đồng thay vì 36 ngàn tỷ như dự kiến cuối năm 2008) phải được sử dụng có kiểm soát. Chúng ta đã bán tương lai đi mà mua hiện tại (8), mà nghĩ đến hiện tại, thì phải là hiện tại được kiểm soát và phải vực dậy hoạt động kinh tế.

Với những tiêu chuẩn như vậy, kích cầu bằng chính sách tài khóa bắt đầu từ đâu? Kích cầu bằng đầu tư vào cơ sở hạ tầng, hỗ trợ tiêu dùng, hỗ trợ lãi suất và hoãn thuế thu nhập cá nhân.

Thứ nhất, đầu tư vào cơ sở hạ tầng (đặc biệt là cơ sở hạ tầng nông thôn, vùng đệm để giải quyết việc làm từ đô thị thất nghiệp trở về) đầu tư vào giáo dục và y tế. Đầu tư này có ý nghĩa như sau: Gia tăng sản lượng qua số nhân tổng cầu của Keynes, tăng mức nhân dụng để giải quyết vấn đề an sinh xã hội, giảm thiểu mất công bằng trong xã hội bởi vì, do tính không loại trừ của hàng hóa công, mọi người trong xã hội đều có thể tiêu dùng, vì thế sẽ làm gia tăng phúc lợi xã hội, đặc biệt là cho những người nghèo. Trong gia tăng số nhân của tổng cầu có hàm chứa là: Đầu tư chính phủ làm giảm chi phí của đầu tư tư nhân (về các khía cạnh cơ sở hạ tầng kinh tế, kỹ thuật, thể chế, thông tin, ngành hỗ trợ và nguồn nhân lực) và do đó kích thích đầu tư tư nhân (crowd–in effects).

Thứ hai, hỗ trợ tiêu dùng thiết yếu trong nước. Hỗ trợ này giúp: Gia tăng sản lượng thông qua số nhân tiêu dùng của Keynes; nới lỏng thói quen tiêu dùng mà trước đó đã bị thắt chặt thông qua chính sách thắt chặt tiền tệ; chú trọng hơn thị trường nội địa, bỏ đi quan điểm hàng tốt thì xuất khẩu, còn hàng không tốt thì tiêu dùng trong nước. Chính sách mở rộng thị trường nông thôn phải đi sau chính sách tăng thu nhập (xây dựng cơ sở hạ tầng, tạo việc làm, giảm thuế, mở rộng cơ hội kinh tế nông thôn), bởi vì nông dân là thành phần có thu nhập thấp, khuynh hướng tiêu dùng biên cao, nhưng tiêu dùng tuyệt đối thấp và là hàng thiết yếu. Liệu mở rộng thị trường nông thôn có hiệu quả hay không khi thu nhập người nông dân không tăng lên? Ở đây chúng ta có thể thấy yếu tố trước sau của chính sách rất quan trọng. Còn kích cầu tiêu dùng của người có thu nhập cao như thế nào? Theo lý thuyết của Keynes, những người có thu nhập cao thì khuynh hướng tiêu dùng biên thấp, mặc dù lượng tiêu dùng tuyệt đối cao. Những người này tiêu dùng hàng hóa và dịch vụ không thiết yếu mà đa phần là từ nhập khẩu (Cf trong phương trình số 1 là rất lớn). Như vậy hiệu số nhân không cao khi kích cầu tiêu dùng nhóm có thu nhập cao này.

Thứ ba, hỗ trợ lãi suất cho các doanh nghiệp. Một số doanh nghiệp không tập trung vào hoạt động kinh doanh chính, chạy theo bong bóng chứng khoán và bất động sản trong năm 2007, hậu quả là lợi nhuận âm và những khoản nợ trong năm 2008. Hỗ trợ lãi suất giúp cho các doanh nghiệp này vay nợ mới, trả nợ cũ và thoát khỏi phá sản. Điều này là bất công, không hiệu quả và không có liên quan gì đến chính sách kích cầu của Keynes. Trong điều kiện suy thoái và can thiệp của chính phủ, thì quy luật đào thải vẫn phải chi phối. Hơn nữa, trên thị trường tồn tại hai mức lãi suất ưu đãi 4% và lãi suất không ưu đãi 10,5% song hành, thì sẽ tạo không gian sinh tồn cho lạm quyền và nhóm lợi ích. Đây là các câu hỏi không liên quan đến kích cầu theo quan điểm Keynes: Liệu với mức lãi suất thấp doanh nghiệp giảm chi phí và tăng đầu tư thêm bao nhiêu? Liệu doanh nghiệp có đầu tư thêm hay không khi cầu không có? Liệu doanh nghiệp không đầu tư thêm, thì doanh nghiệp dùng khoản dư ra này kích tích lũy bao nhiêu hay kích trả nợ bao nhiêu?

