Home » » Vụ Án Thơ Cũ - Thơ Mới- P8

Vụ Án Thơ Cũ - Thơ Mới- P8

Written By kinhtehoc on Thứ Tư, 15 tháng 2, 2012 | 22:53


Thương Sơn bênh thơ cũ
Chẳng những bảo thơ mới của Phan Khôi chẳng có gì mới mà còn cho thơ mới của bọn các ông chẳng qua chỉ là một thứ từ khúc hết sức cổ lỗ, lời thời trước đây đã có biết bao nhiêu người làm rồi. Bài này tựa đề là " Thơ mới tức là Từ Khúc " ký Thương Sơn một bài bổ khuyết bài " thơ mới "của Chất Hằng và được ông Chất bàn góp thêm ở phần cuối (V.H.T.C. số 24, 1-9-1933).
Theo cả hai ông Thương Sơn và Chất Hằng thì thơ mới thực ra chỉ mới ở mỗi cái chỗ gieo vận. Vậy mà các lối vận của cái thơ được mệnh danh là thơ mới, lại chỉ là vận của các lối từ khúc mà thôi. Ông Thương Sinh phân tích các vần của hai bài : bài " con ve và con kiến "của Nguyễn Văn Vĩnh, cũng như bài " Tình già " của Phan Khôi, rồi đem so sánh với cách gieo vần của nhiều bài Từ Khúc để kết luận : thơ mới là một hình thức đi giật lùi." Kể ra thì trong bài " con ve và con kiến " cái lạ ở nơi cách bắt vần, cách này cũng hai câu một vần với nhau, đến hai câu khác lại vần khác, có giống như lối vần " liên tiếp " (rimes suivies) của tây. Ấy, cũng vì cái giống ấy mà chúng ta tưởng lầm rằng, cách bắt vần này mới lắm, song kỳ thực trong văn Tàu nó đã có từ lâu, nó đã cũ, tôi nói cũ để khỏi nói xưa đó thôi.
" Thì cứ xem bản dịch Tỳ bà của Tản Đà thư điếm cũng đã thấy cách bắt vần ấy rồi, nên bản Tỳ bà của Cao Đông Gia ở tận đời Nguyễn. Đây xin trích mấy vần :
Thám hoa (đọc) :
Bác chẳng thấy năm ngoái quan nghè Bùi ? 
Ngã ngựa đứt băng một bên đùi. 
Lại chẳng thấy năm trước quan đốc Phùng 
Ngã ngựa vẹt hẳn một bên mông ? 
Ở đời có ba sự rất sợ, 
Chở đò, đánh đu cùng cưỡi ngựa. 
. . . . .
lại điệu từ " Bồ tát Man " dịch đăng ở Nam Phong :
Bảng lảng non vàng cảnh minh diệt 
Mây in mái tóc, thân pha tuyết 
Ủ dột nét mày ngài 
Điểm trang cùng với ai ? 
Cánh hoa lồng trong kính 
Mắt hoa cùng lấp lánh 
Mới mẻ . . . 
Đôi chim ai thêu thùa ?
Cùng điệu " Mộc Lan Hoa "
Đàn ai tiêu sái 
Khiến khách giang hồ tình ái ngại ; 
Lơ lửng trăng sân, 
Bóng mình mình ngỡ bóng giai nhân 
. . . . .
chẳng phải là bắt vần như bài dịch của ông Vĩnh ru ?" Tôi còn nhớ như bài " Khóc Lâm Tứ Nương " đăng ở tạp chí này, nguyên Hán văn cũng bắt vần như thế.
" Vậy thì cách vần ở bài" Tình già " cũ lăm lắm chứ có cũ vừa đâu ! - ông Chất Hằng lại rõ thật là sơ ý. Ông không thấy rằng bài ông Vĩnh cũng bài cổ thể thứ hai mà ông chép ở đoạn sau bài là giống nhau lắm ru ? Bài trên là một bài ngũ ngôn ; cái lạ chắc không ở đó, mà ở cách bắt vần, song cách bắt vần lại giống bài dưới mất, nghĩa là người ta đã làm rồi, thì còn gì là sáng kiến nữa đâu ! Họa chăng chỉ còn ở mấy chữ " suốt mùa hè ".
" Từ trên tới đây, đó là tỏ một phần cũ của bài thơ ông Phan. Trước khi nói đến phần cũ khác của nó, ta hãy thử xem vì sao cách bắt vần " liên tiếp " nó đã có từ lâu rồi mà người ta lại ít làm tới, cho đến bây giờ người ta ngộ nhận rằng nó là " tân thời ". Ấy cũng vì nó không hay gì cho lắm, không êm ái bằng cách bắt vần như thơ Đường vậy, ấy nó cũng sắp vào vòng " đào thải " rồi. "
Rồi Thương Sơn đem so sánh bài " Tình già " của Phan Khôi với bài " Mối tình ngầm "của Trần qu Thường H.T., để quả quyết rằng thơ Phan Khôi còn cổ hơn là Từ Khúc nữa kia :
" Ông Chất Hằng chép bài " Tình già " sai với nguyên văn, nên chỉ chú đến cách bắt vần, mà không biết đến cái tự do của nó. Như thế, những người đã " lại đem cái vấn đề thơ mới ấy đặt lên thảm xanh " chắc sẽ không khỏi nói qua nói lại. Vậy xin thay ông chép lại mấy câu thơ gốc của " lối mới " rồi chỉ một chỗ " cũ " khác của nó, mà chỗ này quan hệ hơn.
Hai mươi bốn năm xưa 
Một đêm vừa gió lại vừa mưa 
Dưới ngọn đèn mờ trong gian nhà nhỏ 
Đôi cái đầu xanh kề nhau than thở 
Ôi ! đôi ta tình thương nhau thì vẫn nặng 
Mà lấy nhau hẵn đà không đặng, 
Để đến nỗi tình trước phụ sau 
Chi cho bằng sớm liệu mà buông nhau 
. . . . .
Đọc bài ấy rồi, độc giả đọc bài này :
Lá liễu xanh 
Hoa hồng đỏ 
Trăng rạng tỏ 
Thấp thoáng trong mành ai to nhỏ 
Ai to nhỏ ? 
Vườn xuân cỏ cây tươi tốt 
Khi xuân đầm ấm dương hoà 
Dan díu cùng ai lời thề thốt 
Hẹn dưới hoa.
