ĐỖ MINH HỢP (*)
Bài viết đề cập đến một vấn đề thời sự liên quan đến toàn cầu hóa, đối thoại, khoan dung và sự tồn tại, phát triển của nhân loại. Trên cơ sở làm rõ sự cần thiết của đối thoại trên tinh thần khoan dung – một chủ đề đang được thảo luận sôi nổi trên diễn đàn triết học thế giới, tác giả bài viết đã đi đến khẳng định: Đối thoại giữa các nền văn minh theo tinh thần khoan dung sẽ góp phần tạo ra một thế giới thống nhất trong đa dạng, một thế giới được cấu thành từ nhiều nền văn minh độc đáo đang tương tác với nhau, và đó sẽ là một thế giới hòa bình, hợp tác hữu nghị và thịnh vượng, trong đó đối thoại trên tinh thần khoan dung trở thành hình thức giao tiếp phổ biến, thành nhân tố đảm bảo sự sống còn và thịnh vượng cho mỗi con người và cho cả cộng đồng nhân loại.
Hiện nay, nhân loại đang phải đối mặt với vô số những vấn đề đe dọa đến bản thân sự tồn tại của mình với tư cách một loài sinh vật trên Trái đất. Tất cả mọi công dân toàn cầu có lương tâm đều lo lắng cho số phận tương lai của “Trái đất - Tổ quốc chung”. Nhiều giải pháp đã được các nhà tư tưởng lớn đưa ra, đặc biệt là các đại biểu của Câu lạc bộ Rome. Với tư cách cơ quan tư vấn về chiến lược phát triển, giáo dục và khoa học của UNESCO, trong suốt nửa thế kỷ qua, câu lạc bộ này đã không ngừng tìm tòi những giải pháp nhằm giải quyết những vấn đề toàn cầu. Song, gần đây, tư tưởng đối thoại giữa các nền văn minh ngày càng được khẳng định không những là con đường giải quyết hữu hiệu những vấn đề toàn cầu phức tạp mà còn là phương tiện duy trì và quyết định số phận tương lai của nhân loại. Không phải ngẫu nhiên mà Câu lạc bộ Rome do UNESCO tài trợ đang thực hiện báo cáo tiếp theo của mình chính về triết lý đối thoại. Theo đó, có thể nói, chúng ta đang sống trong thời đại đòi hỏi một sự đối thoại nghiêm túc, có trách nhiệm, cởi mở giữa các nền văn minh như một trong những điều kiện cần thiết để đảm bảo số phận tương lai của nhân loại.(*)
Trong bối cảnh “lịch sử không được đảm bảo” và “vở kịch lịch sử chưa rõ kết cục” được hình thành vào đầu thiên niên kỷ thứ ba, ngoài đối thoại, dường như nhân loại không còn cách nào khác để hóa giải tất cả mọi thách thức và nguy hiểm đang đổ ập lên đầu mình. Con đường duy nhất thích hợp ở đây là tổ chức thảo luận “cộng đồng chung” để phân tích bước ngoặt lịch sử đang diễn ra trong quan hệ giữa các nền văn minh và trong hệ thống thế giới. Điều quan trọng trên hết và trước hết là phải suy xét và thấu hiểu cái gì đã và đang diễn ra với nhân loại, để sau đó, đưa ra tư tưởng và chương trình hành động chung nhằm mở ra con đường dẫn tới một tương lai tốt đẹp.
Nhân loại đã từng phải đối mặt với vấn đề thay đổi chiều hướng phát triển văn minh của mình. Người ta đã và đang viết về toàn cầu hóa rất nhiều, thậm chí rất mâu thuẫn, song mọi người đều nhất trí rằng, nội dung tích cực và mang tính thống hợp của chủ nghĩa toàn cầu (globanism) biểu thị nhu cầu khách quan về việc cải tổ thế giới hiện tồn trong khuôn khổ tất cả các nền văn minh(1). Chính vì vậy mà tư tưởng “đối thoại giữa các nền văn minh” hiện nay đang được lĩnh hội ngày một sâu sắc hơn.