Thứ tư, kích cầu bằng chính sách hoãn thuế thu nhập cá nhân là không hiệu quả và gây lãng phí. Việc hoãn thu thuế thu nhập cá nhân chỉ nên áp dụng cho bộ phận có thu nhập dưới một ngưỡng nhất định.
Kết luận

Tác động của khủng hoảng sẽ là một giao động tắt dần, tùy thuộc vào: (1) sự phối hợp các nước trong việc khắc phục và (2) chính sách của chính phủ mỗi nước. Không phải suy thoái đều mang lại kết quả xấu, đây là các nhà hoạch định chính sách và quản lý vĩ mô có cơ hội học hỏi tư duy phát triển của Keynes, cải cách mạnh hơn nữa về thể chế chính sách, nâng cao năng lực điều hành vĩ mô, nhìn nhận lại những cái làm được và làm không được, bởi vì chính sách mỗi nước có khác nhau (do ngân sách, đặc thù kinh tế mỗi nước, thể chế hiện hành, tác động của khủng hoảng, năng lực điều hành, tư duy phát triển); Các doanh nghiệp có cơ hội tái cấu trúc lại sản xuất kinh doanh, nguồn nhân lực, mạng lưới kinh doanh, đánh giá lại năng lực cạnh tranh, đến khi nền kinh tế thăng bằng trở lại, thì sẵn sàng chịu chi phối bởi sự sàng lọc tự nhiên kinh tế thị trường với quy luật cung cầu và sự đào thải khắc nghiệt hơn.

Chú thích

(1) Bẫy thanh khoản (Liquidity trap): là chính sách nới lỏng tiền tệ, về nguyên tắc, không phát huy tác dụng trong điều kiện suy thoái. Lãi suất danh nghĩa giảm xuống xấp xỉ không phần trăm (chi phí cơ hội của việc giữ tiền xấp xỉ bằng không), khiến cho mọi người muốn nắm giữ tiền mặt thay vì gửi vào ngân hàng do sự ưa chuộng tính thanh khoản (liquidity preference). Phần nằm ngang của đường LM. Vì lãi suất danh nghĩa không thể âm, nên tăng cung tiền không làm cho đường LM dịch chuyển xuống phía dưới thêm nữa và vì thế mà sản lượng không thay đổi. Đây là trường hợp Nhật Bản năm 1997.
Hình 2
E1 - Figure 2.JPG (4.49 KiB) Đã xem 6586 lần.


(2) Khảo sát giữa tác động của tiết kiệm hiện tại đối với tăng trưởng trong dài hạn và ngắn hạn (Chú ý: trong dài hạn thì sản lượng không đổi, giá cả linh hoạt, vốn và lao động được toàn dụng, còn trong ngắn hạn thì sản lượng thay đổi, giá cả cứng nhắc, vốn và lao động chưa được toàn dụng) có thể thấy: (a) Trong dài hạn, tỷ lệ tiết kiệm ảnh hưởng rất nhỏ đến thu nhập và tăng trưởng. Do các nguyên nhân sau: Tiết kiệm chuyển thành vốn và có suất sinh lợi giảm dần (điều này minh họa bằng độ dốc giảm dần của f(k) trong mô hình Solow y = f(k), trong đó y là sản lượng/người và k là vốn/người); tỷ lệ tiết kiệm tăng 10%, thì sản lượng bình quân đầu người cân bằng tăng khoảng 3%; Tốc độ hội tụ về trạng thái cân bằng rất chậm. Chỉ có tiết kiệm và tiến bộ công nghệ mới tác động mạnh đến tăng trưởng dài hạn; (b) Trong ngắn hạn, tỷ lệ tiết kiệm làm giảm sản lượng. Tuy nhiên, tiết kiệm có thể làm tăng sản lượng, nếu nguồn vốn tiết kiệm được chuyển sang đầu tư thông qua hệ thống tài chính (điểm cân bằng mới ở mức sản lượng cao hơn, khi đầu tư tăng lên).

(3) Đóng góp của xuất khẩu đối với nền kinh tế nhìn chung có thể thấy ở các khía cạnh như sau: (1) Có thể giải phóng được thặng dư cung hàng hóa và dịch vụ trong sản xuất ở một ngành cụ thể; (2) Mở rộng sản xuất trên quy mô lớn, cho nên tận dụng lợi thế kinh tế theo quy mô; (3) Xuất khẩu được thì chúng ta có ngoại tệ và tăng khả năng nhập khẩu, thúc đẩy nhanh quá trình CNH và HĐH; (4) Xuất khẩu mở ra công ăn việc làm và thu nhập (người dân, doanh nghiệp và chính phủ); (5) Xuất khẩu khai thác tối đa lợi thế so sánh của quốc gia và vì thế mà làm tăng phúc lợi xã hội; (6) Xuất khẩu đưa hình ảnh, uy tín và thanh thế Việt Nam ra nước ngoài; (7) Xuất khẩu làm cho hàng hóa và dịch vụ Việt Nam theo chuẩn quốc tế và quá trình xuất khẩu là quá trình học hỏi qua cách làm; (8) Khuynh hướng tiết kiệm biên của khu vực xuất khẩu cao nhất nền kinh tế. Xuất khẩu còn làm tăng cả khuynh hướng tiết kiệm biên của các ngành có liên quan hay hỗ trợ cho xuất khẩu; (9) Xuất khẩu buộc hàng hóa và dịch vụ trong nước bán theo giá thế giới, mà giá thế giới là giá mờ (shadow price) là mức giá có tính đủ chi phí tư nhân và chi phí ngoại tác để sản xuất, phân phối và tiêu dùng, từ đó sẽ làm cho nguồn lực trong nước ngày càng sử dụng có hiệu quả hơn.
Tài liệu tham khảo:

Báo cáo của chính phủ Việt Nam (2008). “Giải pháp nhằm ngăn chặn suy giảm kinh tế, duy trì tăng trưởng kinh tế và đảm bảo an sinh xã hội” , Báo cáo số 191/BC CP, Gửi Ủy Ban Thường Vụ Quốc Hội, Hà Nội.

