Hiến Pháp Trị(Phần 3)
ICEVN - Hiến Pháp trị - Phần3
Phân chia quyền hành và hệ thống kiểm soát và cân bằng
Các nhà Lập quốc [Mỹ] phải trả lời câu hỏi là, vì phải cần có người mới làm được công việc cai trị, thì làm sao thiết lập được một chế độ cai trị theo luật chứ không phải cai trị theo người. Tựu chung là vì các vị đó cũng là những nhà chính trị thực tế nên muốn gắn liền tinh thần của chế độ hiến pháp trị vào những đặc điểm độc đáo đương thời của mình. Vấn đề nan giải vừa có tính cách triết lý vừa có tính cách thực tiễn này có lẽ được diễn tả rõ nhất bởi James Madison trong Luận cương Liên bang số 51. Madison nói rằng phải dùng tham vọng để trị tham vọng. Tư lợi của con người cần phải được gắn liền vào quyền do hiến pháp quy định. Chỉ cần hiểu biết một chút ít về bản chất của con người cũng cho ta thấy rằng “cần phải có những cơ chế như vậy mới ngăn chặn được các lạm dụng của chính quyền”. Nếu con người đều là thần thánh cả thì sẽ không cần có các cơ chế bên trong và bên ngoài để kiểm soát chính quyền. Nhưng Madison là con người thực tế. Cũng theo lời của Madison, chế độ hiến pháp trị đòi hỏi là phải có một chính sách “dùng các sự mâu thuẫn, và đối nghịch trong tư lợi để khai thác cái điểm yếu của [luôn luôn có ngay cả trong] các động cơ cao thượng”. Một chế độ hiến pháp trị, xây dựng trong tinh thần khôn ngoan tôn trọng con người, cần phải cho chính quyền có thể kiểm soát được những người dưới quyền cai trị của chế độ. Tuy nhiên, đi đôi với điều đó, nhưng không kém phần quan trọng, là phải có một cơ cấu đề phòng để kiểm soát và giữ quân bằng ngay trong chính quyền [chính quyền tự kiểm soát lấy mình].
Bằng cách chia công việc cai trị ra cho ba ngành độc lập, các nhà soạn thảo Hiến pháp Mỹ muốn giữ cho các quyền lực chính - lập pháp, hành pháp và tư pháp – không bị độc quyền nắm giữ bởi bất cứ một ngành nào. Phân bổ quyền cai trị cho ba ngành khác nhau cũng ngăn chặn việc chính quyền quốc gia lấn áp quyền của các tiểu bang. Quyền lực và trách nhiệm của chính quyền đều được cố ý để cho chồng chéo lên nhau. Một thí dụ là quyền hạn làm luật của quốc hội có thể bị chặn lại bởi quyền phủ quyết của tổng thống. Nhưng quyền phủ quyết này lại có thể bị bác bỏ bởi 2/3 số phiếu của cả hai viện. Tổng thống nắm quyền tổng tư lệnh quân đội, nhưng chỉ có Quốc hội mới có quyền lập ra và hỗ trợ quân đội, và có quyền chính thức tuyên chiến. Tổng thống có quyền bổ nhiệm thẩm phán liên bang, đại sứ, và các viên chức cao cấp trong chính quyền. Nhưng mọi sự bổ nhiệm phải có sự cố vấn và chấp thuận của Thượng viện. Không một luật nào có hiệu lực nếu không được cả hai viện thông qua.
