Home » » Hiến Pháp Trị (Phần 4)

Hiến Pháp Trị (Phần 4)

Written By kinhtehoc on Thứ Sáu, 17 tháng 2, 2012 | 00:09

Hiến Pháp Trị (Phần 4)
ICEVN - Hiến Pháp Trị (Phần 4)

Công cuộc tranh đấu cho quyền cá nhân


Phần dẫn nhập của Hiến pháp đi tìm một trật tự chính trị mới dựa trên các nguyên tắc sau đây: để thành lập một sự liên minh hoàn thiện hơn, để tạo ra một hệ thống phòng vệ chung, để lập ra một chế độ công bằng, và để đảm bảo những niềm hạnh phúc tự do cho các thế hệ hiện tại và mai sau. Ngay cả trước đó, bản Tuyên ngôn Độc lập đã nói tới các “quyền bất khả xâm phạm” cố hữu trong bản chất của con người mà không một chính quyền nào có thể tước bỏ. Vào thời đó, mà ngay cả cho tới bây giờ, đã diễn ra những cuộc bất đồng ý kiến gay gắt giữa các phe phái về vấn đề làm thế nào để đảm bảo những niềm hạnh phúc tự do đó. Khi mới được soạn thảo và đưa ra các tiểu bang để phê chuẩn, Hiến pháp không có nói gì tới quyền tự do cá nhân. Một cách giải thích cho sự khác thường này là bởi vì các nhà soạn thảo Hiến pháp cho rằng quyền lực của chính quyền quốc gia mới được lập ra đã được giới hạn một cách cẩn thận đến mức không cần phải có thêm các bảo vệ khác cho quyền cá nhân. Hơn nữa, có nhà chủ trương thể chế liên bang lập luận rằng nếu kể rõ thêm các quyền thì cũng có thêm một điều đáng ngại nữa là có những quyền được coi là thiết yếu nhưng nếu không được nêu ra thì có thể bị chính quyền xâm phạm.

Mặc dầu phe Chống Liên bang thua trong vòng tranh đấu khi soạn thảo Hiến pháp 1787, nhưng họ cũng đã có thể bắt buộc đối phương phải nhượng bộ. Vì e ngại quyền lực của chính quyền toàn quốc mới [quá mạnh], họ đòi hỏi là phải ghi vào trong Hiến pháp một loạt các điều bảo vệ cụ thể cho quyền cá nhân. Tại một số các đại hội ở cấp tiểu bang họ cũng được các lãnh tụ của phe Liên bang hứa là sẽ ủng hộ thông qua những tu chính Hiến pháp thích hợp. Một số các tiểu bang lại còn đe dọa sẽ không phê chuẩn Hiến pháp trừ phi là họ được đảm bảo là phải thông qua một đạo luật về quyền. Phe chủ trương Liên bang đã giữ lời hứa. Năm 1789, Quốc hội đầu tiên của Mỹ đã chấp thuận 10 tu chính đầu tiên của Hiến pháp. Tới năm 1791, Luật về Quyền, gồm 10 điều tu chính này, đã được đủ số tiểu bang phê chuẩn. Hơn thế nữa, Tu chính số 9 - minh thị bảo vệ các quyền cơ bản không được kể rõ trong Hiến pháp - cũng khiến cho phe chủ trương Liên bang không còn e ngại là liệt kê những quyền được bảo vệ sẽ làm phương hại tới các quyền khác không được liệt kê ra một cách rõ rệt như vậy.

Luật về Dân Quyền cũng giới hạn khả năng chính quyền xâm phạm vào quyền cá nhân, bao gồm cả quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tự do hội họp và tự do tín ngưỡng. Luật đó cũng cấm Quốc hội thông qua các luật tôn trọng việc thiết lập một tôn giáo chính thức, nghĩa là ưu đãi một tôn giáo này hơn một tôn giáo khác. Gần 2/3 Luật về Quyền là chỉ nhằm bảo vệ quyền của những người bị nghi là phạm tội hay bị truy tố vì có hành vi phạm pháp. Các quyền này bao gồm các điều như áp dụng thủ tục đúng theo luật pháp quy định, xử án công bằng, không bị ép buộc phải nhận tội, không bị chịu các hình phạt độc ác hay khác thường hay bị xử hai lần cho cùng một tội. Khi mới được thông qua, Luật về Quyền chỉ áp dụng cho các hoạt động thuộc chính quyền toàn quốc.

