Phạm
Quỳnh và quá trình tiếp nhận văn hoá phương Tây ở Việt Nam đầu thế kỷ XX
|
|
Vương Trí Nhàn
Blog Vương Trí Nhàn |
|
|
|
I.
Từ Nguyễn Trường
Tộ, Nguyễn Lộ Trạch qua Phan Chu Trinh và các nhà nho hoạt động cho Ðông Kinh
Nghĩa Thục, trong giới trí thức - thường gọi là các sĩ phu - của nước ta cuối
thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, thấy nổi lên một loạt người có cách nhìn khác đi so
với cách giải quyết thông thường các vấn đề xã hội. Họ cũng yêu nước; trước
hoạ diệt vong, họ cũng muốn nhận lấy trách nhiệm với đất nước. Song, xem xét
kỹ tình hình xã hội đương thời, họ cho rằng cứu nước trước tiên không phải là
lập nên lực lượng vũ trang tổ chức kháng Pháp mà cần “cường dân hoá quốc”,
đưa nước ta hưng thịnh theo mẫu hình xã hội phương Tây, sau đó thì công cuộc
cứu nước cực kỳ quan trọng kia mới có cơ thực hiện.
Khi quan niệm
như vậy, mỗi nhà nho của chúng ta - những người vốn được đào tạo từ nơi cửa
Khổng sân Trình - quả đã trải qua một cuộc đột biến trong suy nghĩ. Song,
trong trường hợp này, sự nhạy cảm đã mách bảo họ khá chính xác, trí tuệ của
họ tìm ra một định hướng hợp lý khiến cho lòng yêu nước có được sức sống, lại
mang sắc thái khá hiện đại. Nói gọn lại là họ đã đúng! Hãy thử nhìn vào sự
chuyển biến của xã hội Việt Nam trong lịch sử: nếu đem xã hội đó cuối thế kỷ
XIX và một vài năm đầu tiên của thế kỷ XX, so sánh với chính nó những năm
30-40 (và không quên quy định rõ với nhau rằng chỉ xét sự vật thuần tuý mà
không đếm xỉa đến những nguyên nhân khách quan, chủ quan, các loại tác động
bên trong và bên ngoài v.v...), người ta sẽ ngạc nhiên thấy giữa đôi bên có
một khoảng cách xa thẳm. Một sự thay đổi ghê gớm đã đến với xã hội này, chẳng
khác chi một con người đổi thịt thay da, hoặc một cỗ máy được tháo ra và lắp
lại theo kiểu khác. Từ góc độ của kẻ đứng ngoài - trong trường hợp này là kẻ
cầm đầu cơ quan cai trị - vào năm 1928, toàn quyền P. Pasquier đã khái quát
bằng hình ảnh “Tôi từng biết nước Nam hồi còn đi võng, nay xem ra như đã muốn
lên tàu bay rồi“ (Nam Phong. Số 127, 1928; tr. 216). Hơn chục năm sau, tức là
qua năm 1942, trong bài mở đầu cho Thi nhân Việt Nam 1932 - 41 , với tư cách
một người trong cuộc, Hoài Thanh sẽ viết về một nước Việt Nam kỳ lạ:
“Chúng ta ở nhà
tây, đội mũ tây, đi giày tây, mặc áo tây. Chúng ta dùng đèn điện, đồng hồ, ô
tô, xe lửa, xe đạp (...). Nhưng cuộc Âu hoá không phải chỉ có thế. Nó đã đi
qua hai giai đoạn: hình thức và tư tưởng; nó còn phải đi qua một giai đoạn
nữa. Nó đã thay đổi những tập quán sinh hoạt hàng ngày, nó đã thay đổi cách
ta vận động tư tưởng, tất nó sẽ thay đổi cả cái nhịp rung cảm của ta nữa
(...) Phương Tây bây giờ đã đi tới chỗ sâu nhất trong hồn ta“ (Hoài Thanh,
tr. 18).[1]
Sự vận động như
vậy đã rõ, phương hướng lại càng rõ. Trước khi nhà văn hoạt kê Vũ Trọng Phụng
cho Xuân tóc đỏ mang hai chữ Âu hoá ra đùa giỡn, thì suốt một thời gian dài,
nó đã là điều ám ảnh, tức yếu tố chi phối mọi hành động của bao người. Sở dĩ
nó, cuộc Âu hoá ấy, có thể diễn ra, và bất chấp mọi giá (ngay trong máu và
nước mắt, trong chán chường và uất hận), vẫn diễn ra, bởi lẽ rộng hơn suy
nghĩ của một hai người có đầu óc sáng suốt, và rộng hơn một phong trào vận
động (như phong trào Ðông Kinh Nghĩa Thục), nó là nhu cầu bức bách của cả xã
hội. Chẳng phải bốc đồng mà Phan Chu Trinh, trong thư gửi toàn quyền Pháp
từng kêu lên về tình trạng suy đồi của đời sống tinh thần trong dân ta lúc
bấy giờ: “Giả phỏng chính phủ cho mượn dăm ngàn khẩu súng cấp đất vài tỉnh
cho ở, không thèm hỏi đến, tha hồ muốn làm gì thì làm, chỉ độ dăm năm, thật
là báo thù lẫn nhau cho chết hết mới thôi, quyết không thể sống nổi trong cái
thế giới này, lại còn chống cự được ai nữa?“ (Dẫn theo Ðặng Thai Mai tr.
251). Ý Phan Chu Trinh muốn bảo, trong hoàn cảnh ấy, không canh tân đất nước
đi, thì có độc lập cũng vô nghĩa. Theo lô - gích mà suy, rõ ràng giữa hai
nhiệm vụ là đánh Pháp và mở mang dân trí, cái thứ hai nếu không cấp bách hơn
thì cũng quan trọng ngang với cái thứ nhất. Có điều, cũng từ đây, khía cạnh
bi đát của lịch sử bắt đầu bộc lộ. Biết bao người có tâm, có chí, có hiểu
biết song bởi chỗ chỉ chăm chăm lo việc trước mắt, hoá ra manh động, trước
sau không tránh được thất bại. Trong cuốn Sự phát triển của tư tưởng ở
Việt nam từ thế kỷ XIX đến Cách mạng tháng Tám (tập II) với tiêu đề cụ
thể Hệ ý thức tư sản và sự thất bại của nó trước các nhiệm vụ lịch sử,
Trần Văn Giàu xác nhận “Những tổ chức cách mạng yêu nước không hề đặt vấn
đề điều hoà văn hoá Ðông phương và Tây phương, chỉ nghĩ rằng đi vào văn hoá
là xa rời yêu nước” (Trần Văn Giàu, tr. 529). Chủ ý của ông là muốn đưa
ra một lời khen ngợi, song chúng tôi tưởng, nếu đúng như thế, thì đây lại là
lời cắt nghĩa đúng đắn bậc nhất về thất bại của những người yêu nước đương
thời (xin lưu ý tôi nói những người yêu nước đương thời, tức là thời mà xã
hội Việt Nam chưa được nhào nặn lại theo hướng Âu hoá, chứ không phải những
người yêu nước nói chung). Trong khi ấy, có những kẻ lâu nay thường được lịch
sử ta coi như bọn phản bội, đặt cược cả đời mình vào việc cộng tác với ngoại
bang, tối thiểu cam chịu một bề, đầu hàng hoàn cảnh, cốt sống và tồn tại,
song, suy cho cùng, họ rất gần gũi với cách hiểu của Phan Chu Trinh nói trên
về tình trạng đất nước, cũng như cách vượt ra khỏi tình trạng tệ hại đó.