Song, cho dù có hấp dẫn tới đâu đi chăng nữa, tư tưởng về đối thoại vẫn không tránh được sự phản đối một cách nghiêm túc và rộng rãi. Không công khai tuyên bố thái độ ác cảm của mình đối với đối thoại, những người phản đối nó tin rằng, chỉ có thể bảo vệ giá trị và lợi ích của bản thân nhờ dựa vào sức mạnh (kinh tế, tài chính, quân sự). Đối thoại là có thể và chấp nhận được, nhưng thành công của nó được đảm bảo không phải bằng lương tri, tư tưởng sáng suốt và luận cứ xác đáng, mà bằng tương quan lực lượng và khả năng gây áp lực. Đương nhiên, không thể có đối thoại trong điều kiện đối đầu về quan điểm và lợi ích theo nguyên tắc “ai thắng ai”, thậm chí cả khi có cảm tưởng là nó dẫn tới sự hợp tác lành mạnh và xoa dịu được những mâu thuẫn. Vì “một sự nhịn, chín sự lành”, những thủ thuật như vậy nhằm làm rõ quan hệ và kết quả thường được coi là khả quan của chúng và được dư luận ở các quốc gia xung đột ủng hộ. Nhưng, kết quả giả tạo này, rốt cuộc, vẫn chỉ mang tính chất nhất thời và không vững chắc trong tương lai lâu dài.
Một trong những đặc điểm của sự giao tiếp giữa người với người và được coi như một điều kiện không thể thiếu đối với sự đối thoại giữa các nền văn minh - đó là khoan dung (tolerance). Với tư cách điều kiện khởi thủy, xuất phát từ bất kỳ sự đối thoại hữu hiệu nào, khoan dung luôn buộc người ta phải xem bản thân sự đối thoại này như một trong những biểu hiện của nó. Song, dẫu sao vẫn cần phải khu biệt giữa khoan dung và đối thoại: Đối thoại đòi hỏi phải có sự khoan dung, khoan dung có thể bộc lộ cả khi không có đối thoại và ở bên ngoài đối thoại. Làm sáng tỏ mục đích thực tiễn, thiết thực của mối liên hệ qua lại và sự phụ thuộc lẫn nhau ấy là quan trọng và cần thiết.
Nhưng, để làm được điều đó, cần phải khắc phục tính chất không rõ ràng trong quan niệm về vai trò của sự đối thoại giữa các nền văn minh trong thế giới hiện đại. Đã có người quan niệm rằng, chính sự đối thoại này là phương thức phổ biến để giải quyết những vấn đề phức tạp nảy sinh từ sự phát triển của xã hội hiện đại, cụ thể là từ quá trình toàn cầu hóa(2). Phải chăng, quan niệm như vậy là hoàn toàn xác đáng?
Thứ nhất, trong hoàn cảnh nhất định, toàn cầu hóa không cần đến đối thoại như vậy. Hình thức toàn cầu hóa hiện đang diễn ra trên thực tế hoàn toàn không đòi hỏi đối thoại giữa các nền văn minh. Bởi lẽ, hệ thống kinh tế thị trường, các công ty xuyên quốc gia, các công nghệ thông tin hiện đại và văn hóa đại chúng đi liền với chúng đang bành trướng ra tất cả các khu vực trên thế giới. Toàn cầu hóa đang thực sự loại bỏ những khác biệt giữa các nền văn minh, đang nhất thể hóa toàn bộ loài người. Hiện đại hóa một thời đã bị đồng nhất với phương Tây hóa. Một số người có thiên hướng gọi toàn cầu hóa hiện nay là “Mỹ hóa” thế giới. Nhưng, đối thoại giữa các nền văn minh là vô nghĩa trong trường hợp như vậy, vì vấn đề ở đây chính là tạo ra một nền văn minh nhất thể hóa, chứ không phải là các nền văn minh khác nhau, có thể (hay không thể) tham gia vào đối thoại với nhau. Tức là, khi chúng ta hàm ý nói tới không phải toàn cầu hóa đang thực sự diễn ra, mà nói tới toàn cầu hóa mà chúng ta mong muốn, toàn cầu hóa kiểu khác, không loại bỏ khác biệt giữa các nền văn minh, mà ngược lại, giữ lại và tăng cường chúng. Nói cách khác, bàn luận về tầm quan trọng và sự cần thiết của đối thoại giữa các nền văn minh cũng đòi hỏi khả năng cải biến định hướng và tính chất của toàn cầu hóa.