" Ở trên bài đây, ta nếu thử đề rằng " Thơ mới " mà gửi cho mấy tờ báo vẫn chắc rằng lối " thơ Phan Khôi " là mới, họ sẽ đăng ngay, vì nó có theo luật lệ gì đâu, người ta cũng tự do đặt nó ra, nó là thơ " mới " vậy. Nhưng nó " mới " từ độ mười năm nay, trong Hữu Thanh khi xưa ; tôi đã trích ở trong bài nói về từ khúc của ông Nguyễn Ửng, nó là Từ khúc vậy. Từ khúc lúc ấy rất thịnh trong thi ca. Ấy là một lối thơ tự do, nhưng " tự do " ở trong " giới hạn " âm nhạc câu thơ, tự do phải đường ".
Động Đình đả thơ mới
Cũng trên Văn Học tạp chí số 49, 11-8-1934, Động Đình viết bài " Bàn thêm về lối thơ mới ", lời lẽ có vẻ còn cay nghiệt hơn trước đây. Trước hết, Động Đình cho rằng luật thơ cũ chẳng có gì là khó khăn gò bó cả :" Ít lâu nay cái phong trào thơ mới sôi nổi dữ. Các báo thường thấy hô hào cải cách về thơ. Nào bài xích lối thơ Hàn luật, đổ tội cho thơ cũ của ta phải tội niêm luật quá nghiêm khắc, làm cho mất cả tinh thần tự do của văn chương đi. Nhưng nói thế là lầm, ta hãy xét lại những lời xưa ý cũ của các thi sĩ đời xưa xem có diễn được hết ý tứ, ngụ được đủ tính tình của người làm thơ, tả được hết cái trạng thái của vũ trụ, của cảnh vật không ".
" Đem so với thơ mới bây giờ thì thơ cũ hơn vô cùng, thơ mới vô vị thế nào thì thơ cũ thi vị và ý vị như vậy :
" Cái thi tứ thi vị ngày xưa so sánh với thơ mới bây giờ ra sao. Thật là thơ Hàn luật vẫn ý vị vô cùng, thanh tao biết mấy, bóng bảy dường nào, đọc lên, nghe đến ai mà không hiểu. Tuy, cái niêm luật, thể vần, lối thơ cũ của ta nó hơi khó, hơi nghiêm một chút, nhưng âm điệu vẫn thâm trầm, mà tinh thần vẫn hàm súc đủ các ý tưởng, tình tứ ".
Động Đình cho rằng những lẽ người ta viện ra để bảo thơ cũ luật lệ chật hẹp là không đúng, có thứ chặt chẽ như thất ngôn bát cú, nhưng lắm thứ chẳng có luật lệ gì gò bó như " ca, hát, từ, khúc, trường thiên, cổ phong :
" Vả lại thơ cũ có thật niêm luật khắc khổ nghiêm ngặt thì sao từ trước đến giờ thi sĩ có ai chịu không theo nổi cái niêm luật thể thức ấy đâu ?
" Kể thơ Hàn luật còn lắm điệu, nhiều thể rộng lắm như các bài ca, hát, từ, khúc, trường thiên, cổ phong, chữ và vần vẫn tự do chẳng cũng là đặc điểm khoan hồng cho thi luật lắm đó sao ? Bất tất phải thay đổi chi thêm phiền, thêm rắc rối. Còn lối thơ mới bây giờ, xét ra cũng bất ngoại cái khuôn sáo cũ. Thể cách tuy có hơi khác, nhưng cái tinh thần vẫn cũ rích.
Động Đình đồng ý phải đổi mới cho thơ, nhưng chỉ đổi mới về nội dung mà giữ y nguyên về hình thức chứ, theo ông, thơ mới, ngược lại, chỉ có mới về lời mà ý thì cũ rích và lạc hậu :
" Tưởng đã duy tân cho thơ thì cần ở chỗ tinh thần hơn là hình thức thì mới nên. Chứ chỉ bỏ có niêm luật thể vận cho dễ viết mà thôi, thì e rằng rừng thơ thêm gai góc, hồn thơ tổ vẫn đục.
" Duy có một điều mà tôi muốn bàn đây là chỉ nên cải cách nguyên cái tinh thần cũ. Vì ít lâu nay thơ ca nhường như phần nhiều đều phải chung cái bệnh không hồn. Phàm gọi là thơ, văn phải có tình, có tứ, có khí, có hồn, ấy thế mà chỉ thấy giọng sầu oán bi ai cả là nghĩa lý gì.
" Sao lại có thứ văn chương phù phiếm ấy, nhu nhược thế. Hay là vận thế đến lúc suy, mà văn chương cũng suy theo chăng .
" Văn tức là hồn nước, rất có ảnh hưởng đến nền tiến hoá ".
Cuối cùng Động Đình chê thơ mới yếu đuối, phản động vì buồn bã, ủy mị, hại dân hại nước, không bổ ích cho ai :
" Ta nên rèn dũa sao cho văn chương được hùng hồn, có vẻ hoạt động, thực tế, thì ở thế kỷ 20 này mới thích dụng. Lại còn phải thông thường thì mới bổ ích. Bởi thứ văn sầu cảm đã không bổ ích gì cho đường thực tế, mà lại làm thêm ủy mị đi, mất cả cái nhuệ khí phấn đấu, cái mãnh lực tiến thư, dẫu có hay mấy cũng là vô dụng ".
Nếu ở ngoài Bắc có Văn Học tạp chí đố kỵ thơ mới thì trong Nam có Văn Học tuần san chửi bới thơ mới. Hai nhà văn của Văn Học tuần san bênh thơ cũ chửi thơ mới quyết liệt hơn cả là Tùng Lâm Lê Cương Phụng và Thiết Diện.
Để bênh vực thơ cũ là thứ thơ có âm điệu, có tiết tấu, nghĩa là có chất thơ, tức là đáng gọi là thơ, Tùng Lâm Lê Cương Phụng viết bài " Nói chuyện văn vần : lịch sử và giá trị của nó " (V.H.T.S. số 5, 1-5-1935).Trước hết Tùng Lâm phân biệt văn vần với văn xuôi :
" Tình cảm ở trong, phát lộ ra tiếng nói, tiếng nói có tăng thứ, có ý vị, có âm hưởng, làm cho người ta dễ cảm xúc được, ấy là nguồn gốc của văn vần.
" Tiếng chim hót mùa xuân, tiếng ve ngâm mùa hạ, tiếng dế khóc mùa đông, tiếng cao, tiếng thấp, tiếng nhặt, tiếng khoan, ấy là manh mối của văn vần.