Khách quan mà xét họ có đóng góp vào việc thúc đẩy cho sự nghiệp canh tân.
Việc đánh giá các nhân vật lịch sử bao giờ cũng phải rất cụ thể. Giữa những
người cùng làm một việc, động cơ chi phối chưa chắc đã giống nhau; giữa những
người cùng ý nghĩ , có khi lịch trình hành trạng lại trái ngược và sẽ được
thông cảm ở mức độ khác nhau. Tuy nhiên nếu được phép quan niệm rằng với xã
hội Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX, nhu cầu canh tân - với tư cách là bước đầu
tiên đi đến cứu nước - là một nhu cầu có thật, thì người ta sẽ dễ dàng độ
lượng và có cái nhìn phải chăng hơn với nhiều người, trong đó có một nhân vật
lịch sử mà lâu nay thường được quy là đầu sỏ tội trạng, song thực tế lại đã
làm được khá nhiều việc có ích trong nghiên cứu, giới thiệu và dịch thuật văn
hoá phương Tây vào Việt Nam, cũng như trong việc hướng văn hoá Việt Nam hoà
nhập vào văn hoá thế giới nói chung. Người đó là nhà văn Phạm Quỳnh
(1892-1945).
II.
Theo nhà sử học
Nhật Tsubôi thì một trong những đòi hỏi cấp bách nhất đặt ra với nhiều nước ở
phương Ðông hồi cuối thế kỷ XIX là phải “tạo điều kiện thuận lợi cho sự
phát triển một kiểu tư duy khả dĩ thức tỉnh ý thức dân tộc trước sự bành
trướng của phương Tây”. Và để đáp ứng đòi hỏi đó, ở Nhật Bản người ta đã
đưa ra khẩu hiệu “Hoà hồn dương tài”, ở Triều Tiên có “Ðông đạo tây
khí”, ở Trung Quốc có “Trung thể tây dụng”. Bằng cách diễn tả khác
nhau, các khẩu hiệu đó có phần cốt lõi giống nhau: đó là những cố gắng của
trí thức mỗi nước nhằm tìm cách hoà hợp văn hoá Ðông -Tây và tạo cho đất nước
một sự thích ứng với hoàn cảnh (Tsubôi, tr. 184-185). Trong khi đó ở Việt
Thế chỗ bắt đầu
của tâm thức “kết hợp Ðông- Tây”, “thổ nạp Âu Á” này là gì?
Có một khái niệm
cơ bản, một khi có được nhận thức mới về nó, người ta sẽ hiểu đúng hơn thực
chất các vấn đề xã hội do đó có một phương hướng hành động đúng: Ðó là khái
niệm văn hoá.
Những người có
quan tâm đến lịch sử Việt
Như nước Ðại
Việt ta từ trước
Vốn xưng nền văn hiến đã lâu Sơn hà cương vực đã chia Phong tục Bắc
Cho đến cuối thế
kỷ XIX, trong đầu óc các nhà nho, văn hoá vẫn được hiểu như vậy. Có cương vực
bờ cõi riêng, phong tục tập quán riêng, tức chúng ta đã có văn hoá riêng.
Chắc chắn không có gì đáng phải phàn nàn về nền văn hoá đó. Hơn nữa, nó - nền
văn hoá ấy - đủ mạnh đến mức có thể là yếu tố cố kết mọi người lại, lôi cuốn
họ vào cuộc chiến đấu cứu nước, cho đến khi lấy lại được đất nước.
Tiếc thay, điều
đã đúng trong các thế kỷ trước, đến nay không đúng nữa.
Mặc dù vẫn nhân
danh văn hoá (theo nghĩa rộng), nhân danh hùng khí đất nước để chiến đấu,
song các cuộc khởi nghĩa Cần vương trước sau không tránh được thất bại.
Tại mệnh trời
chăng? Lúc đầu nhiều người chỉ nghĩ có vậy. Song lẻ tẻ, bắt đầu có người ngờ
rằng sở dĩ chúng ta thất bại, vì cuộc sống ở xã hội ta quá trì trệ, dân trí
ta thấp, trong đó có sự hiểu biết của ta về thế giới quanh ta đơn giản nghèo
nàn cũ kỹ dẫn đến tình trạng có sự tách rời giữa nước ta với thế giới. Vậy là
tại văn hoá. Nếu cứ để như cũ, nền văn hoá đã là lý do của mất nước lại sẽ
trở thành vật cản trong công cuộc cứu nước. Dù sâu cây bén rễ đến đâu, nền
văn hoá đó cũng phải được làm lại. Phải nói rằng trước lớp trí thức Tây học
khá lâu, các nhà nho đã có người nghĩ như vậy. Song với lớp trí thức trẻ hơn
(sản phẩm của quá trình Âu hoá do sự áp đặt cưỡng bức của thực dân Pháp) thì
các ý nghĩ đó mới được đẩy đến cùng. Ðến lượt mình, Phạm Quỳnh sẽ có dịp nhấn
mạnh điều đó thật đầy đủ khi phác ra bức tranh toàn cảnh của cả khu vực
phương Ðông lúc ấy:
“Cái nông nỗi
mất nước của ta chính là một tấn kịch nhỏ trong tấn kịch Ðông - Tây xung đột
nhau. Tây phương đem lại cái chủ nghĩa đế quốc, cái dục vọng bá quyền, những
tư tưởng phá hoại những cơ khí tối tân mà tràn ngập sang Ðông phương trong
khoảng một thế kỷ nay, làm cho các dân tộc Ðông phương thất điên bát đảo bảy
nổi ba chìm đến nay hãy còn tê mê chưa tỉnh sự đời. Thành ra cái nông nỗi ấy
đối với ta không phải chỉ là một vấn đề chính trị mà thôi , lại kèm thêm một
vấn đề văn hoá nữa, khó khăn nguy hiểm vô cùng.”
