Bồ-tát người Bắc-Ấn-độ, vốn tên Maudgalyâyana, hoặc Moggalâna. Người Trung-quốc đã phiên ra chữ Hán mà ta đọc là Mục-kiện-liên hoặc gọi tắt là Mục-liên. Mục-liên là một trong mười vị đệ-tử cao nhất của đức Phật. Là con nhà phú-hữu, trái ý với cha mẹ, Ngài đi tu đạo Bà-la-môn, thành bực thầy có tới năm mươi đệ-tử, và nổi tiếng giỏi các phép thần-thông. Nhưng chưa toại ý với đạo-lí mình đã học, Ngài kết bạn với một đồng-chí xá-lị-phất (cariputra ) đến kinh-đô Vương-xá-thành ( Radjagriha ) của nước mình Ma-kiệt-đề (Magadha ) để học-hỏi sáu thầy Bà-la-môn nổi tiếng. Nhưng cũng không toại nguyện. Trong sáu thầy ấy, có San-xà-da ( Sajaya ) mách cho biết rằng thái-tử Thích-ca-mâu-ni (çakyamouni) đã tu đắc-đạo và sắp tới Vương-xá-thành thuyết-pháp. Hai người bèn đợi. Lại có bạn của Xá-lị-phất là Át-bệ ( Açvajit ) đem đạo-lí của đức Phật kể lại cho nghe, hai người xin qui-y và theo đức Phật, rồi nên hai vị đệ-tử rất cao trong Phật-giáo. Đức Phật đã rất chú-trọng đến hai người, khẳng-định rằng cả hai sẽ thành Phật, và coi Mục-liên là đệ-tử thần-thông bậc đầu. Phật-tử đời sau chú-ý nhất vào truyền-thuyết chuyện bà mẹ Mục-liên, tên là Thanh-đề, bị đày vào ngục A-tì vì bà có ác-tâm. Mục-liên thương mẹ, bèn xin Phật giúp đi cứu. Phật bảo nhân ngày rằm tháng bảy là ngày chư-tăng "ra hạ" mà làm lễ trai-đàn xin chư-tăng cầu xá tội cho mẹ. Phật lại cho một cái gậy bít thiếc có phép mở cửa khi gậy gõ vào, và Phật trỏ cho Mục-liên biết mẹ bị giam ở ngục nào? Nhờ vậy, Mục-liên tìm được nơi mẹ bị đày; rồi nhờ ngục-tốt gọi mẹ ra nhận mặt. Thanh-đề nói không có con nào tên Mục-liên. Mục-liên phải giải-thích rằng đó là hiệu sau khi tu chứng-quả. Mẹ mừng và ra ngục với con. Mục-liên mời mẹ ăn chuối. Bà bóc vỏ, vứt xuống đất, những tù-nhân khác muốn lượm ăn. Bà bèn lấy chân dày cho nát. Con biết mẹ còn nghiệp-chướng; lòng buồn, nhưng cũng làm phép dâng mẹ bát cơm trắng. Mẹ mừng, và ăn cơm; nhưng khi cơm sắp vào miệng thì lại hoá ra than. Phật cũng không độ được kẻ ác-tâm; Thanh-đề lại phải luân-hồi làm kiếp chó để tự-tu thêm. Nhờ con tu-hành, chư-tăng giúp cứu, ba năm sau, bà mới trở lại kiếp người. Văn-kiện sau đây kể lại chuyện nầy bằng quốc-âm, thể lục-bát dễ hiểu, dễ nhớ để giáo-hoá phật-tử nước ta. Giá-trị bản văn không hơn những chuyện cổ-tích bằng văn lục-bát đời Lê còn lại ngày nay. Chữ vần nhiều nơi chọn vụng. Quí là về phương-diện cổ-ngữ Việt. Trong chính-văn ngắn-ngủi , chỉ có 162 vế ( 1134 từ) mà văn-bản còn giữ được khá nhiều từ cổ (tôi viết tắt bằng ám-hiệu "t.c." trong vòng đơn), hoặc nghĩa cổ, hoặc âm cổ bằng cách đổi âm trắc ra âm bằng (tôi viết tắt bằng ám-hiệu "b.