" Văn vần có cái đặc điểm khác văn xuôi là câu đặt gọn gàng mà bóng bảy, lời đưa uyển chuyển mà tiêu dao. Nay xin kể qua lịch sử và giá trị của nó ".
Thế rồi ông ngược dòng lịch sử mà phác vẽ nguồn gốc của thi ca từ Tây phương qua Đông phương, từ đời thượng cổ cho đến nay, đâu đâu người ta cũng thấy văn vần là thứ văn của thần linh :
" Lịch sử văn vần ở Thái tây phát sinh từ đời nào tôi chưa được chắc ; chỉ theo thần thoại Hy Lạp, tôi được biết rằng Apollon là một đứng thi thần (Dieu de la poésie) ; còn theo lịch sử văn chương YÙ Đại Lợi thì tôi thấy người ta tôn sùng Daute làm thi tổ, vì cuốn La divine comédie của Daute.
" Ở Pháp hình như bài vận văn đầu tiên thì thuộc vào thế kỷ thứ IX (chỗ này chúng tôi đương còn tra cứu). Ở Tàu thì trước kỷ nguyên Thiên Chúa hai nghìn năm vào đời Nghiêu, Thuấn đã nứt mầm rồi, đại để như bài ca Cao Dao, bài đờn Ngu Thuấn, bài hát Khang Cù...đều là câu có vận cả.
" Trải qua một khoảng thời gian khá dài hơn hai ngàn năm nữa, từ đời Thành Chu tới đời Lục Triều, lúc bấy giờ văn vần mỗi ngày một tiến lên, và biến thể rất nhiều, từ lối Quốc Phong, Nhã, Tụng mà tiến dần tới thi Ngũ ngôn, Thất ngôn. Dẫu rằng các nhà học giả sinh vào thời kỳ ấy có trứ tác lối văn lý thuyết như Tiêu dao thiên của Trang Chu, Đạo đức Kinh của Lão Tử, và các sách của Tuân, Dương, Quản, Án...nhưng đó chỉ là một thể văn, không thể đánh đổ nổi lối văn gọi là văn tánh tình như vận văn được ".
Tùng Lâm ví thơ với hội hoạ : cái khó của đôi bên làm nên chính cái giá trị của cả đôi bên. Hội hoạ tài tình vì những nét tỉ mỉ, thơ kỳ diệu vì những luật lệ tinh vi. Bỏ tất cả các thứ đó đi, hoạ không còn là hoạ và thi cũng hết là thi :
" Nhà làm văn vần, cũng như nhà hội hoạ, nét bút nhà hội hoạ càng tỉ mỉ, tinh tế, bóng bảy đúng mẫu mực, thì mới thấy cái khéo của nét bút thần tình. Trái lại nếu không có cái sở thích (gỏt) và không thường để ý thưởng thức nó thì không bao giờ nên một nhà danh hoạ được. Nhà làm văn không có cái đặc tánh sở thích thì bao giờ làm nổi văn vần ? "
Sau đó ông bác bẻ những lý lẽ người ta viện ra để chê trách các luật lệ gò bó, câu thúc của văn vần, tức của thơ cũ. Theo ông, thơ là cái gì tinh hoa nhất trong nghề văn :
" Tôi đã có thường thấy nhiều người phản đối văn vần. Họ cho rằng : lối văn ấy câu thúc trong quyền sáo, tẳn mẳn đẽo gọt, mất hết tự nhiên, và nhiều khi vì vận mà ép câu vì lời mà hại ý, mà nhất là phí mất cả thì giờ.
" Phải, chính lúc ban sơ tôi đây cũng nghĩ như thế . Nhưng rồi sau tôi nghĩ lại : Văn vần đứng trong các thứ văn cũng như một mỹ thuật đứng trong các nghệ thuật.
" Văn vần như cánh hoa cắm để chơi, bức tranh treo để ngắm, cây đờn đờn để nghe. Nếu cắm cành hoa không sắc không hương, treo bức tranh vẽ vụng về thô tháp, nghe tiếng đờn không nhịp không nhàng, thì cái giá trị đặc biệt nó ở chỗ nào ? Thà đừng có còn hơn.
" Một lẽ nữa : văn vần là một lối văn để thưởng thức mà chơi. Muốn chơi đến nó, tự nhiên phải theo niêm luật, vận âm của nó, nghĩa là phải nằm trong khuôn sáo của nó ; cho được câu văn chải chuốt bóng bảy, tự nhiên phải phí mất thì giờ. Cái đó để riêng phần cho các nhà tao ông, mặc khách là những nhà tài tử phong lưu, lúc nhàn du ngâm vịnh, chớ mình, thày lay chơi đến nó làm gì mà bảo rằng tốn công tỉ mỉ, phí uổng thì giờ ? ".
Cuối cùng Tùng Lâm kể ra tất cả thể thơ của ta, từ lối bắt chước Tàu (hễ Tàu có gì thì ta có nấy) đến các lối riêng của ta như lục bát, song thất lục bát, ca trù, ca Nam, xoang xẫm, trống quân...rồi ông kết luận rằng thi ca Việt Nam phải là theo truyền thống ấy.
Theo ông, thơ mới chẳng qua chỉ là sự lập dị của một người (chắc ám chỉ Phan Khôi) không thể lấy đó làm khuôn phép :
" Thì tôi dám nói quả quyết rằng, lối văn vần chẳng hạn ở Tàu, ở Tây, hay ở Ta, cứ mỗi ngày mỗi tiến mãi lên vì no cóù cái giá trị đặc biệt, cho nên nhà làm văn vẫn chú ý đến nó và muốn bồi bổ cái gốc nó mà khuyếch trương mãi, trừ ra một ít người không muốn dụng công đặt để tìm theo cách dễ dàng, mau lẹ, khuynh hướng về lối thơ mới. (Chúng tôi sẽ có bài nói riêng về thơ mới). Còn riêng ra những hạng người thích ngâm vịnh, chuộng tài hoa thì thật không bao giờ bỏ qua các lối văn vần để có qui tắc như từ lâu nay chúng ta thường thấy đó " (Văn Học tuần san số 5, 1-5-1935).