Phạm Quỳnh đã
viết như vậy trong bài Văn hoá và chính trị in ở tạp chí Nam Phong số 107,
năm 1926. Và Phạm Quỳnh còn trở đi trở lại với cái ý ấy trong nhiều bài viết
lớn nhỏ khác nữa, bao gồm từ những bài quan trọng, trình bày chính kiến, hoặc
kiểm điểm thành tựu của Nam Phong, cho tới các đoạn văn ngắn, nhân chuyện
thời sự mà bàn thêm việc chung (ông gọi là mục Thời đàm ). Trong những phát
biểu như vậy, tác giả đã làm một cuộc đảo lộn trong quan niệm, bởi đã dám
trao cho văn hoá một sứ mệnh lớn, trực tiếp liên quan đến sự sống còn của đất
nước. Mối phản cảm đã đến rất nhanh với người đương thời. Làm sao mà việc mất
nước lại do văn hoá được? Do quen sống trong một hệ giá trị khác, làm sao các
nhà nho khỏi bị sốc khi phải nghe một kiểu ăn nói nghĩ ngợi khác hẳn mình như
vậy?! Trong cảnh bất lực vì không làm cách gì để đuổi bọn cướp nước đi được,
bấy lâu, điều làm cho họ cảm thấy được an ủi, là thực ra, bọn cướp nước kia
là man di mọi rợ, ta cao hơn chúng, và mặc dù bị thua, song ta vẫn không thèm
dùng đồ của chúng, đi xe của chúng... Nay thì tinh thần bài ngoại ấy - một
thứ chủ nghĩa yêu nước thẳng tay từ chối mọi nền văn hoá khác lạ - hình như
không có cơ đứng vững nữa, làm sao mà họ chịu nổi! Thế còn đối với các nhà
Tây học, liệu có thể nói quan niệm đó của Phạm Quỳnh về văn hoá, là quan niệm
có tính chất chính thống và phổ biến trong lớp trí thức trẻ đương thời? Cũng
không hẳn. Trong số những người cộng tác với thực dân Pháp lúc ấy không thiếu
gì kẻ bị ngợp trước nền văn minh mới, hoàn toàn chối bỏ nền văn hoá truyền
thống của dân tộc. Có gì chung với đám người ấy thì chung, riêng chỗ này Phạm
Quỳnh không chịu! Khi thuật lại chuyện du lịch ở Paris trước 1.500 người nghe,
ông không khỏi tự hào “báo cáo” với thính giả rằng mình đã dám nói ngay ở
Paris, trước Viện Hàn lâm Pháp:
“Nước Việt Nam
là một nước cổ, vốn đã có một nền văn hoá cũ nhưng văn hoá cũ ấy ngày nay
không thích hợp với thời thế nữa, cần phải thâu thái lấy văn hoá mới đời nay
mới có thể sinh tồn được trong thế giới bây giờ”.
Ông yêu cầu nhà
nước bảo hộ phải có, trên phương diện văn hoá, mà cũng tức là trên phát triển
của xã hội ,một chính sách sáng suốt:
“Nếu dân Việt
Nam là một dân tộc còn mộc mạc cổ lỗ, chưa có nền nếp chưa có lịch sử, thì
quý quốc cứ việc hoá theo Tây cả (...) đồng hoá được đến đâu hay đến đó.
Nhưng ngặt thay dân Việt Nam không phải là một tờ giấy trắng muốn vẽ gì vào
cũng được; tức là một tập giấy đã có sẵn từ đời nào đến giờ rồi, nếu bây giờ
viết đè một thứ chữ nữa lên trên, thì e thành giấy lộn mất.” (Thượng Chi văn
tập, t.II , tr. 215)
Với một cách
nhìn chi tiết và cẩn trọng, văn hoá dân tộc với Phạm Quỳnh hiện ra như một
cái gì đa dạng. Nó là một thực thể có thật, không ai có thể gạt bỏ. Nó đã ăn
vào máu thịt mỗi chúng ta, thậm chí là một gánh nặng, mãi mãi chúng ta phải
mang. Song trong gánh nặng ấy, lại thấm thía bao nhiêu mồ hôi nước mắt của
tiên tổ cha ông, lại in dấu bao vui buồn của mỗi kiếp người! Bởi vậy, tốt hơn
hết là hãy đến với cái bản chất thứ hai ấy của ta với một thái độ hết sức
thân tình, vừa tha thiết, vừa tỉnh táo, vừa vui với nó bằng lòng với nó, vừa
biết rằng ở đó có những chỗ yếu, những khuyết tật. Tinh thần phê phán - vốn
là đặc trưng của văn hoá phương Tây - có mặt trong từng nhận xét nhỏ nhất của
Phạm Quỳnh để rồi giúp ông đi tới một tinh thần cởi mở và một thái độ chân
thành trong tiếp nhận. Không chỉ mang lại cho sự tiếp nhận đó một ý nghĩa một
lý do tồn tại, ông còn đề ra cho nó những bước đi và mang lại cho những người
làm việc cụ thể một sự động viên, một niềm an ủi. Bằng con mắt của con người
Việt Nam ở cuối thế kỷ XX, với mặc cảm tự tôn hình thành và tiếp nối trong
nhiều thế hệ, ngày nay đọc lại Phạm Quỳnh, chúng ta dễ có cảm tưởng trước
người nước ngoài và văn hoá nước ngoài, ông chủ bút Nam Phong có phần học
trò, quá đề cao và tôn sùng một chiều. Song, nếu nhớ lại rằng vào thời của
Phạm Quỳnh, nền quốc văn mới - rộng hơn, cả nền văn hoá mới, những nếp sống
mới - còn đang ở dạng sơ khai, thì chúng ta sẽ thông cảm với ông hơn. Hoặc
hãy nhìn sang nước Nhật, cách người Nhật nhìn nhận và cách học của họ trước
văn hoá nước ngoài, chúng ta sẽ thấy trong những gặp gỡ ban đầu, sự trân
trọng là cần thiết đến như thế nào.
Tóm lại, trước
khi tiếp nhận và đồng thời với việc tiếp nhận, Phạm Quỳnh đã giải quyết một
số vấn đề giống như cơ sở lý thuyết.
1.
Thế nào là văn hoá ?
2.
Thực chất của văn hoá dân tộc .
3.
Mối quan hệ giữa văn hoá và thực trạng đất nước,
giữa việc mở mang văn hoá và công cuộc cứu nước.
4.
Tính cấp bách và thái độ cần thiết khi tiếp nhận.
Ðây là những
định hướng quan trọng mà thiếu đi, sự tiếp nhận văn hoá phương Tây không thể
thực hiện một cách tương đối ổn thoả như nó đã được thực hiện. Trong sự bình
tĩnh của con người sống ở cuối thế kỷ XX đầu XXI, chúng ta có dịp nhận thấy
những thành tựu của giai đoạn văn hoá tiền chiến, là khá rực rỡ, có lẽ là
thuộc loại rực rỡ bậc nhất trong lịch sử dân tộc. Nhưng tất cả đã được gợi mở
từ nhiều năm trước khi những người như Nguyễn Văn Vĩnh, Phạm Quỳnh, Phan Kế
Bính, Tản Ðà... mới đào móng xây nền.