Tòa án tối cao có quyền tối hậu hủy bỏ các hành động trái với hiến pháp của cả lập pháp lẫn hành pháp. Đây là nguồn gốc của vai trò duyệt xét luật pháp và trao quyền cho giới thẩm phán liên bang tại Hoa kỳ sau vụ kiện giữa Marbury v. Madison (1803). Quyền duyệt xét lại luật pháp không phát xuất từ văn bản của Hiến pháp Mỹ (trong Hiến pháp không có minh thị đề cập tới thẩm quyền này) nhưng là từ một số các phán xét của tòa vào những năm cuối của thế kỷ 18. Đặc điểm chung của tất cả các vụ phán xét đó là mối liên hệ giữa việc duyệt xét luật pháp và luật tối cao, ít ra là làm cơ sở có tính cách triết lý hay đạo đức để biện minh cho thẩm quyền của tòa án. Người Mỹ thời bấy giờ chắc là đã tin theo một lời dậy của người xưa cho rằng nếu luật của con người đưa ra không thuận với luật thiên nhiên thì không còn được coi là luật nữa mà đã trở thành một luật đã bị hủ hoá. Ý tưởng này đã được James Otis[18] diễn đạt một cách ngắn gọn trong bài Quyền của các thuộc địa Anh quốc đã được Khẳng định và Chứng minh [Rights of British Colonies Asserted and Proved (1764)] như sau:
“Luật thiên nhiên không phải do con người tạo ra, mà con người cũng không có quyền sửa đổi luật đó. Con người chỉ có thể hoặc tuân theo và thi hành luật đó hoặc chống lại và vi phạm luật. Nhưng không bao giờ có thể chống lại hoặc vi phạm mà lại không bị trừng phạt; ngay cả trong cuộc đời này, sự trừng phạt đó có thể dưới hình thức là khiến cho con người cảm thấy mình trở thành sa đọa, hay là cảm thấy mình, vì cái sự điên rồ và ác độc của mình, đã bị đào thải ra khỏi tập thể của các người tốt và đạo đức[và bị đẩy] xuống hàng thú vật, hay là từ cương vị là người bạn, và có lẽ là người cha, của đất nước đã biến thành loài hung bạo như sư tử, hùm beo"[19].
Thể chế liên bang
Các nhà Lập quốc [Mỹ] cũng quyết định là quyền lực phải được chia ra giữa các cấp chính quyền toàn quốc và tiểu bang. Sự thất bại của các Điều khoản của Liên minh (1781-87) để lập ra một chính phủ có thể hoạt động được tại thuộc địa Mỹ đã khiến cho các đại biểu trong cuộc Đại hội về Hiến pháp tại Philadelphia năm 1787 đặt thêm quyền lực tại trung tâm của chính quyền.
Các Điều khoản là một cách sắp xếp chuyển tiếp từ hệ thống chính quyền đầu tiên lập ra bởi Đại hội Toàn châu trong thời kỳ cách mạng sang hệ thống chính quyền liên bang lập ra bởi Hiến pháp Mỹ năm 1787. Vì đã từng thấy quá rõ tính cách áp chế của chính quyền trung ương nước Anh, nên các nhà soạn thảo các Điều khoản cố tình lập ra một “liên minh” gồm các quốc gia có chủ quyền. Tuy nhiên các Điều khoản không cho Quốc hội có quyền buộc các tiểu bang phải đóng góp tiền và quân đội theo yêu cầu của Quốc hội nên tới cuối năm 1786, chính quyền đã mất hữu hiệu và trở nên hoàn toàn tê liệt.
Theo Hiến pháp Mỹ thể chế liên minh (confederation) sẽ được thay thế bằng thể chế liên bang (federation) trong đó quyền lực sẽ được chia sẻ giữa một chính quyền toàn quốc và nhiều chính quyền tiểu bang. Chính quyền toàn quốc có quyền tối cao trong một số lãnh vực nhưng tiểu bang không phải chỉ thuần tuý là các đơn vị hành chánh của chính quyền trung ương. Quyền của các tiểu bang được bảo vệ bằng nhiều cách. Trước hết, bản Tu chính thứ 10 của Hiến pháp nói rõ là một số lãnh vực hoạt động được dành riêng cho các tiểu bang. Chẳng hạn chính quyền tiểu bang phần lớn chịu trách nhiệm quản lý ngân sách của mình và thực thi luật pháp trong nhiều lãnh vực trực tiếp ảnh hưởng tới dân cư ngụ trong tiểu bang. Thứ hai là quyền đại diện của các tiểu bang tại Thượng viện cũng được bảo vệ: mỗi tiểu bang, dù lớn hay nhỏ, đều có hai nghị sĩ. Thứ ba là Cử tri đoàn (electoral college), tức là tổ chức chính thức bầu ra tổng thống, là một tập hợp của các cử tri do tiểu bang chọn, mỗi tiểu bang được quyền có tối thiểu là ba người. Thứ tư là chính thể thức tu chính Hiến pháp cũng phản ánh quyền lợi của các tiểu bang, vì bất cứ một tu chính Hiến pháp nào cũng cần phải có sự chấp thuận của viện lập pháp của 3/4 số tiểu bang và 2/3 của đại diện dân cử của cả hai Viện. Các điều bảo vệ đó đều được ghi rõ trong Hiến pháp để giữ cho các tiểu bang nhỏ không bị lấn áp bởi các tiểu bang lớn. Sự chia sẻ quyền lực giữa chính quyền tiểu bang và chính quyền toàn quốc là một sự kiểm soát có tính cách cơ cấu trong một hệ thống kiểm soát và cân bằng rất tinh tế.