Maurice Baslé và các tác giả (1988). Histoire des pensées esconomiques Les fondateurs. Dịch bởi Chu Tiến Ánh & Lê Diên (2000). Hà Nội: Nhà xuất bản Khoa Học.

N. Gregore Mankiw (1994). Macroeconomics – Second edition. Dịch bởi Nguyễn Văn Ngọc và các tác giả (1996). Hà Nội: Nhà xuất bản Thống Kê.

Naoyuki Yoshino & Masaki Nakahigashi (2000). Economic effect on infrastructure-Japan’s experience after Wolrd War II. JBIC Review. Special Issue (No.3), pp.3-19.

Olivier Blanchar (1999). Macroeconomics. Second Edition. US: Prentice Hall Inc.

Paul Krugman (1999). Thinking about The Liquidity Trap. [online]

Truy cập tại:
http://web.mit.edu/krugman/www/trioshrt.html [truy cập vào ngày 04/04/2009].
Wikipedia. The General Theory of Employment, Interest and Money. [online] (truy cập ngày 19/03/2009)

Truy cập tại: http://en.wikipedia.org/wiki/The_Genera ... _and_Money [truy cập vào ngày 24/03/2009].



Footnote
(**) Phó Trưởng Khoa Kinh Tế Phát Triển, Đại Học Kinh Tế TP HCM; giảng viên thỉnh giảng Đại Học Humboldt, Cộng Hòa Liên Bang Đức từ tháng 04 đến tháng 10 năm 2009, theo chương trình Erasmus Mundus.
(1) Kenyes cho rằng không thể bị động chờ đợi nền kinh tế tự hiệu chỉnh để có được sản lượng tiềm năng và mức nhân dụng tối đa trong dài hạn, bởi vì trong dài hạn chúng ta sẽ chết hết.
(2) Giải pháp kích cầu có thể sử dụng mô hình vào – ra (Input – Output model) của Wassily Leontief. Đó là một bài viết khác của nhóm chúng tôi.
(3) Trong đó K, L, r và w lần lượt là chi phí về vốn, chi phí về lao động, giá của một đơn vị vốn và giá của một đơn vị lao động.
(4) Ngưng trệ (stageflation) trong nền kinh tế là tình trạng nền kinh tế vừa có lạm phát vừa có suy thoái, một số nhà kinh tế gọi tình trạng này là lạm suy.
(5) Tiết kiệm phụ thuộc ràng buộc giữa khả năng tiết kiệm (ability to save) (khả năng này lại phụ thuộc vào thu nhập, mức tăng trưởng trong thu nhập và sự phân phối trong thu nhập) và ý muốn tiết kiệm (willingness to save) (ý muốn này lại phụ thuộc vào lãi suất, hệ thống tài chính).
(6) Người viết bài này đã biết hiện nay ở Việt Nam hàng loạt các doanh nghiệp giảm tiền lương và sa thải nhân viên. Một số lớn nhân viên phải làm việc trong tình trạng mức lương thấp vì họ không thể tìm kiếm công việc mới trong thời điểm suy thoái, cụ thể là ngành ngân hàng, bất động sản, chứng khoán, xuất nhập khẩu và một số ngành công nghiệp khác. Tình hình này làm cho vấn đề suy thoái cầu nghiêm trọng hơn.
(7) Tỷ lệ nội địa hóa là một chỉ tiêu của các ngành công nghiệp ở Thái Lan, bên cạnh các chỉ tiêu về giá trị tổng sản lượng, kim ngạch xuất khẩu (thành phẩm và bán thành phẩm).
(8) Chúng tôi sử dụng như vậy bởi vì: Dự trữ ngoại hối Việt Nam thuộc loại thấp, thâm hụt ngân sách, hiệu quả nền kinh tế thấp (ICOR = 4,9 năm 2008), chi phí giao dịch cao và nợ phải trả gia tăng.
Share this article :
 
Support : Creating Website | phuctriethoc | NGUYỄN VĂN PHÚC
Copyright © 2013. NGUYỄN VĂN PHÚC - All Rights Reserved
By Creating Website Published by KINH TẾ HỌC
Proudly powered by NGUYỄN VĂN PHÚC
NGUYỄN VĂN PHÚC : Website | Liên hệ | phuctriethoc@gmail.com
Proudly powered by Triết học kinh tế
Copyright © 2013. NGUYỄN VĂN PHÚC - All Rights Reserved