â." trong vòng đơn). Một tính-cách khác của Phật-giáo đời Lê cũng thấy trong văn nầy: ấy là "Tam giáo tĩnh hành": những quan-niệm Lão và Khổng được ghép vào trong chuyện Phật-giáo. Ví như nói đến lễ Trung-nguyên, tức rằm tháng bảy, nói đến chữ Nhân trong cách xử-thế, lại không quên ơn Vua và chúc nước vững-bền. Tuy văn-bản nôm không mang thời-điểm khắc, nhưng chữ nôm cổ, từ-ngữ cổ vẫn còn. Vả lại tôi được thấy bản in nầy đóng cùng với một sách khác có tựa khắc năm 1731 (Vĩnh-thọ tam niên), một loại sách có chữ nôm mà tự-dạng còn mới hơn, dùng bởi các thiền-sư Tam-giáo để làm những lễ trai-đàn (tên sách làCung-văn dịch đình bài-biện các đàn). Tôi nghĩ rằng văn-bản nầy đáng được coi là khắc tự đời Lê, trước 1731. Chữ khắc khá chính-xác, tuy rằng cũng có chữ không thành hình hoặc lầm ra chữ khác. Có chữ mà tôi chữa vì chắc sai hoặc nghi sai, thì tôi sẽ dùng ám-hiệu "ng." trong vòng đơn, nghĩa là: nguyên là. Trong bản phiên-âm, tôi cũng chú-giải những từ tối nghĩa, viết bằng chữ xiên trong vòng đơn liền sau những chữ ấy. Tôi cũng sẽ xếp các từ được chú-giải ấy vào một phần tự-vựng đặt cuối sách. Sau các từ, sẽ có những số mã trỏ vế mang từ ấy và có chữ mang cả chú-thích nữa. sau nầy, nếu có nhịp, tôi sẽ phiên âm bài tựa sách Cung văn dịch đình bài biện các đàn và cho phụ vào đây. Ngày 4 tháng 9 năm 1994 , PL 2538 Hoàng Xuân-Hãn |
Thương mẹ tìm đến Tây-thiên tu-hành Ba năm chứng-quả viên-thành Một bát một mình nhẫn-nhục từ-bi 5 Thanh đề (tên mẹ) từ thủa sinh-li (sinh ra) Tội nặng, sa ngục A-tì khốn thay ! Diêm-vương đôi-hỏi (vặn tra) đòi ngày (nhiều ngày) Dương-gian thiện ác, biết hay ca (t.c. : tại) lòng Khán-quan kiểm-bộ tiên-đồng ( kẻ coi sổ giữ ngục) 10 Mở sổ ròng-ròng biết sự ngay gian Thanh-đề nết ở đá-đoan (t.c. đa-doan) Thấy người đói khát cơ-hàn chẳng thương Sát-hại lục-súc ngưu dương (trâu deâ) Tổn tha vật-mệnh (sinh-mệnh chúng), phỉ (nhạo) thường báng tăng 15 Cho nên quả-báo chẳng hằng (quái gơû) "Nhị tác nhị thụ" (mầy làm mầy chịu), đọa chưng (rơi vào) U-đồ (đường tối:Âm-phuû) Con tìm mười cửa Phong-đô Chẳng thấy từ-mẫu, biết hồ (biết là) làm sao Trở về bạch Bụt thấp cao : 20 ((Còn có ngục