Tùng Lâm Lê Cương Phụng đả kích thơ mới
Sang đến Văn Học tuần san số 6, 1-6-1935, Tùng Lâm tấn công thơ mới ra mặt.Vì chưa có trích tuyển ở đâu nên tôi trích vào đây toàn bài để cácbạn tiện bề so sánh. Trong bài này Tùng Lâm đề cập đến các điểm sau đây :1) Chỉ có hạng dốt mới muốn thơ mà lại thơ dễ dãi không niêm luật. 
2) Thơ mới là thứ thơ bừa bãi,vô kỹ luật. 
3) Minh chứng những chỗ dở của các bài thơ mới. 
4) Trách Đông Hồ đã đi lầm đường bỏ thơ cũ là chỗ sở trường của ông để đi vào thơ mới với những bài thơ vô vị :

" Thi vẫn một món trong các thứ văn vần, nhưng đối với các thứ ấy nó lại rắc rối mắc mỏ hơn nhiều. Người đã từng chơi với nó và nếu được ý vị nó ít nhiều, thì lại càng thấy cái khó của nó ; trừ ra những hạng " bướng " hoặc chưa có nhà " đại gia " " căng nọc " ra chỉ vạch những chỗ khuyết điểm cho, thì bao giờ họ cũng vẫn cho là dễ.
" Mà thật thế, có khó chi, cứ đủ vần đủ chữ, đừng thất niêm thất luật, ấy là thi đó chứ gì. Đó là nói về lối thi ngũ ngôn, thất ngôn, chớ còn cái lối thi như hiện thời gọi là " thơ mới " đó, lại càng dễ hơn thập bội nữa. Cứ việc kéo, tha hồ kéo, kéo lượt bượt, mấy vần cũng được, mấy chữ cũng xong, không có khuôn sáo nào, luật nào bó buộc, dễ biết bao nhiêu, không trách gì hạp với thời thượng cũng phải.
" Họ bảo rằng : Cái thời đại này là thời đại máy móc, trăm ban vạn sự gì cũng cần sự mau chóng tiện lợi, đâu có phải như cái đời cũ kỹ trước kia, bất kỳ việc gì cũng chần chờ, chậm chạp, làm phí mất thì giờ, nhà văn cũng thế, ngồi rung đùi tối ngày, tằn mằn tỉ mỉ, đẽo gọt từng câu từng chữ, đối với thời buổi này không dùng lối ấy được đâu ". Nghe có lý lắm ! Nhưng có người cắc cớ hỏi vặn lại một câu :" Thi là một món chơi, để tiêu khiển thì giờ, nó đối với nhân sanh thực tế không quan thiết gì, có cũng được, không không sao, ai bảo đeo đuổi nó làm chi, rồi chê bai nó, ghét ghen nó, mắng nó là lối văn chặt chịa, ở trong quyền sáo niêm luật, không được tự do ? Nếu muốn dễ dãi thì hẳn cứ viết văn xuôi đi, cho người ta dễ hiểu, việc gì phải ngụy tạo ra cái lối văn " cổ chẳng ra cổ, kim chẳng ra kim " ? Thì đây, tôi xin đem ra một bài này để làm đại biểu cho trăm nghìn bài khác :
CẢNH TRỜI XUÂN" Cảnh trời xuân, 
" Em dạo ra sân, 
" Đứng trông, em càng khoan khoái tinh thần. 
" Kìa kìa, con chim nó hót cái giọng 
" Thảnh thót như một vị mỹ nhơn, khảy khúc đờn. 
" Khúc đờn này, tiếng nhặt tiếng khoan, tiếng cao tiếng 
" Thấp, dường như khêu gợi mối xuân tình của em 
" Từ bấy lâu nay dồn dập 
" Rồi em nghĩ vơ nghĩ vẩn, tâm hồn em lẩn thẩn. 
" Nghĩ cái tuổi xanh này, là cái tuổi thơ ngây 
" Một mai xuân này đã qua, thân em già 
" Lúc bấy giờ, em tưởng tượng lại, 
" Em chi xiết ngậm ngùi, nỗi ngậm ngùi. 
" Mây bay, nước chảy, hoa trôi ". 
(Xin dấu tên của tác giả)
" Đó, thơ mới đó ! Tác giả chính là tín đồ của thơ mới, thật tôi ráng đọc ; tôi muốn nói thơ, thì thơ chẳng ra thơ, tôi muốn nói ca, thì ca cũng chẳng ra ca. Tôi chỉ hiểu cái bài ấy là bài ấy đó thôi !" Song, cái bài này đây, nghe ra còn có câu, có nghĩa, chỉ hiềm nó không ở trong một khuôn sáo là " thể " gì cả.
" Tác giả bài này trước kia là tín đồ của thơ luật, có nhiều bài thần tình lắm, chẳng biết bị cái phong trào thơ mới nó lôi cuốn thế nào, nay lại xoay sang làm tín đồ thơ mới ?
" Lại gần đây, có nhiều nhà phỏng theo điệu thơ Tây làm ra nhiều bài, cũng tự cho là thơ mới.
Như bài này :
BÊN GỐC CÂY DỪA" Ánh nắng trời thu dịu dàng êm mát, 
" Bên gốc dừa, cô em ngồi lặng buông câu. 
" Trên thảm cỏ xanh, bên sông bát ngát, 
" Cô đăm đăm nhìn dưới nhịp cầu. 
" Phong cảnh đẹp bóng cây in bóng nước, 
" Lá rung rinh, tàn xanh lả lướt. 
" Mặt cô em tròn trắng xinh tươi, 
" Dưới vành khăn, phơ phất mái tóc mai. 
" Mắt lóng lánh, làn môi tươi thắm ; 
" Khiến cho tôi nhìn cô em say đắm. 
" Nhẹ nhàng tôi bước lại một bên. 
" Ngồi gần cô, tôi lẳng lặng ngắm xem, 
" Giờ lâu tôi mới tìm lời ướm thử 
" Rằng " câu cá vẫn là một cái thú : 
" Những người thanh tao ẩn dật xưa nay, 
" Chỉ biết thanh nhàn với cỏ cây, 
" Sớm vác cần câu bên khóm trúc... 
" Buông cần cô em ngảnh nhìn tôi : 
" Cặp mắt ngây thơ, cô trả lời : 
" Em nào phải thanh nhàn phong phú, 
" Mượn cảnh thiên nhiên làm vui thú. 
" Nhà nghèo sớm tối em nhọc nhằn, 
" Lúc dưới nắng hạ, lúc mưa xuân, 
" Lúc gió đông thổi lạnh lùng rét mướt, 
" Và sương thu rơi thấm ướt, 
" Em vẫn phải làm với ngày tháng cho qua, 
" Bên gốc cây, câu để nuôi nấng mẹ già, 
" Trong túp lều tranh, sớm mong chiều đợi. 
" Hai mắt đã loà, hai chân đã mỏi, 
" Chỉ trông vào em, kiếp sống chiều tàn... 
" Cần lòng yêu, để che nỗi khóc than... 
" Em nào phải thanh nhàn phong phú, 
" Mượn cảnh thiên nhiên làm vui thú, 
" Sớm câu, chiều câu, lại mai câu. 
" Mong có cá nhiều và mong mẹ sống lâu, 
" Bữa qua bữa với tấm lòng vui vẻ, 
" Của một mẹ già trông mong ở con trẻ.
" Thể thơ đó, bắt vần như thể thơ Tây, nhưng tác giả phun châu nhả ngọc, muốn bao nhiêu tuỳ ý. Có bài gấp đôi, lại cũng có bài ngắn bằng nửa." Mà rồi ta thử  lẳng lặng ngâm coi, coi cái giọng ngâm nó ra sao ? Ngâm như ngâm thi thì ngâm thế nào được, hay là phải ca như ca Văn Thiên Tường ? Hoặc phải bắt giọng như giọng ca Tiều của cô Phùng Há ?
" Xét cho kỹ, chẳng qua tác giả chán nản cái công phu đặt thi luật, nó chỉ có bốn câu tám câu năm vần, ba vần mà phải cho đủ ý, đủ lời, không thất niêm, không phản luật, không lạc vần, thấy khó chơi, rồi thì băng qua một con đường khác đặng cho dễ dãi, nhưng không ngờ lại đâm ra cái bãi đại sa mạc minh mông !
" Muốn cho dễ dãi một ít, khỏi mất công phu đẽo gọt, thì tôi xin hiến cho một kế là hẵng làm theo lối thơ Đường, mà thể Đường cổ phong. Thì như bài này : 
 