III.
Chẳng những có
phương hướng đúng đắn, có quan niệm khá chính xác về công việc, Phạm Quỳnh
còn bắt tay vào làm, tức mang đến cho sự tiếp nhận văn hoá phương Tây những
đóng góp cụ thể. Trong khi hô hào mọi người nên như thế nọ nên như thế kia,
đồng thời Phạm Quỳnh không quên phần việc của mình. Với sự thông minh hiếm có
và thói quen làm việc siêng năng, ông thật đã hoàn thành một khối lượng công
việc khổng lồ mà người đương thời và các thế hệ sau phải kính phục.
Ðể có một ý niệm
sơ bộ về công việc mà Phạm Quỳnh đã làm, người ta chỉ cần giở qua tạp chí Nam
Phong, thậm chí một cuốn bản đồ thu nhỏ của nó, như cuốn Mục lục phân tích
tạp chí Nam Phong 1917-1934 của L. M. Nguyễn Khắc Xuyên in ở Sài Gòn
1968.
Ở mục Triết
học Tây phương, trong vòng 17 năm, Nam Phong in 14 bài thì riêng Phạm
Quỳnh đã viết 11 bài.
Với ba bút hiệu
khác nhau (Phạm Quỳnh, Thượng Chi, Hồng Nhân), ông đã “thi công” ngòi bút ở
đủ các thể loại: viết có, dịch có, lược thuật có, khảo cứu có. Chỉ trừ thơ là
ông không dịch (hoặc không định dịch như một nhà thơ), ngoài ra, thấy cái gì
hay, cái gì cần kíp với đời sống trong nước Phạm Quỳnh lập tức tìm cách
chuyển nó sang tiếng Việt nghĩa là khoác cho nó bộ y phục dân tộc. Vừa bao
quát lịch sử, ông vừa chú ý các vấn đề đương đại của văn học. Vừa làm các
việc tương đối lâu dài theo hệ thống đã định, ông vừa có sự phản ứng linh
hoạt, năng nổ thu vén nhặt nhạnh, không chịu bỏ rơi bỏ sót cái gì. Có thể là
ngòi bút dịch thuật của Phạm Quỳnh không thật tài hoa, nhưng theo một người
thạo tiếng Pháp và cũng hay bắt bẻ như Vũ Ngọc Phan, thì các đoản thiên tiểu
thuyết được ông chuyển từ tiếng Pháp sang tiếng Việt một cách vừa có duyên
vừa sát nghĩa, còn văn khảo cứu của ông chứng tỏ tác giả là “một người có
cái học vừa sâu sắc vừa quảng bác”. Ngày từ 1933, trong Phê bình và cảo
luận, Thiếu Sơn đã ghi công cho Phạm Quỳnh “Những công trình về văn học,
triết học của Âu châu và nhất là của nước Pháp, ông diễn dịch ra quốc văn rất
nhiều, mà dịch thật đúng thật hay, vừa biết tôn trọng cái nguyên ý của tác
giả, lại vừa lựa theo cái giọng điệu của quốc văn” (Thiếu Sơn - tr. 19).
Hơn chục năm
sau, nhóm Thanh Nghị còn đưa ra những nhận xét khái quát hơn. Trong bài viết
mang tên Nay và mai in trên Thanh Nghị số Tết 1944, Ðinh Gia Trinh cho rằng
trong sự kết hợp Ðông Tây, chính thái độ Nam Phong là ôn tồn và phải chăng
hơn cả. Qua thời Tự lực, vẫn theo Ðinh Gia Trinh, người ta “đột ngột đi
tới sự khinh miệt cái di sản tinh thần của nước nhà sự ca tụng quá đáng và
thiết tha những cái gì Âu Tây mang lại (thời kỳ Phong hoá, Ngày nay)” .
Về phần mình nhóm Thanh Nghị không giấu diếm ý đồ “trở lại sự tôn trọng
những di sản của đất nước, những tinh tuý của văn minh Á Đông trong khi tin
tưởng càng mạnh là ta phải học nhiều ở Tây phương để đi tới sự thành công
trong việc xây dựng một nền tư tưởng
và một nền nghệ thuật Việt Nam xứng đáng” (VTN gạch dưới ) Có thể là Thanh
Nghị vẫn không phục gì Phạm Quỳnh (nhất là lúc này Phạm Quỳnh đã vào triều
làm quan); nhưng trong một mục tiêu như thế, họ đâu có ngờ là họ đã đến rất
gần các mục tiêu của Nam Phong.
Ðấy là những
cách đánh giá tích cực.
Về một phía
khác, sự phủ nhận đóng góp của Nam Phong nói chung của Phạm Quỳnh nói riêng
cũng rất quyết liệt. Và trong những năm mà cuộc chiến đấu cho độc lập dân tộc
nổi lên hàng đầu, thì là cả một sự quyết liệt không khoan nhượng. Ðáng kể
nhất là trường hợp Ngô Ðức Kế, như lịch sử văn học đã ghi nhận, và gần đây là
Ðặng Thai Mai. Trong khi dựng lại bức tranh chung của đời sống văn học đầu
thế kỷ, nhà nghiên cứu không dành cho Nam Phong một ý nghĩa tích cực nào, kể
cả trên lĩnh vực thuần tuý học thuật. Những nhận xét chính của Ðặng Thai Mai
đối với vai trò của Phạm Quỳnh trong việc tiếp nhận văn hoá có thể tóm tắt:
1. Lập trường của Phạm Quỳnh đã hỏng, đã là dơ bẩn, thì “ý kiến của y cũng chỉ có thể có hại cho tinh thần”.
2. Thực ra Phạm
Quỳnh không ghê gớm như chúng ta tưởng:
- “Cái mà Phạm
Quỳnh giới thiệu trên tờ Nam Phong không hề có một mặt nào có thể nói là có
hệ thống”. “Phạm Quỳnh đã đọc khá nhiều sách, đã viết rất nhiều vấn đề. Nhưng
y chưa hề nghiên cứu về một vấn đề gì”.
- Về mọi mặt,
chỗ “độc đáo” của y là điểm lạc hậu của bọn học giả phản động Pháp. Với tư
cách “ông tham biện của toà Liêm phóng”, y đã “chiếu theo mặt hàng mà quảng
cáo cho chính sách thực dân và truyền bá phần lạc hậu nhất (kể cả chính kiến
của Charles Maurras) trong tư tưởng nước Pháp” (Ðặng Thai Mai, tr. 126).