nào, vâng phép lại đi )) Bước qua khỏi dặm Bách-kì Coi thấy cửa ngục thành-trì ghê thay ! Tích-trượng (gậy bít thiếc) cầm ở ca (t.c: 8) tay Gõ vào cửa ngục, mở bày song-song 25 Ngưu-đầu ngục-tốt (kẻ giữ ngục có đầu trâu) tây đông Vâng phép đều cùng phóng xá tội-nhân Thấy mẹ khổ-hải (bể khoå) trầm-luân Bằng dao cắt ruột mười phần quặn đau Thanh-Đề mới bảo trước sau: 30 (( Mẹ phải cơ-cầu (đói khổ), nhiều nỗi gian-nguy (( Từ ngày thác xuống Âm-ti (( Mẹ phải cầm ngục A-tì khốn nay (( Ơn con báo-bổ làm chay (( Phá được ngục nầy, mẹ mới thoát thân 35 (( Chẳng còn bén chút phàm-trần (( Tổ-tiên nội ngoại, song-thân hoà đồ (tất cả) (( Được ngồi cửu-phẩm (cao chín bậc) Tiên-đô (( Tống-thực Thiên-trù (bếp Trời cho ăn), hỉ-xả từ-bi )) Mục-Liên thủa ấy mới ( ra? ng. laø) đi 40 Tìm chẳng thấy mẹ, ngồi thì hoà (cả) lo Mười tám cửa ngục rạc (t.c. giam) tù Thương mẹ thay là! Tìm chẳng thấy đâu Dòng-dòng nước mắt thấm bâu (t.c.tay áo; ng: dâu) (( Mẹ ơi mẹ hởi ! ở đâu ? Thương nầy ! )) 45 Bụt bảo Mục-Liên rằng bay (t.c. như vầy) : (( Mẹ Ngươi bấy-chầy (bấy lâu) cầm ở Phong-đô (( Mười tám cửa ngục rạc tù (( Non cao cồn-cộn, Phong-đô rái dàng (đáng sơï) ! )) Mục-Liên coi thấy chẳng đang 50 Tay cầm tích-trượng gõ ngang cửa tù Thanh-Đề ra hỏi sự-do: (( Người nào hay đến Phong-đô chốn nầy ? )) Mục-Liên thưa lời rằng bay (45) (( Tớ đi tìm mẹ chốn nầy, là Nuôi (t.c. thưa Ông) 55 (( Bụt đã bảo tớ mọi lời (( Ơn Nuôi (t.c. Ông, Bà) đòi bảo mẹ nầy ra đây )) Quỉ-sứ (ng: Ơn sưù) vào bảo một giây (chóng) : (( Có Mục-Liên Thầy tìm mẹ phu-nhân )) Thanh-Đề mãng (t.c. nghe) tiếng, than thân : 60 (( Mục-Liẽn tên ấy, phu-nhân khôn (khó) nhìn (( Dương-gian, là vóc (thân) con min (t.c. ta) (( Tên thì (ng: ngày) chẳng phải Mục-Liên đâu là )) Quỉ-sứ khi ấy lại ra: (( Mục-Liên chẳng phải con bà thân-sinh )) 65 Mục-Liên lại bảo phân-minh Dẫn-dụ sau trước chân-tình cho hay: (( Mẹ sinh ra vóc (61)thật rày (( Xuất-gia làm Thầy, cải hiệu Mục-Liên (( Đêm ngày thương mẹ đi tìm 70 (( Bụt cho một trượng tích-kim (thiếc) con gầy (gậy b.aâ.) (( Thấy vậy tìm đến chốn nầy (( Ơn Nuôi (56) ngày rày bảo Mẹ ra đây )) Quỉ-sứ vào bảo một giây (57) Thanh-Đề mừng giã các rày tù-nhân : 75 (( Con tôi có nghĩa thập-phân (hoàn-toàn) (( Xin ra cho biết, kẻo phần đợi trông )) Thanh-Đề ra cửa Đông-phong Mục-Liên coi thấy cúc-cung (cúi mình) tạ-từ Đôi hàng nước mắt bằng mưa 80 Ôm mẹ hoà (t.c.maø) khóc qua ư (t.c.quá chừng) thương nầy: (( Thì-vần (vận b.