Phân chia quyền hành và hệ thống kiểm soát và cân bằng
Các nhà Lập quốc [Mỹ] phải trả lời câu hỏi là, vì phải cần có người mới làm được công việc cai trị, thì làm sao thiết lập được một chế độ cai trị theo luật chứ không phải cai trị theo người. Tựu chung là vì các vị đó cũng là những nhà chính trị thực tế nên muốn gắn liền tinh thần của chế độ hiến pháp trị vào những đặc điểm độc đáo đương thời của mình. Vấn đề nan giải vừa có tính cách triết lý vừa có tính cách thực tiễn này có lẽ được diễn tả rõ nhất bởi James Madison trong Luận cương Liên bang số 51. Madison nói rằng phải dùng tham vọng để trị tham vọng. Tư lợi của con người cần phải được gắn liền vào quyền do hiến pháp quy định. Chỉ cần hiểu biết một chút ít về bản chất của con người cũng cho ta thấy rằng “cần phải có những cơ chế như vậy mới ngăn chặn được các lạm dụng của chính quyền”. Nếu con người đều là thần thánh cả thì sẽ không cần có các cơ chế bên trong và bên ngoài để kiểm soát chính quyền. Nhưng Madison là con người thực tế. Cũng theo lời của Madison, chế độ hiến pháp trị đòi hỏi là phải có một chính sách “dùng các sự mâu thuẫn, và đối nghịch trong tư lợi để khai thác cái điểm yếu của [luôn luôn có ngay cả trong] các động cơ cao thượng”. Một chế độ hiến pháp trị, xây dựng trong tinh thần khôn ngoan tôn trọng con người, cần phải cho chính quyền có thể kiểm soát được những người dưới quyền cai trị của chế độ. Tuy nhiên, đi đôi với điều đó, nhưng không kém phần quan trọng, là phải có một cơ cấu đề phòng để kiểm soát và giữ quân bằng ngay trong chính quyền [chính quyền tự kiểm soát lấy mình].
Bằng cách chia công việc cai trị ra cho ba ngành độc lập, các nhà soạn thảo Hiến pháp Mỹ muốn giữ cho các quyền lực chính - lập pháp, hành pháp và tư pháp – không bị độc quyền nắm giữ bởi bất cứ một ngành nào. Phân bổ quyền cai trị cho ba ngành khác nhau cũng ngăn chặn việc chính quyền quốc gia lấn áp quyền của các tiểu bang. Quyền lực và trách nhiệm của chính quyền đều được cố ý để cho chồng chéo lên nhau. Một thí dụ là quyền hạn làm luật của quốc hội có thể bị chặn lại bởi quyền phủ quyết của tổng thống. Nhưng quyền phủ quyết này lại có thể bị bác bỏ bởi 2/3 số phiếu của cả hai viện. Tổng thống nắm quyền tổng tư lệnh quân đội, nhưng chỉ có Quốc hội mới có quyền lập ra và hỗ trợ quân đội, và có quyền chính thức tuyên chiến. Tổng thống có quyền bổ nhiệm thẩm phán liên bang, đại sứ, và các viên chức cao cấp trong chính quyền. Nhưng mọi sự bổ nhiệm phải có sự cố vấn và chấp thuận của Thượng viện. Không một luật nào có hiệu lực nếu không được cả hai viện thông qua.
Tòa án tối cao có quyền tối hậu hủy bỏ các hành động trái với hiến pháp của cả lập pháp lẫn hành pháp. Đây là nguồn gốc của vai trò duyệt xét luật pháp và trao quyền cho giới thẩm phán liên bang tại Hoa kỳ sau vụ kiện giữa Marbury v. Madison (1803). Quyền duyệt xét lại luật pháp không phát xuất từ văn bản của Hiến pháp Mỹ (trong Hiến pháp không có minh thị đề cập tới thẩm quyền này) nhưng là từ một số các phán xét của tòa vào những năm cuối của thế kỷ 18. Đặc điểm chung của tất cả các vụ phán xét đó là mối liên hệ giữa việc duyệt xét luật pháp và luật tối cao, ít ra là làm cơ sở có tính cách triết lý hay đạo đức để biện minh cho thẩm quyền của tòa án. Người Mỹ thời bấy giờ chắc là đã tin theo một lời dậy của người xưa cho rằng nếu luật của con người đưa ra không thuận với luật thiên nhiên thì không còn được coi là luật nữa mà đã trở thành một luật đã bị hủ hoá. Ý tưởng này đã được James Otis[18] diễn đạt một cách ngắn gọn trong bài Quyền của các thuộc địa Anh quốc đã được Khẳng định và Chứng minh [Rights of British Colonies Asserted and Proved (1764)] như sau:
“Luật thiên nhiên không phải do con người tạo ra, mà con người cũng không có quyền sửa đổi luật đó. Con người chỉ có thể hoặc tuân theo và thi hành luật đó hoặc chống lại và vi phạm luật. Nhưng không bao giờ có thể chống lại hoặc vi phạm mà lại không bị trừng phạt; ngay cả trong cuộc đời này, sự trừng phạt đó có thể dưới hình thức là khiến cho con người cảm thấy mình trở thành sa đọa, hay là cảm thấy mình, vì cái sự điên rồ và ác độc của mình, đã bị đào thải ra khỏi tập thể của các người tốt và đạo đức[và bị đẩy] xuống hàng thú vật, hay là từ cương vị là người bạn, và có lẽ là người cha, của đất nước đã biến thành loài hung bạo như sư tử, hùm beo"[19].