Kìm hãm sự nhà nước vi phạm vào quyền tự do của công dân là đề tài của các tu chính 13 (1865), 14 (1868) và 15 (1870), được mệnh danh là các Tu chính Kiến thiết [Reconstruction Amendments] và được thông qua sau cuộc Nội chiến để giải thể các định chế của chế độ nô lệ. Trong hơn 100 năm qua, nhiều quyền tự do quy định trong 10 khoản tu chính đầu tiên đã được bao gồm trong khoản tu chính thứ 14 với điều bảo đảm là không một nhà nước nào có thể không cho công dân được hưởng quyền xét xử theo luật định và quyền được luật pháp bảo vệ. Nhất là từ sau những năm 1920, mười (10) khoản tu chính đầu tiên của Hiến pháp đã giữ một vai trò ngày càng tích cực và càng có ý nghĩa trong việc giải quyết những vấn đề khó khăn trong chính sách công - từ tính cách hợp hiến của việc đọc kinh trong trường học và luật thử ma-túy cho tới các vấn đề như kiểm soát sinh đẻ và hình phạt tử hình. Các nguyên tắc cơ bản như “công bằng” hay “tự do” cũng như là các phương châm của Hiến pháp như “xét xử theo luật định”“quyền được luật pháp bảo vệ một cách bình đẳng” đã được các thế hệ kế tiếp cho những ý nghĩa mới. Những phát triển đó, thường đi kèm theo các phong trào phản đối và bất tuân luật pháp của quần chúng, phản ánh những thay đổi trong cảm nhận của con người và của tập tục xã hội trong 200 năm vừa qua.

Sự biện minh có tính cách triết lý cho Luật về Dân Quyền là đạo luật này đặt một số quyền tự do ra ngoài tầm kiểm soát của khối đa số. Điều này căn cứ trên cái tiền đề là tước bỏ quyền cơ bản của công dân sẽ làm giảm cái tư thế công dân của họ, và thực ra là làm giảm ngay cả tư cách con người của họ. Cái tập hợp lớn lao gồm các quyền được Luật về Dân Quyền và Hiến pháp bảo vệ họp thành kết cấu thiết yếu của một chính quyền tự do. Quyền công dân có thể phát sinh trực tiếp từ quyền tự nhiên hay gián tiếp qua các xếp đặt chính trị trong một xã hội xây dựng với sự thỏa thuận của dân chúng thể hiện trong Hiến pháp, qua các tiền lệ của thông luật và qua các luật lệ. Sự thành công của Madison và các người đồng nghiệp của ông trong Đại hội Hiến pháp [Constitutional Convention] và trong Quốc hội đầu tiên phản ánh cái quy cách mà các vị đó đã tiến hành để dựng lên các quy trình và cơ cấu có khả năng tự điều chỉnh để thi hành quyền một cách hợp pháp và đưa ra những tiêu chuẩn thực hiện các quyền đó tại Mỹ.

Chế độ hiến pháp trị, tự do và trật tự thế giới mới

Việc chấm dứt chiến tranh lạnh cùng với sự sụp đổ của Liên bang Sô viết và các nước phụ thuộc tại Đông Âu đã đưa tới một cảm giác chiến thắng và lạc quan trước triển vọng tốt đẹp của các ý tưởng tự do dân chủ và thể chế cai trị theo hiến pháp. Tháng 12 năm 2000, tổ chức Freedom House (Nhà Tự do), một tổ chức không lợi nhuận với mục đích phát triển dân chủ trên khắp thế giới, đã phổ biến một tài liệu nghiên cứu quy mô về tình trạng hiện tại về quyền chính trị và quyền tự do của 191 nước trên thế giới. Tập tài liệu nghiên cứu, tựa là Tự do trên Thế giới 2000-2001, cho thấy là cái xu hướng tự do gia tăng từng mức độ nhỏ kéo dài suốt 10 năm vẫn còn tiếp tục trong năm 2000. Theo nghiên cứu hàng năm của tổ chức này, 86 quốc gia gồm 2,5 tỷ [tức 2500 triệu] người ( hay 40,7 % dân số thế giới, tỷ số cao nhất từ khi tổ chức này làm điều tra nghiên cứu) được đánh giá là “có tự do”. Các người dân này được hưởng một số quyền tự do rộng rãi. Năm mươi chín quốc gia, gồm 1,4 tỷ người (23,8%) được coi là “tự do một phần”. Trong các quốc gia này quyền chính trị và quyền tự do bị giới hạn hơn. Các quốc gia này cũng là các nước có các đặc điểm như tham nhũng, đảng cầm quyền có tính cách áp chế và một số nước có xung đột về tôn giáo hay chủng tộc. Cuộc điều tra nghiên cứu cũng cho thấy là 47 quốc gia, gồm 2,2 tỷ người (35,5 %) thuộc loại “không có tự do”. Dân tại các nước này không có các quyền chính trị và quyền tự do cơ bản.
Share this article :
 
Support : Creating Website | phuctriethoc | NGUYỄN VĂN PHÚC
Copyright © 2013. NGUYỄN VĂN PHÚC - All Rights Reserved
By Creating Website Published by KINH TẾ HỌC
Proudly powered by NGUYỄN VĂN PHÚC
NGUYỄN VĂN PHÚC : Website | Liên hệ | phuctriethoc@gmail.com
Proudly powered by Triết học kinh tế
Copyright © 2013. NGUYỄN VĂN PHÚC - All Rights Reserved