Ở đây, chúng tôi
không có tham vọng giải quyết đầy đủ vấn đề Phạm Quỳnh, cũng không dám đứng
ra bàn lại mọi chuyện. Nhưng trước khi đi vào một điểm nhỏ thuần tuý học
thuật, chỉ xin phép nói là ngay với định đề ban đầu (Phạm Quỳnh đã “chọn một
chỗ đứng trong dơ bẩn”), chúng tôi đã thấy nên dè dặt. Bởi nếu cho rằng tình
cảm yêu nước có thể được bộc lộ qua nhiều cách khác nhau và công nhận “hễ
ai có đóng góp về vào việc phát triển ngôn ngữ, nói chung là làm lợi cho đất
nước về mặt văn hoá, đều đã coi như có lòng với đất nước, có ý thức dân
tộc”... thì mọi chuyện có thể được nghĩ khác đi một chút. Thậm chí, ngay
cả khi đã kết luận hai năm rõ mười rằng một người hỏng về lập trường chính
trị, và có cuộc sống tạm gọi là dơ bẩn thì cũng không có nghĩa rằng mọi thứ
người đó viết ra đều là đổ xuống sông xuống bể cả. Thái độ của lớp trí thực
hiện nay ở Pháp và Na-uy với di sản của L. F. Céline, K. Hamsun… chứng tỏ
rằng ngày nay, hậu thế vẫn có thể rút ra nhiều điều bổ ích từ trước tác của
những kẻ từng đã phản quốc và cộng tác với bọn phát-xít. Xử lý cho thích đáng
sự không đồng nhất - tức cũng có nghĩa là sự độc lập tương đối và tách rời tương
đối - giữa lập trường chính trị và học thuật là khó khăn, nhưng cũng là cần
thiết, khi nghiên cứu, chúng tôi nghĩ vậy. Mà trong lịch sử Việt Nam - trước
tiên là lịch sử tinh thần, lịch sử văn hoá - Phạm Quỳnh chính là một ví dụ
tốt để thấy rằng muốn khỏi bỏ sót từng đóng góp nhỏ, một thái độ phân tích
cận nhân tình và thấu đáo là cần thiết như thế nào.
Sau hết, có thực
về học thuật, Phạm Quỳnh cũng rất kém cỏi, một thứ con số không to tướng, như
một số người (chứ không chỉ riêng Ðặng Thai Mai) đã nói chăng?
Ở chỗ này tốt
hơn hết, chúng tôi nghĩ là nên vận dụng triệt để quan điểm lịch sử - một điều
giới nghiên cứu khoa học xã hội ở ta vẫn thường nói và sẵn sàng nói đi nói
lại , nhưng trong lúc làm lại bị nhiều thành kiến vướng víu hạn chế, nên
không mấy khi vận dụng được một cách hợp lý.
Ðúng là Phạm
Quỳnh viết khá tạp. Ông không để lại những công trình dài hơi - chữ của Phạm
Thế Ngũ - và thuần nhất như Trần Trọng Kim hoặc Phan Kế Bính. Nhưng nên nhớ
về mặt học thuật căn bản Phạm Quỳnh là típ người thông tin, loại “thuật nhi
bất tác”. Ðặt ông vào hoàn cảnh nước Việt Nam đầu thế kỷ, người ta thấy ông
khá nhạy bén và thực sự là đã giới thiệu có phân tích có chọn lọc những tri
thức phổ thông trong sách vở phương Tây đương thời và trong không ít trường
hợp có liên hệ với thực tế Việt Nam, thế là được rồi, không nên do ghét ông
mà đặt ra những yêu cầu quá cao như buộc ông đưa ra những luận thuyết, những
triết lý lớn rồi chê là ông không làm nổi. Lại như bảo Phạm Quỳnh chỉ truyền
bá phần lạc hậu nhất trong tư tưởng của nước Pháp thì cũng không hẳn. Chẳng
nhẽ do đăng trên Nam Phong và do Phạm Quỳnh viết mà những bài lược
thuật tổng thuật nghiêm túc giới thiệu về Montesquieu, Rousseau, Voltaire,
Baudelaire, Renan, A. France... đều là không đáng đọc, là có tội? Chúng tôi
ngờ rằng ở đây, Ðặng Thai Mai đã để ngòi bút của mình cho tình cảm nồng nhiệt
chi phối nên có phần... quá tay. Nói riêng về trường hợp Charles Maurras
(1868-1952). Ðúng là trên Nam Phong số 115 ở các trang 218-220 của năm
1927 có thấy trích đăng một ít suy tưởng của nhà văn này. Nhưng chúng tôi
tưởng là Nam Phong đã sòng phẳng khi trong lời dẫn ghi rõ rằng Maurras
là một kẻ đi ngược dòng trong đời sống tư tưởng ở Pháp, giữa thời cộng hoà mà
lại đi đề cao quân chủ, chẳng qua là ông có lối văn rất hay, lập luận rất
khúc chiết, nên cũng cần được biết tới. Còn như bảo Nam Phong đăng
Maurras nghĩa là cùng tư tưởng với Maurras, như vậy chúng ta sẽ tính sao khi
thấy trước đó năm 1926 ở số 109, Nam Phong cho in bản dịch bài viết
của một học giả Nhật Bản viết về Chủ nghĩa xã hội, nói tới tính chất không
thể tránh được - ngày nay ta gọi là tính tất yếu - của chủ nghĩa xã hội và có
dẫn lời của cả Mã-khắc-tư (Marx) lẫn Ân-cách-nhĩ-thị (Engels)? Theo lôgích
trên mà suy, chúng ta sẽ bảo như thế là Phạm Quỳnh cũng góp phần vào việc
tuyên truyền chủ nghĩa xã hội, hoặc là một trong những người đầu tiên cho
đăng trên tờ báo mình, những tài liệu về chủ nghĩa xã hội chăng? Tôi sợ rằng,
nếu được sống lại, Phạm Quỳnh cũng thấy cái mũ ấy to quá, không hợp! Tóm lại,
nếu được để phần lập trường chính trị của Phạm Quỳnh sang một bên khi xét
phần học thuật, và nếu chúng ta thực sự sáng mắt sáng lòng, thật sự thanh
thoát, công bằng trong cảm nhận, chúng ta sẽ thấy phải ghi công cho ông nhiều
hơn trước khi có sự định tội cần thiết. Nên nhớ rằng ngay từ 70 năm trước,
chính vào lúc đi trên đất Pháp, Phạm Quỳnh đã nhận ra những chỗ yếu của văn
hoá phương Tây. Ông bảo nó là cái gì ma quái, “làm vạ cho người đời khá
nhiều”, và chính người phương Tây cũng chẳng sung sướng gì”. Theo ông chúng ta
không nên ngộ hoặc về nó (Pháp du hành trình nhật ký, Nam Phong, số 91,
tr.12). Ở một người mới 30 tuổi, một cách nhìn một tư thế như thế là đàng
hoàng là chững chạc. Tinh thần phê phán có lẽ là một trong những nhân tố
chính khiến cho ngay trên phương diện chất lượng các công trình tiếp nhận văn
hoá của Phạm Quỳnh vẫn có ít nhiều giá trị. Còn như về mặt số lượng, ai cũng
biết là vào khoảng những năm hai mươi, khi Phạm Quỳnh đang viết nhiều viết
khoẻ, nền học thuật ở ta còn ở tình trạng rất phôi thai. Ðứng trước ngổn
ngang công việc và mọi khó khăn bày ra phía trước, ông có vai trò thật sự của
một người mở đường. Sự thao túng của ông đối với đời sống văn học công khai
là điều ai cũng phải công nhận kể cả người cho là hay lẫn người cho là dở. Sở
dĩ đây đó một hai người còn gọi ông là một thứ đạo sư của nền văn nghệ đương
thời, là bởi lẽ đó.