â.) quả-báo chẳng tây (t.c.tư, riêng) (( Nhị tác nhị thụ" (16), ai rày chịu cho (( Bấy-chầy (46) Mẹ thác Phù-Đồ (Âm-phuû) (( Mẹ ôi! Quả-báo Phong-Đô nhật-dà (dạ b.â.: đêm ngày) 85 (( Áo-ăn (ăn-mặc) làm thấy xấu-xa (( Ba năm tù-rạc thật là gian-nguy (( Bây-giờ chẳng có của chi (( Thì-trân quả-thực (trái ngon đúng mùa) Mẹ thì xá (t.c.hãy) ăn)) Mẹ còn tính ác Lòng (mẹ) còn toan ( nghĩ ) dữ làm ngần (t.c.quen) 90 Ăn chuối bỏ vỏ; tù-nhân ăn mày Chẳng cho, lấy chân đạp dày Mục-Liên coi thấy, thương thay cong (t.c.:trong) lòng : (( Thể-âu (t.c.hẵn là) quả-báo làm xong (t.c.thật thế) (( Ước làm sao khỏi thoát vòng u-minh )) 95 Mục-Liên niệm-cứu hương-kinh Hoá bát cơm trắng, hoá hình mẹ ăn Thanh-Đề chịu chẳng làm ngần (89) Và chưa đến miệng, cơm rày (liền ?) ra than Mục-Liên nước mắt hoà (t.c.cả) chan (đầy) 100 (( Mẹ ơi mẹ hởi! Bàn-hoàn (bâng-khuâng) thương thay! (( Thể-âu (93) quả-báo còn chầy (t.c.lâu) (( Mẹ con nhiều nỗi đắng cay trăm đường )) Thanh-Đề chịu những tư-lương (lí-luận) Đọa làm thân chó, chực trường (dài) ba năm 105 Dòng dòng nước mắt chiêu đăm (t.c.tả hữu) Chịu làm thân chó cổ câm (kim) khác loài No (t.c.đủ) ngày mới được làm người Vì chưng quả-báo chẳng sai đâu là Thụ tội khốn-khổ ai qua 11O Rày mới cốc (t.c.:biết) tính, sự nầy biết hay Nhớ ơn có Mục-Liên Thầy Minh tâm kiến tính (rõ tâm thấy tính) thuả nầy ai qua Dựng làm Thủy Lục trai-gia (lễ chay thủy bộ) Kim-ngân châu-báu phát ra làm ngần (89) 115 Trước là báo đức từ-thân Sau là Thất-tổ (bảy đời trên cha) trầm-luân hoá-hồn Cùng nhờ Đại-Pháp Không-môn Bao nhiêu hoành-mệnh (sinh mệnh) đẳng-hồn thoát ra Tụng kinh liên-tiếp nhật-dà (84) 120 Khai phương (mở lối), phá ngục khắp hoà (cả) làm nơi (các chỗ) Chuyển luân (quay bánh xe) Pháp, trống vang trời Thỉnh Thập-phương Phật hộ nơi chứng-đàn (đàn cầu xin) Thinh-văn (đệ-tử được nghe Phật) Bồ-tát hai bên Đồng trợ công-đức mạn-viền (viên b.â: đầy đủ) thuả nay 125 Tụng kinh Huyết-bồn (tên kinh gán cho Mục-liên) khi nay Trung-Nguyên (lễ rằm tháng bảy) xá tội thoát rày Phong-Đô Bao nhiêu địa-ngục lao-tù Cùng được thoát cả Tiên-đô thanh-nhàn Mục-Liên nhớ đức Từ-nhan 130 Mãn-viên (124)bát-độ (dựng đặt) trai-đàn tiến-tu Huyết-bồn (125) đẳng chúc Cửu-Ngu (chín đời si-mê ?) Nhiễu đàn tam táp (đi quanh đàn ba vòng) Phong-Đô rành-rành Bao nhiêu tù-ngục lạc-hình (trại giam) Bụt