Thứ hai, không nên quan niệm rằng, nếu đem lại tính chất khác, nhân văn hơn cho toàn cầu hóa và áp dụng đối thoại giữa các nền văn minh khác nhau, thì chúng ta có thể giải quyết tất cả mọi vấn đề hiện đại nhờ đối thoại như vậy. Trên thực tế, nhiều vấn đề như vậy không có giải pháp có sẵn. Di sản của các nền văn minh đa dạng hiện tồn cũng không bao hàm giải pháp cho những vấn đề đó. Vả lại, nhân loại chưa từng vấp phải chúng bao giờ. Có căn cứ để cho rằng, nhân loại hiện đang phải đối mặt với một thách thức nghiêm trọng nào đó trước vấn đề về tương lai của con người, của xã hội và văn hóa.
Đây trước hết là những vấn đề nảy sinh từ giai đoạn phát triển hiện đại của khoa học và kỹ thuật, của các công nghệ thông tin mới. Vốn đặc trưng cho xã hội thông tin, tốc độ cách tân cao tri thức làm thay đổi nhanh chóng các cơ cấu xã hội biểu thị tri thức ấy, các hình thức và phương thức giao tiếp. Nhiều quá trình xã hội trở nên mang tính phù du. Quá trình thống hợp quá khứ với tương lai thành một chuỗi sự kiện thống nhất, cấu thành “tiểu sử” cá biệt và đóng vai trò cơ sở của nhân cách, của “cái Ngã” hóa ra lại là một công việc phức tạp trong một số trường hợp. Chuỗi những khâu trung gian hóa về mặt công nghệ và xã hội giữa hành động và kết quả của nó luôn cản trở việc lập kế hoạch hành động một cách hợp lý cả ở cấp độ tập thể lẫn ở cấp độ cá thể. Song, vấn đề không chỉ dừng lại ở đó. Bất kỳ hành động hợp lý nào cũng đòi hỏi phải tính đến những hậu quả có thể có của nó, phải đối chiếu những phương tiện lựa chọn với các chuẩn mực ứng xử đang tồn tại trong xã hội, với quan niệm chung về cái được phép và cái không được phép, với quan niệm của chủ thể hành động về bản thân mình, về tiểu sử của mình, về những nghĩa vụ mà nó đã tự gánh vác và về tư cách thành viên của một cộng đồng nào đó. Tức là với tất cả những gì cấu thành nhân cách độc đáo của con người. Trong khi đó, như N.Motroshilova đã nhận xét một cách xác đáng rằng, “bước vào xã hội thông tin và lôi kéo phần thế giới còn lại vào xã hội này thông qua quá trình toàn cầu hóa, thế giới phương Tây hiện đại đang phải trải qua khủng hoảng chính về tính nhất thể cá nhân. Hàng loạt tính nhất thể tập thể cũng bắt đầu khủng hoảng”(3).
Còn có một thách thức hiện đại nữa đối với quan niệm của chúng ta về con người. Đó là ý định tác động đến hệ thống gen để cải biến bản thân thể chất con người, tạo ra con người “hoàn hảo” hơn, thích nghi tốt hơn với việc hoàn thành những chức năng cụ thể nào đó. Có cảm tưởng là khoa học hiện đại đang tạo ra được khả năng này. Đã có những người nhiệt tình truyền bá các phương thức thí nghiệm mới đối với thể chất con người, gắn liền việc thực hiện những hoài bão táo bạo nhất với việc cải biến thể chất con người. Vấn đề nảy sinh ở đây không hẳn gắn liền với khả năng hay không có khả năng của thí nghiệm này (đặc thù của thuyết không tưởng không phải là ở chỗ nó không tồn tại, mà ở chỗ nó có thể được thực hiện), mà chủ yếu gắn liền với sự can thiệp như vậy có thể dẫn tới những hệ quả không thể đảo ngược được (giống như sự tác động của con người đến giới tự nhiên đã làm nảy sinh khủng hoảng sinh thái): Con người có thể không còn là người nữa. F.Fukuyama đã nói đến “tương lai hậu loài người” của chúng ta(4). Nhưng, tất cả các nền văn minh hiện tồn trên Trái đất cùng với quan niệm của chúng về đạo đức đều đòi hỏi thể chất con người không tách rời khỏi bản thân quan niệm về con người (cùng với các khả năng, hạn chế và sự phân chia những năng lực giữa các cá nhân).