Thể chế liên bang
Các nhà Lập quốc [Mỹ] cũng quyết định là quyền lực phải được chia ra giữa các cấp chính quyền toàn quốc và tiểu bang. Sự thất bại của các Điều khoản của Liên minh (1781-87) để lập ra một chính phủ có thể hoạt động được tại thuộc địa Mỹ đã khiến cho các đại biểu trong cuộc Đại hội về Hiến pháp tại Philadelphia năm 1787 đặt thêm quyền lực tại trung tâm của chính quyền.
Các Điều khoản là một cách sắp xếp chuyển tiếp từ hệ thống chính quyền đầu tiên lập ra bởi Đại hội Toàn châu trong thời kỳ cách mạng sang hệ thống chính quyền liên bang lập ra bởi Hiến pháp Mỹ năm 1787. Vì đã từng thấy quá rõ tính cách áp chế của chính quyền trung ương nước Anh, nên các nhà soạn thảo các Điều khoản cố tình lập ra một “liên minh” gồm các quốc gia có chủ quyền. Tuy nhiên các Điều khoản không cho Quốc hội có quyền buộc các tiểu bang phải đóng góp tiền và quân đội theo yêu cầu của Quốc hội nên tới cuối năm 1786, chính quyền đã mất hữu hiệu và trở nên hoàn toàn tê liệt.
Theo Hiến pháp Mỹ thể chế liên minh (confederation) sẽ được thay thế bằng thể chế liên bang (federation) trong đó quyền lực sẽ được chia sẻ giữa một chính quyền toàn quốc và nhiều chính quyền tiểu bang. Chính quyền toàn quốc có quyền tối cao trong một số lãnh vực nhưng tiểu bang không phải chỉ thuần tuý là các đơn vị hành chánh của chính quyền trung ương. Quyền của các tiểu bang được bảo vệ bằng nhiều cách. Trước hết, bản Tu chính thứ 10 của Hiến pháp nói rõ là một số lãnh vực hoạt động được dành riêng cho các tiểu bang. Chẳng hạn chính quyền tiểu bang phần lớn chịu trách nhiệm quản lý ngân sách của mình và thực thi luật pháp trong nhiều lãnh vực trực tiếp ảnh hưởng tới dân cư ngụ trong tiểu bang. Thứ hai là quyền đại diện của các tiểu bang tại Thượng viện cũng được bảo vệ: mỗi tiểu bang, dù lớn hay nhỏ, đều có hai nghị sĩ. Thứ ba là Cử tri đoàn (electoral college), tức là tổ chức chính thức bầu ra tổng thống, là một tập hợp của các cử tri do tiểu bang chọn, mỗi tiểu bang được quyền có tối thiểu là ba người. Thứ tư là chính thể thức tu chính Hiến pháp cũng phản ánh quyền lợi của các tiểu bang, vì bất cứ một tu chính Hiến pháp nào cũng cần phải có sự chấp thuận của viện lập pháp của 3/4 số tiểu bang và 2/3 của đại diện dân cử của cả hai Viện. Các điều bảo vệ đó đều được ghi rõ trong Hiến pháp để giữ cho các tiểu bang nhỏ không bị lấn áp bởi các tiểu bang lớn. Sự chia sẻ quyền lực giữa chính quyền tiểu bang và chính quyền toàn quốc là một sự kiểm soát có tính cách cơ cấu trong một hệ thống kiểm soát và cân bằng rất tinh tế.