THƠ VUA SIAM MỚI GỬI CHO VUA CŨ" Năm xưa chú bảo chú đau mắt ; 
" Bà con ai cũng cho là thật ; 
" Cả nước chờ chú về làm vua ; 
" Ai ngờ tin chú ngày một mất

*
" Bây giờ thơ chú gửi về nhà, 
" Rằng chú ở lại nước người ta, 
" Ngôi vua chú không muốn ngó đến, 
" Thịnh suy mặc kệ nghiệp ông cha.

*
" Không lẽ nước có, vua không có, 
" Đình thần mới chọn cháu lên đó, 
" Cháu đã nghĩ tới rồi nghĩ lui, 
" Cháu biết làm vua là chuyện khó

*
" Vì rằng trong nước đảng phái nhiều, 
" Quân chủ, dân chủ biết bao nhiêu, 
" Rầy nhất là chính sách lập hiến, 
" Quyền vua chỉ còn có một thiu.

*
Cũng vì mẹ cháu bàn giải mãi, 
" Cháu không làm vua cháu cũng dại, 
" Dầu chỉ có vị không có quyền, 
" Nhưng mình ăn tiêu còn rộng rãi.

*
" Huống chi kinh tế buổi khó khăn, 
" Tay làm không đủ cho miệng ăn, 
" Ai chê ai cười chi cũng mặc, 
" Làm vua còn sướng hơn làm dân.

ĐƯỜNG QUANG 
(Trích ở báo Ánh Sáng)

" Đó cũng là lối thơ dễ dãi, mà nghe hay, lại có lý thú nữa. Nếu muốn văn hoa thêm thì phỏng như bài này : 
 

HOA THẬT HOA GIẢ 
(Lời cô hàng hoa)
" Cô em hàng xóm sinh nhà nghèo, 
" Trồng hoa tưới hoa sớm lại chiều, 
" Gió đông vừa thổi hoa vừa nở, 
" Cắt bó vội vàng đem bán chợ, 
" Chợ chiều lác đác người hồ quang, 
" Gánh hoa còn nặng cô bàng hoàng. 
" Nào đâu quà em, nào cháo mẹ, 
" Mẹ yếu em thơ lòng những thương ! 
" Đổ hoa xuống rãnh bưng mặt khóc, 
" Khóc ra giọt lệ như giọt ngọc. 
" Cúi đầu gạt lệ sợ người cười, 
" Nhìn hoa dưới rãnh mắt khôn rời. 
" Thương hoa thương cả công vun xới, 
" Sương nắng công trình biết mấy mươi ! 
" Ô hay ! người đời riêng tính lạ ! 
" Hoa thật chẳng thích, thích hoa giả, 
" Hoa thật hỏi mua nào mấy người ? 
" Hoa giả đắt hàng như tôm tươi, 
" Cô em ngẫm nghĩ bụng sực nhớ, 
" Vì nghèo nên phải liệu chiều đời, 
" Mua lụa mua phẩm, mua giây sắt, 
" Nhuộm đủ các màu đem kéo cắt, 
" Nào cành, nào cánh, nào đài trang, 
" Khéo làm chẳng khác chi hoa thật. 
" Làm xong hoa giả bán nhiều tiền, 
" Lãi lời tấn tới ngày một lên. 
" Mẹ khỏe, em học, chị buôn bán, 
" Tay không bỗng chốc dư bạc nghìn ! 
" Có khi thong thả thăm vườn cũ, 
" Mắt trông trăm hoa chiều ủ rũ, 
" Tàn tàn, nở nở biết bao lần, 
" Mưa mưa, gió gió ai là chủ ? 
" Tần ngần ngắm nghía cô thương tâm ! 
" Chứa chan dòng lệ khôn ngăn cầm ! 
" Thương hoa, thương cả nghề buôn bán, 
" Lai láng tình riêng năm lại năm.