IV.
Ðể diễn tả những
cuộc gặp gỡ kỳ lạ mà cũng hứng thú giữa các nền văn hoá khác nhau, ở nhiều
nước trên thế giới, các học giả thường viện dẫn đến khái niệm acculturation.
Trong tiếng Việt, có người dịch thuật ngữ đó là thụ ứng, người dịch là hấp
thụ, gần đây hơn lại thấy đưa ra những hỗn dung, tiếp biến, đan xen, giao
thoa v.v...; mấy cách dịch ấy chữ nào cũng có lý của nó, nên hãy tạm để đấy,
điều quan trọng hơn là cách hiểu về khái niệm. Bách khoa toàn thư Mỹ định
nghĩa acculturation “là hiện tượng xảy ra khi những nhóm người có
văn hoá khác nhau, tiếp xúc trực tiếp và lâu dài với nhau, gây nên sự biến
đổi trong dạng thức văn hoá ban đầu của một hay cả hai bên (Dẫn theo Hà
Văn Tấn, Tạp chí Nghiên cứu nghệ thuật 4-1981). Ðối chiếu với một định
nghĩa nghiêm chỉnh như thế, người ta thấy cuộc tiếp xúc giữa văn hoá Việt Nam
với văn hoá phương Tây (trước tiên là văn hoá Pháp) trong một vài thế kỷ gần
đây, nhất là cuối thế kỷ XIX đầu XX, đáng được coi là một hành động acculturation
điển hình. Trong bài này, sở dĩ không dùng những giao thoa, đan xen, mà chỉ
dùng một chữ khá phổ biến là chữ tiếp nhận, bởi lẽ, rõ ràng là trong quá
trình tiếp xúc mà chúng ta đang quan sát, sự biến đổi chủ yếu xảy ra với một
bên (phía Việt Nam), hơn là cả hai bên (cả phía Pháp). Hơn thế nữa, phải nhận
đó là một sự biến đổi quá lớn, biến đổi hẳn trong dạng thức (pattern); sau
khi tiếp xúc, văn hoá Việt Nam như nhào nặn lại, làm lại hoàn toàn. Nhưng có
hề gì! Theo các nhà lịch sử văn hoá cho biết hoà nhập, vừa là đặc trưng, là
tính nội tại, vừa là điều kiện sống còn của văn hoá. Lịch sử mỗi nền văn hoá
không chỉ là sự phát triển tự thân của nó, mà còn là lịch sử của mối quan hệ
giữa nó với các nền văn hoá khác. Riêng ở Việt Nam lịch sử đã hai lần biết
tới một sự cấy ghép văn hoá ngoại lai như vậy, nhưng cả hai lần, văn hoá Việt
Nam đều không mất đi, không bị đồng hoá, trong khi cải biến vẫn giữ được sắc
thái của riêng mình. Nếu sau khi tiếp xúc với văn hoá Trung Hoa, chúng ta vẫn
có những thời kỳ phát triển độc đáo, như văn hoá Lý- Trần, văn hoá cuối Lê
đầu Nguyễn, thì sau khi làm một cuộc thay máu hoàn toàn dưới ảnh hưởng văn
hoá Pháp, nền văn hoá Việt Nam nửa đầu thế kỷ vẫn đẻ ra được những đứa con bụ
bẫm, như nền tiểu thuyết hiện đại, phong trào Thơ Mới v.v. Ngày nay, mỗi
chúng ta đều thấy hết sức tự nhiên khi khoác lên người những bộ âu phục với complet,
cravate, chemise... Chúng ta tưởng từ lúc khai thiên lập địa, người Việt
đã ăn mặc vậy. Nghe nói tới nỗi băn khoăn của lớp người đầu thế kỷ khi phải
lần đầu cởi bộ khăn đóng áo dài, nhất là cắt cái búi tó sau gáy, chúng ta hơi
ngạc nhiên. Nhưng quả thật là những bước đầu Âu hoá đã xảy ra với muôn vàn
lúng túng. Và những điều ấy cũng đúng với công cuộc biến đổi trong văn hoá
tinh thần, mà xã hội ta ở đầu thế kỷ thể nghiệm. Ở khu vực này, trong mỗi con
người thường khi dồn tụ bao nhiêu mặc cảm, sự biến đổi xảy ra gián tiếp chậm
chạp, có khi người này cấy trồng, người kia gặt hái, nhưng như người ta vẫn
nói, “có những việc làm thì rất khổ, không làm lại còn khổ hơn” bởi
vậy phải có người làm thì lịch sử mới tiến lên được.
Theo sự tìm hiểu
của chúng tôi, Phạm Quỳnh đáng được coi là nhân vật tiêu biểu của quá trình
tiếp nhận văn hoá vừa nói ở trên, ít ra là ở giai đoạn đầu của sự tiếp nhận
ấy. Người ta thường chỉ nghĩ đến ông như một trong những người có cơ sở Tây
học vững chắc, song sự thực là trong cái môi trường văn hoá Hán Việt rộng lớn
lúc ấy, Hán học đã thấm vào ông , cả hai nền văn hoá Ðông Tây kết hợp ở ông
khá nhuần nhị. Tiếp nối sự nghiệp của những Trương Vĩnh Ký, Huỳnh Tịnh Của...