liền xá tội, siêu-sinh làm ngần (89) 135 Thanh-Đề từ ấy thoát thân Khỏi loài cầm thú cổ-câm (kim) từ rày Nhờ ơn có Mục-Liên Thầy Các các môn ngục đều rày hoá Tiên Ai ai hưởng lộc tự-nhiên 140 Thất- tổ Cửu-huyền (chín đời trước) đều được hoá sinh lễ trung-nguyên và dòng tam-giáo Cam-lồ (sương ngọt) nước rưới tĩnh-thanh (trong-trẻo) Làu-làu kim-tướng (mình Phật) toạ bình (màn che) liên-hoa Thiều (đàn), tiêu (sáo), nhạc vỗ, xướng ca Bảy hàng cây báu rà-rà nở đua 145 Trung-Nguyên (126) phóng-xá lao tù Mục-Liên tiếp-dẫn, Diêm-phù sạch không Từ rày đắc đạo thành công Muôn năm hưởng phúc, Quốc-trung khoẻ bền Viên-dung (thông suốt) báu-phiệt (bè từ-bi) vạn tuyền 150 Hữu tội, vô tội, thoát liền lâng-lâng Thủy thanh (nước trong) nguyệt hiện trừng-trừng (suốt suốt) Một cơn gió thổi quét chưng (t.c. ấy) bụi trần Ai ai đội đức Hoàng-ân (nhà Vua) Thập-bát địa-ngục làm ngần (89) hỉ-hoan 155 Ngưu-đầu, mã-diện thiên ban (nghìn thứ quỉ giữ ngục) Đều thì phóng-xá khải-hoàn (thắng về) Thiên-quân (đồn Trời) Khuyên người thiện-tín xa gần Xá (t.c.hãy) tu cho chín, chữ nhân chớ dời Độc dữ quả-báo vô-sai 160 Ai hoà (t.c.mà) giữ được, ấy mai được tuyền Hạnh nầy truyền để thiên niên (nghìn năm) 162 Mục-Liên thành Phật, thành Tiên chép làm ./. Nam Mô a-di-đà phật Thiên-Tử Vạn vạn niên chi thọ Paris ngày trước Trung-nguyên năm Giáp Tuất Phật-lịch 2538 (C.l. 1994) Hoàng Xuân-Hãn phiên-âm từ bản Nôm và chú-thích |
|
| | |
| | |
| | |
| | |
| | |
| | |
| | |
| | |
| | |
| | |
|
Áo ăn | 85 |
Bạch | 19 |
Bàn hoàn | 100 |
Báo bổ | 33 |
Bay (x Rằng) | 45;53 |
Bằng | 28;79 |
Bâu | 43 |
Ca | 8;23 |
Câm | 136 |
Cầm | 32;46 |
Cong | 92 |
Cốc | 110 |
Cồn-cộn | 48 |
Cơ-cầu | 30 |
Chan | 99 |
Chầy | 46;83;101 |
Chiêu đăm | 105 |
Chưng | 16;152 |
Chứng | 3;122 |
Dà | 84;119 |
Dàng | 48 |
Đá-đoan | 11 |
Đăm (x. Chiêu) | 105 |
Đoạ | 16;104 |
Đòi | 7 |
Đồ | 36 |
Đôi hỏi | 7 |
Gầy ( =gậy) | 70 |
Giây(x. Một) | 57;73 |
Hằng | 15 |
Hoà: cả | 36;40;99;120 |
Hòa : mà | 80 |
Hồ | 18 |
Khỏe bền | 148 |
Khôn | 60 |
Làm nơi | 120 |
Làm ngần | 89;97;114;134;154 |
Làm xong | 93 |
Lạc (x. Rạc) | 133 |
Mãng | 59 |
Min | 61 |
Một giây | 57;73 |
No | 107 |
Nuôi | 54;59;72 |
Phỉ | 14 |
Qua ư | 80 |
Rạc | 41;47;86 |
Rái | 48 |
Sinh li | 5 |
Tây (riêng) | 81 |
Tây đông | 25 |
Toan | 89 |
Tư-lương | 103 |
Thầy | 58;68;137 |
Thể-âu | 93;101 |
Viền ( =viên) | 124 |
Vóc | 61;67 |
Xá | 88;158 |