NHƯỢNG TỐNG
" Gần đây lại nổi cái phong trào thi bình dân. Thấy có nhiều tờ báo đăng những bài thi, trong đó tác giả dùng nhiều tiếng rất tục tĩu khó nghe quá. Như là : ỉa phẹt phẹt, ăn ngủ đ..., bày mổng trôn...Bảo rằng đó là thơ bình dân. Lại còn ngụy biện bảo là lối tả chân. Gớm thật !" Đâu có hiểu rằng, thơ bình dân nghĩa là thơ có tính chất bình dân, không cái " mốt " thưởng nguyệt xem hoa, đề non vịnh nước, tiêu sầu khiển hứng như những trang tài tử phong lưu, không mơ mộng lên cung quế, gặp Hằng Nga, uống rượu đào, nghe khúc sinh ca, như phái thi ông lãng mạn. Chỉ cốt lời văn mộc mạc, tả ra cái phong vị của hạng bình dân mà thôi.
" Muốn tập làm thi bình dân thì hẵng bắt chước như bài dưới này :
ĐI LÀM THUÊ 
" Miền tôi ở lở dở, 
" Đã cách với nguồn lại xa chợ. 
" Muốn buôn, không có đồng vốn nào, 
" Muốn cày ruộng, không có một sở ; 
" Học mới học cũ cũng dỡ dang, 
" Không phải thầy, cũng không phải thợ. 
" Trong tay không có nghề, 
" Thêm nạn khủng hoảng gớm ghê ! 
" Ma đói dục thúc mãi 
" Buộc mình bước chưn đi làm thuê 
" Nghe nói miệt trong đường xe lửa, 
" Các ông đứng thầu làm nhiều sở. 
" Lật đật mang gói đi ngay vào, 
" Cùng bạn cô li làm dọi bữa. 
" Đào đất đập đá, 
" Công việc vất vả. 
" Mong rằng mồ hôi đổi bát cơm. 
" Đồng công đồng nợ có tiền trả, 
" Nào hay vài tháng nay, 
" Làm rồi tiêu rồi, không có đồng nào còn dính tay. 
" Chỉ lưa cái mình mộc, 
" Đi về lỡ cười lại lỡ khóc ! 
Người Làm Thuê 
(Trích ở báo Tiếng Dân)
" Đó, xem có chữ nào quê kịch, sống sượng, tục tỉu không ?" Luôn dịp nói chuyện thơ, tôi xin nói đến thơ Đông Hồ :
" Đông Hồ tiên sinh, một nhà thi sĩ đã viết ra nhiều tập, in ra nhiều cuốn, hình như tác giả có cái sở thích về thơ.
" Tôi để ý xem thì đoán được ngay nhà thi sĩ này có mấy cái đặc tính :
" Mấy năm trước, nhà thi sĩ vẫn là tín đồ của phái thi niêm luật, khoảng trung gian lại ít chuyên về lối ấy, thường dùng " Thơ tản văn ".
" Tôi không hiểu lối này là lối gì. Xin trích ra một hai bài dưới đây :
BÓNG TRĂNG TÀN 
" Bàng hoàng tỉnh giấc, mảnh trăng khuya chấp chới giải bên màn, ngửa mặt nhìn trăng, lầu sầu quấn quít. Cùng ai dưới bóng trăng này : Gió hắt, sương bay, đêm thu lạnh. Cảnh xưa tình cũ nào đâu : tay ngọc ai cầm, lòng son ai tựa, tóc mây ai buông toả bên vai. 
" Vói bóng bắt trăng, bức màn rung động, nào phải đâu tay ngọc ai đưa, để âu yếm mối ân tình trên đầu năm ngón...gối nghiêng trằn trọc suốt canh dài ! "

CÀNH HOA HỒNG 
" Bình pha lê lóng lánh, cắm cành hoa hồng, tay ai vừa cắt trước sân nhà, buổi tan sương sớm. Đôi má hây hây, kề tựa đóa hoa mơn mởn, vẻ đẹp như lấn, khiến cho bông hoa hồng thèn thẹn nụ cười. Một ngày qua trở lại, cánh hồng bay tơi tả khắp bàn... 
" Một năm qua trở lại, đôi má hây hây đâu đã vắng, cánh hoa hồng năm trước đã héo khô rồi. Đôi má hây hây, nay có lẽ, đang kề tựa đóa hoa mơn mởn nào đâu, nhưng vẻ đẹp biết có như lấn, mà khiến cho bông hoa hồng thèn thẹn nụ cười nữa không ? "