ông thuộc loại xây nền đắp móng cho nền văn hoá mới. Không hề có sự chuyển
giao chính thức, song ông đã làm những việc cụ thể để biến ước mơ của các nhà
nho đầu thế kỷ, như Phan Chu Trinh và các yếu nhân Ðông Kinh Nghĩa Thục, trở
thành hiện thực. Khốn thay những điều tâm huyết ấy lại được Phạm Quỳnh thực
hiện trong vòng tay của kẻ cướp nước, mối quan hệ của ông với nhà nước bảo hộ
quá gần gũi nó là cái điều không thể chấp nhận với hầu hết các nhà trí thức
thuộc thế hệ ông cũng như các thế hệ tiếp. Ở trên chúng tôi đã nói tới cách
nhìn sổ tuột của một học giả đáng kính với mọi đóng góp học thuật của Phạm
Quỳnh. Thật ra, thái độ đó của Ðặng Thai Mai được khởi đi từ Ngô Ðức Kế và còn
tiếp nói với nhiều người khác, kể cả Thiếu Sơn, để rồi bao trùm trong giới
nghiên cứu ở Hà Nội và kéo ra đến tận Nguyễn Văn Trung ở Sài Gòn trước 1975,
tóm lại là hầu như suốt cả thế kỷ XX. Trong hoàn cảnh một nước luôn luôn có
những chuyện không ổn trong quan hệ với các quốc gia bên ngoài, một thái độ
như thế là dễ hiểu. Trong hàng ngũ trí thức Việt Nam, còn bao người khác, tuy
không nói ra, nhưng sẵn sàng đứng chung tên với các lối lên án Phạm Quỳnh của
Ngô Ðức Kế, và tuy vẫn đọc Nam Phong, nhưng không bao giờ tha tội cho
chủ bút Nam Phong ! Có điều, đọc kỹ thì cũng thấy là Phạm Quỳnh chưa
bao giờ hoàn toàn “mất hết” trong tâm trí giới nghiên cứu, và những ý đồ nhằm
xác định vai trò của ông trong lịch sử, cũng như đánh giá đúng công lao của
ông trong công cuộc xây dựng văn học vẫn thu hút cố gắng của nhiều người. Ở
Sài Gòn trước 1975, Linh mục Thanh Lãng đã sớm đứng ra tranh cãi với Nguyễn
Văn Trung, còn nhà nghiên cứu Phạm Thế Ngũ thì dành cho ông rất nhiều cảm
tình, trong số các tác gia được Phạm Thế Ngũ viết thành những chương riêng
trong bộ Việt Nam văn học sử giản ước tân biên, Phạm Quỳnh và tạp chí Nam
Phong được dành cho một số trang nhiều nhất để nghiên cứu kỹ càng nhất.
Còn ở Hà Nội, chúng tôi chưa có dịp tìm hiểu đầy đủ về các công trình nghiên cứu
từ 1960 về trước, song có điều chắc là từ 1961 trở đi, sau câu nói kiểu văn
bia của Ðặng Thai Mai rằng Phạm Quỳnh, đó là một “học giả” có đủ chữ Hán và
tiếng Việt để bịp người Tây và cũng có đủ chữ Tây để loè người “An Nam”, thì
không thấy ai nói khác. Có điều có thể không nói ra, mà vẫn nghĩ khác, hoặc
lờ mờ cảm thấy cần phải nghĩ khác. Mở đầu cuốn sách Văn thơ cách mạng Việt
Nam đầu thế kỷ XX có mấy trang mang tên Cùng các bạn đọc, trong đó, Ðặng Thai
Mai trình bày ý hướng chính của mình trong từng chương sách. Ðiều kỳ lạ là
với chương VI, chương dành để viết về văn học công khai, tác giả có một giọng
điệu mềm mại khác hẳn, so với những gì ông viết trong sách: “Quyền lãnh
đạo văn hoá đã vào tay bọn thống trị nước ngoài cho nên cái mà người ta gọi
là văn học Việt Nam trên thị trường hồi này chỉ có thể phát triển theo đường
lối của chủ nghĩa thực dân. Do đó mà cái thiện chí của những người muốn xây
dựng văn học nước nhà bằng phương tiện công khai, cũng bị hạn chế”. Cố
nhiên, trung thành với chính mình, Ðặng Thai Mai không gọi đích danh Phạm
Quỳnh. Nhưng “những người muốn xây dựng văn học nước nhà bằng phương tiện
công khai” là ai? Trong thời kỳ mà Ðặng Thai Mai đem ra phân tích, văn
học Việt Nam còn rất phôi thai, bởi vậy khi đề cập tới những nhân tố đóng vai
trò chủ đạo trong dư luận xã hội, người ta nhất thiết phải kể nhóm Nam
Phong và những người chịu ảnh hưởng của Nam Phong. Biết đâu là nếu
còn sống đến ngày nay, ở thời điểm hơn bốn chục năm sau khi cuốn Văn thơ
Cách mạng Việt Nam đầu thế kỷ XX ra đời, Ðặng Thai Mai sẽ cho mang bản án
ra phúc thẩm. Nhưng thôi, dự đoán vậy chỉ để cho thêm thấu đáo, sự thực là
những ghi nhận tích cực với các đóng góp của Phạm Quỳnh còn là quá ít. Vậy
nên dừng lại ở công thức nào bây giờ? Chúng tôi đã băn khoăn nhiều về vấn đề
này, để rồi sau hết, trong phạm vi các tài liệu mà bản thân có dịp đọc, thấy
trên nét lớn, nên đồng ý với cách đánh giá của Nguyễn Trần Huân trong Văn
học Việt Nam dẫn luận (Introduction à la litérature Vietnamienne , P. 1969)
mà Nguyễn Văn Trung đã dẫn lại trong cuốn Chủ đích Nam Phong (Nam Sơn,
Sài gòn, 1975), đoạn dẫn sau đây liên quan chủ yếu đến tờ tạp chí, nhưng ai
cũng biết, nói tới tờ tạp chí ấy là nói tới chủ nhân kiêm chủ bút của nó.
"Những
người Việt Nam yêu nước đã có thể dùng tạp chí để bênh vực những quyền lợi
của văn hoá Việt Nam và Á Ðông… và sự xoay sở tế nhị của Phạm Quỳnh để dung
hoà đôi bên, rút cục có lợi cho Việt Nam.
… Sinh ra để ca
tụng những ân huệ của nước Pháp và sự cao cả của nó trong thế giới, báo Nam
Phong đã vượt mục đích đó, và tất cả hy vọng thầm kín của những cộng tác viên
Việt Nam đã được thoả mãn."
… Không phải là
Nguyễn Trần Huân không biết việc Nam Phong ca tụng Pháp. Nhưng ông khẳng định
dứt khoát: Ðó là một sự xấu xa cần thiết tương đối nhỏ bé, so với công lao to
tát mà tạp chí đã làm cho tiếng Việt.