" Còn nhiều nữa, vô khối ! Tôi chỉ trích ra hai bài đó cũng như các bài khác.
" Tản văn là tản văn, mà thơ là thơ, đâu có thơ với tản văn chung với nhau làm một được ? Nếu bảo thơ thì tất nhiên phải có vần nghe mới được chớ, dầu cổ, dầu kim, dầu Đông, dầu Tây, chưa tầng thấy lối thơ nào mà thơ không vần, xin hỏi Đông Hồ tiên sanh ?
" Gần đây, nhà thi sĩ lại cũng chịu ảnh hưởng " thơ mới " ít thấy làm tứ tuyệt, bát cú như trước nữa, hoặc giả bị cái trào lưu thời thượng nó lôi cuốn rồi chăng ? Nhưng xem thơ mới của tác giả thì có phần kém hơn thơ luật nhiều. Tôi chưa nói chỗ hay chỗ dở, ý thì ít mà lời thì nhiều, đại khái như bài thơ này :
TRƯỚC GIÓ 
(Tặng Thanh Lan) 
" Chập tối hôm qua, ta gặp một người trong mộng. 
" Người có cái đẹp dịu dàng, xinh tươi lồng lộng. 
" Là cái đẹp mặn mà, đằm thắm của người con gái đến thì, 
" Cái đẹp dễ khiến cho người nhìn đắm đuối say mê. 
" Nàng đứng chỗ ào ào cơn gió rét, 
" Hơi gió lạnh như thấm vào trong xương thịt, 
" Chiếc áo lụa phong phanh màu tuyết trắng bong, giải khăn san phơn phớt màu hồng bay lả lướt, phất phơ theo chiều gió lốc, như một áng mây tàn lờn vờn trên cành cây ngọc. 
" Ta, bấy giờ, thấy người giá buốt, mà trông nàng thì như chẳng chút lạnh lùng. Âu yếm, ta sẻ hỏi : Em ơi ! Lạnh nhỉ ? Mỉm cười, đáp lại lời ta : Anh ơi ! Tuổi trẻ ! tuổi trẻ là tuổi êm đềm, đầm ấm, nồng nàn, thì chi có sợ nỗi lạnh lùng của sương gió, của thời gian. 
" Mặc gió thổi, sương gieo, thời gian lãnh đạm, ánh than hồng của lòng ta vẫn ấm và vui với văn chương, trăng gió, cỏ hoa,với non sông, ánh sáng và nhất là với tình ái của đôi ta ? 
ĐÔNG HỒ
" 
Tôi xin mạn phép tác giả, cũng trong bài ấy, bấy nhiêu chữ, tôi xin rút lại tám câu như thế này :

Gặp người trong mộng tối hôm qua, 
Trạt tuổi xuân xanh nét mặn mà. 
Chiếc áo phong phanh màu tuyết nhuộm, 
Giải khăn phơn phớt áng mây qua. 
Lạnh lùng chẳng quản cơn sương gió, 
Đầm ấm như say thú cỏ hoa. 
Âu yếm, ta vừa lên tiếng hỏi, 
Mỉm cười, liền tỏ tấm tình ra.
" Như vậy cũng đủ ý, đủ nghĩa, mà chẳng gọn hơn sao ?" Tôi đã đọc qua các tập thơ Đông Hồ, tôi có để ý đoán xét được tác phẩm của nhà thi sĩ này hầu hết chín phần mười là thư tình, mà là tình mơ mộng cả, thành ra hão và phù phiếm quá, ít có bài nào vịnh vật hoặc kỷ sự như mấy nhà thi nhơn khác. Thử lật một tập " Thơ Đông Hồ " ra xem, thì nhan nhản những bài : Chơi hoa, Khóc hoa, Nhớ Mai, Trông trăng nhớ người, Dưới hoa, Buồn nhớ người xưa, Buồn vơ buồn vẩn, Gặp nhau, Trách nhau...chan chứa cả giọng bi sầu ảo não.
" Rồi xem đến cuốn " Cô gái xuân " cũng thấy rặt những bài :
" Ngấn lệ, Quả tim, Cái hôn lần đầu, Giấc mộng tình, Đưa nhau, Hôn em, Dưới cây, Hỏi nhỏ, Gió buồng xuân...cũng là lai láng cả tình là tình !
" Thì ra cái tâm hồn nhà thi sĩ này thường vơ vẩn ở cõi " Cánh hoa thuỷ nguyệt " cùng là tiêu dao nơi hận hải tình thiên " trừ ra không mấy khi thấy lối văn nào khác nữa. Tản Đà Nguyễn Khắc Hiếu cũng bị mấy cái tật ấy mà Phạm Quỳnh tiên sanh tặng cho cái tiếng " văn chơi " " Ngông " chỉ nghĩa là không thiết thực.
" Vậy xin thi sĩ Đông Hồ cũng nên bớt bớt cái lối văn tình đi, xin luôn đừng chơi thơ mới nữa, hãy khôi phục lại lối thơ như các bài mấy năm trước đã từng làm, mong sau này sẽ trở nên một thi gia thằng mặc "
Sau khi chửi bới thơ mới và khuyên Đông Hồ nên bỏ thơ mới trở về với thơ cũ, Tùng Lâm Lê Cương Phụng còn lên tiếng cực tán thơ Đường mà ông cho là hơn hết mọi thứ thơ vì năm lý do sau đây (xem bài Những cái đặc sắc của Đường thi, V.H.T.S. số 9 tháng 9 năm 1935).
1) Là nấc tiến cuối cùng, tột đỉnh của thi ca Tàu.
2) Là vì nó là thể thơ được xã hội cực văn minh Trung Hoa trau dồi tô điểm trong mấy trăm năm.
3) Là vì nó là một kho tàng văn chương vô cùng phong phú, đủ màu, đủ sắc.
4) Là vì nó là thể thơ thuần nghệ thuật chứ không phải là thể thơ đạo đức.
5) Là vì lắm khi nó còn bao hàm ý nghĩa bình dân, phô thông.
" Đều là thi, trước đời Đường thì Hán, Tấn, Nguỵ cũng có thi, sau đời Đường thì Tống, Nguyên, Minh, Thanh cũng có thi. Thế sao lại Đường thi vẫn có giá trị hơn ? Các nhà thi sĩ phê bình nhau cũng lấy thi Đường làm căn cứ, các nhà nho học, cũng lấy thi Đuờng làm thi pháp nhập môn. Cho đến mấy câu sáo ngữ ở Tàu thường nói " Đường thi, Tống Tự, Hán văn chương " " Đường nhân phong vị " v.v... Thì biết thi Đường có giá trị hơn các thi khác. Nhưng, ta nên biết cái đặc sắc của nó ở chỗ nào ?
" Có người nói : Lục triều vẫn có thi, nhưng thi ấy phần nhiều phức tạp, Tống, Nguyên, Minh vẫn có thi, nhưng thi ấy không được phong tao, không bằng Đường thi gồm đủ các thể tài. Nói thế, vẫn có lẽ, song chỉ lấy một phương diện chớ sự thật thì còn nhiều chứng tá. Muốn biết cái đặc sắc của Đường thi, nên xem lời phê phán của ông Hồ Vân Đực thì mới biết rõ là xác đáng hơn.
" Ông Hồ là một thi sĩ có tiếng ở đời nhà Thanh, người có công nghiên cứu về thi học, có viết ra cuốn nghiên về Đường thi, trong có nhiều đoạn bài bác các nhà thi sĩ xưa nay nhiều chỗ ngộ giải ; nay tôi chỉ xin lược trích ra một chương nói về chỗ đặc sắc của Đường thi, hiến cho các thi nhân được biết một ít Đường nhân phong vị.
" Đường thi sở dĩ hơn các thi khác, có bốn cái đặc sắc :
" Một là do thể thi của Tấn, Nguỵ mà biến thành mới, có niêm luật, có cổ, cận thể, có trường đoản thiên. Tức như các bài đã tuyển trong bộ Đường thi tam bách thư.
" Hai là đời Thạch Đường từ vua Cao Tôn về sau, hơn ba trăm năm triều đình chỉ chăm một mặt dùng thi phú từ chương làm nấc thang cho sĩ phu trong nước. Đại để như ông Lý Thái Bạch làm ra bài " Thanh bình Điệu " thì được vua Huyền tôn yêu quí lạ thường, ông Bạch Cư Dị làm bài Trường Hận Ca thì vua Hiến Tôn vời làm chức Hàn lâm học sĩ, vua Mục Tôn thấy tập thi ca của Nguyên Thận thì vời làm chức xá nhân, cho đến các cung phi, hoàng hậu như Võ Hậu, Vi Hậu, Mai Phi, Dương Phi đều là các bà thích ngâm vịnh cả. Người bề trên đã ham chuộng, tự nhiên kẻ bề dưới phải lấy đó làm con đường tiến thân, thành ra một phong khí tập quán.
" Ba là ảnh hưởng của thời cuộc ; vì đời Đường từ khai nguyên Thiên hửu sắp về sau, trong nước thường gặp nhiều cảnh éo le, những cảnh ấy dễ làm đề tài cho thi nhơn đề vịnh, đại khái như việc An Lộc Sơn đời Minh Hoàng, việc Sử Tư Minh đời Túc Tôn, việc Trần Hoàng Chí đời Hiến Tôn, việc Chu Toan Trung đời Chiêu Tôn, thảy thảy những đại biến trong nước, nhà làm thi hay dùng sử liệu vào thi ca, mở xem một bộ Đường thi bao nhiêu bài đáng ca tụng, đều là những bài thời thế, như Điếu chiến trường, Yên ca, Tùng quân, Khuê oán, Cung Trung từ ...Có nhiều cảnh nên thơ, thơ mới nảy ra nhiều tình tứ, mới thấy chỗ đặc sắc.
" Còn một lẽ nữa, đời nhà Đường lấy thi làm tác phẩm văn chương, chứ không như Hán, Nguỵ và Tống chỉ lấy thi làm tác phẩm đạo đức, vì người đời ấy cho rằng đã là thi mà ngụ cái giọng đạo đức thì lời văn không được thôi xao, thành ra không lưu truyền được rộng, xem như thi của Châu Mậu Thúc, Thiệu Nghiên Phu ở Tánh Lý thì đủ biết.
" Vả lại, Đường thi thì có cái đặc sắc là phần nhiều chứa chất nhiều qua niệm văn học bình dân. Đại khái như thi của Nguyên Thận, Vương Xương Linh, Bạch Cư Dị, Cao Thích, Vương Duy... Phần nhiều thi của các ông ấy lời văn giản dị mà thâm, ý tứ dồi dào càng dễ cảm, thành ra một lối thi phổ thông trong đám bình dân. Lục trong thi Đường có nhiều bài miêu tả cảnh thống khổ của xã hội, như là trọng phú (thuế nặng), Phụ nhơn khổ (cái khổ của người đàn bà), Mãi thán ông (ông bán than) Chiết tí ông (ông gãy tay)...Nay tôi xin trích mấy câu trong bài Ông bán than dịch ra đây, để cho các bạn đọc biết rằng lối thi bình dân đã xuất hiện từ đời Đường :
" Mãi thán ông, phạt tân thiêu thán nam san trung, mãn diện trần khôi yên hoả sắc, lưỡng mấn thương thương thạp chỉ hắc, mãi thán đắc tiên hà sở dinh, thân thượng y phục khẩu trung thực, khả liên thân thượng y chánh đan, tâm ưu thán tiện nguyện thiên hàn "...
" Ông bán than, đốn củi đốt than núi Nam san, mặt mày khói khém lem lọ bôi, mái tóc xanh kịt, tay đen thùi, bán than kiếm tiền lo mưu sanh, lo ăn trong miệng, mặc trong mình, thương hại mình ông áo mỏng lét, ông lo than ế, cầu trời rét... ". Lối thi đó đủ chứng là một lối thi bình dân ".
Thế rồi, để kết luận bài " Những cái đặc sắc của Đường thi ", Tùng Lâm kết luận bằng việc hô hào các ông làm thơ mới hãy thôi lập dị :
" Hỡi các nhà thơ mới của ta ! Đừng tưởng rằng Đường thi là thi cổ hãy chịu khó tìm kiếm trong thi Đường mà xem thử coi, không có lối nào mà thi Đường không có, cái đặc sắc của nó là gồm đủ các phương diện, các thể tài, cảnh có, tình có, tả chân có, quí phái có, cần gì phải bịa ra thơ mới làm chi, làm cho nhiều bạn trẻ em học cách háo kỳ, tập làm theo, đã bất thành cú, mà rồi một ngày kia không còn ai biết Đường thi là gì, chẳng là uổng cho văn nghệ ba trăm năm của một đời toàn thạnh lắm sao ? "
Share this article :
 
Support : Creating Website | phuctriethoc | NGUYỄN VĂN PHÚC
Copyright © 2013. NGUYỄN VĂN PHÚC - All Rights Reserved
By Creating Website Published by KINH TẾ HỌC
Proudly powered by NGUYỄN VĂN PHÚC
NGUYỄN VĂN PHÚC : Website | Liên hệ | phuctriethoc@gmail.com
Proudly powered by Triết học kinh tế
Copyright © 2013. NGUYỄN VĂN PHÚC - All Rights Reserved