(Dẫn theo Nguyễn
Văn Trung, tr. 37-38 , VTN gạch dưới )
Mấu chốt vấn đề
ở đây, suy cho cùng, vẫn là cách hiểu của mỗi người nghiên cứu về bản chất
của văn hoá, mối quan hệ giữa văn hoá và công cuộc cứu nước. Phạm Quỳnh đã
nhất quán với chính mình, hành động của ông là phù hợp với quan niệm của ông
về văn hoá, mà ông đã tiếp nhận được của sách vở phương Tây. Còn chúng ta,
chúng ta sẽ hiểu vấn đề như ông, như các nhà nho của phong trào Duy tân đầu
thế kỷ, hay trở lại với cách hiểu của các nhà nho yêu nước như Nguyễn Ðình
Chiểu, Phan Ðình Phùng, Nguyễn Thượng Hiền v.v…, đó là quyền của chúng ta.
Trở lên, trong
khi đáng lẽ phải nói riêng về Phạm Quỳnh, chúng tôi cố ý nhắc tới các sĩ phu
tiên tiến đầu thế kỷ, trong đó có Phan Chu Trinh và các yếu nhân của Ðông
Kinh Nghĩa Thục. Không phải người viết định nói vơ vào cho nhân vật mang ra
bàn luận, và cố kiếm chác cho ông chút vốn liếng chính trị; chẳng qua, hiện
tượng Phạm Quỳnh cũng như các hiện tượng xã hội khác, bao giờ cũng có tính
cách liên tục về mặt lịch sử. Là người nhạy cảm với hoàn cảnh, Phạm Quỳnh
chắc không thể bỏ qua không biết tới những kiến giải của các bậc tiền bối và
những người đương thời về các vấn đề quan trọng của xã hội, rồi sau đó, mới
tính chuyện đi tiếp. Cho nên, chúng tôi cho rằng nhà nghiên cứu Nguyễn Văn
Trung đã nói đúng sự thực khi viết trong các cuốn Chủ nghĩa thực dân Pháp
ở Việt Nam, huyền thoại và hiện thực và Chủ đích Nam Phong rằng,
về mặt văn hoá không thể đi thẳng từ Trương Vĩnh Ký, Huỳnh Tịnh Của tới Ðông
Dương tạp chí, Nam Phong, mà nhất quyết là phải qua Ðông Kinh
Nghĩa Thục, và nói giản lược thì Nam Phong đó là “một Ðông Kinh
Nghĩa Thục do Pháp lập ra” (Nguyễn Văn Trung, tr. 169). Không khó khăn gì
nếu muốn thấy giữa hai bên có những chỗ khác: trong khi Ðông Kinh Nghĩa Thục
chỉ nói tới phương Tây, thì Phạm Quỳnh nói thẳng ra là Pháp, Ðại Pháp; trong
khi Ðông Kinh Nghĩa Thục muốn đi tới một cái gì giống như chính thể cộng hoà (“Vua
là tượng gỗ dân là thân trâu” - Ðề tỉnh quốc dân ca), thì Phạm Quỳnh còn
lấn bấn ở chủ nghĩa tôn quân, -- khi Nam Phong mới khai trương đã nói
tôn quân, mười lăm năm sau, bao nhiêu nước chảy qua cầu, song có lẽ là cần
biện hộ cho việc vào kinh tham chính, lại nói tôn quân. Sẽ rất lý thú, nếu so
sánh các tư tưởng của Phạm Quỳnh với tư tưởng Ðông Kinh Nghĩa Thục, song ngay
từ giờ, nếu có một sự so sánh công bình, khoa học, cận nhân tình, thông cảm
nữa, thì, hơn bù kém, sẽ có lợi cho Phạm Quỳnh. Thậm chí chúng tôi còn muốn
nghĩ tới một cái gì mà thật là không quen thật là ngần ngại khi phải nói ra,
nhưng trong thực tế đã vậy: Phạm Quỳnh có yêu nước, và đó là một kiểu yêu
nước ở thời của ông, nó giúp cho ông thấy ý nghĩa của đời sống và thúc đẩy
ông làm việc. Kết luận khái quát: Khi một người có hoạt động thực sự
trên lĩnh vực văn hoá, trở thành có đóng góp về văn hoá, người đó nhất thiết
phải có tình cảm tốt đẹp và sâu sắc với dân tộc, với đất nước. Ấy là niềm
tin đến với chúng tôi khi lần giở lại Nam Phong. Nó cũng là nhân tố
giúp chúng tôi yên tâm khi tìm hiểu những đóng góp của Phạm Quỳnh trong sự
tiếp nhận văn hoá phương Tây và góp phần hình thành nền văn hoá mới của dân
tộc trong thời hiện đại.
[1] Những tài liệu
tham khảo chính dùng để viết bài này, chúng tôi sẽ nêu ở phần cuối với đầy đủ
tên tác giả, tên sách, nơi và năm xuất bản. Sau các đoạn trích, chỉ xin nêu
tóm tắt tên tác giả với số trang. Ví dụ ghi Hoài Thanh tr. 18 ở đây, tức là
trích ở Thi Nhân Việt Nam 1932--41, bản in ở Hà Nội năm 1989, tr. 18.
Các trích dẫn dưới đây, đều theo lệ đó.
-------------------
Tài liệu tham khảo chính
1. Tạp chí Nam
Phong
2. Phạm Quỳnh Thượng chi văn tập tái bản lần thứ nhất - Bộ quốc gia giáo dục, Sài Gòn, 1962 3. Ðặng Thai Mai - Văn thơ cách mạng Việt Nam đầu thế kỷ XX - bản in lần thứ ba, H. 1974 4. Trần Văn Giàu - Sự phát triển của tư tưởng ở Việt nam từ thế kỷ XIX đến Cách mạng tháng Tám tập II, Hệ ý thức tư sản và sự thất bại của nó trước các nhiệm vụ lịch sử, H. 1975 5. Hoài Thanh - Thi nhân Việt Nam 1932-1941 bản của nhà xuất bản Văn học, H. 1989 6. Nguyễn Văn Trung - Chủ đích Nam Phong, Sài Gòn, 1975 7. Phạm Thế Ngũ - Việt Nam văn học sử giản ước tân biên t.III, Sài Gòn, 1965 8. Thiếu Sơn - Phê bình và cảo luận, Hà Nội, 1933 9. Tsubôi - Nước Ðại Nam đối diện Pháp và Trung Hoa, TP. Hồ Chí Minh, 1990
* Bài đã in trên
tạp chí Nghiên cứu văn học Hà Nội, số ra tháng 7-2005 , dưới nhan đề "Vai
trò của trí thức trong quá trình tiếp nhận văn hoá phương Tây ở VN đầu thế kỷ
XX"
Nguồn: Blog Vương
Trí Nhàn
|
Home »
GIAO THOA VĂN HÓA
» PHẠM QUỲNH VÀ QUÁ TRÌNH TIẾP NHẬN VĂN HÓA PHƯƠNG TÂY Ở VIỆT NAM