Những vấn đề lý luận và thực tiễn gay gắt này, đương nhiên, không thể được giải quyết chỉ nhờ đối thoại giữa các nền văn minh. Đối thoại giữa các nền văn minh có thể đóng một vai trò nhất định trong trường hợp này, nhưng vai trò đó là có hạn. Vậy, đối thoại giữa các nền văn minh có thể hữu ích như thế nào trong việc giải quyết những vấn đề mà nhân loại đang vấp phải? Để trả lời cho câu hỏi này, cần lưu ý tới hai điểm sau đây.
Thứ nhất, các nền văn minh tự thân chúng không thể tiến hành một đối thoại nào. “Đối thoại giữa các nền văn minh” thực ra chỉ là một ẩn dụ. Chỉ có đại diện cụ thể của các nền văn minh khác nhau có thể tiến hành đối thoại. Đó có thể là những cá nhân, các nhóm xã hội, các cộng đồng, các cơ quan chính phủ đại diện cho “ý kiến chung”.(3)
Thứ hai, đối thoại diễn ra không phải về bản thân các nền văn minh: hệ thống giá trị, quan điểm về thế giới, niềm tin tôn giáo của chúng. Vấn đề là ở chỗ, chính những định hướng giá trị này kiến tạo nên tính nhất thể của các nền văn minh và đóng vai trò cơ sở cho tính nhất thể xã hội của mỗi cá nhân tham gia vào nền văn minh ấy. Do vậy, nếu nền văn minh không bị tan rã, không trải qua khủng hoảng về tính nhất thể của mình, thì hạt nhân của nền văn minh sẽ không bị đem ra bàn luận. Đối thoại về hạt nhân này đơn giản là không thể. Điều này thể hiện rất rõ qua khả năng đối thoại giữa các tôn giáo khác nhau mà, xét về mặt lịch sử, bao giờ cũng tham gia vào hạt nhân của các nền văn minh, ít nhất là từ thời điểm các tôn giáo ấy xuất hiện. Đại diện của các tôn giáo khác nhau có thể tiến hành tối thoại về những vấn đề xã hội cụ thể, nhưng chúng không thể đối thoại về hệ giáo lý.
Đối thoại giữa các nền văn minh là có thể và hữu ích trong việc giải quyết những vấn đề thực tiễn cụ thể và gắn liền với nhận thức về những vấn đề ấy từ lập trường của mỗi nền văn minh và với các phương thức giải quyết được đề xuất. Mỗi nền văn minh đều đưa ra cách tiếp cận riêng của mình với những vấn đề hiện đại. Việc so sánh các cách ấy từ góc độ hữu ích của chúng là có thể và thực sự cần thiết. Nhưng, các bên tham gia đối thoại lại thường không đề cập tới và cũng không thảo luận về những nguyên tắc cơ bản của các nền văn minh của mình. Nói cách khác, đối thoại như vậy đã giả định trước sự khoan dung giữa các nền văn minh, tức là không can thiệp vào nền tảng giá trị sâu xa của nền văn minh khác và tỏ thái độ thận trọng đối với những gì không quen thuộc đối với bản thân mình.
Vậy, khoan dung là gì? Chúng ta có thể trình bày khái quát một số quan niệm cơ bản sau đây.
Quan niệm thứ nhất về khoan dung cũng là quan niệm thứ nhất cả về mặt lịch sử. Xét về một số phương diện, nó được coi là quan niệm cổ điển và được giữ lại cho tới ngày nay. Đó là quan niệm gắn liền với tên tuổi của P.Bayle và J.Locke(5), với chủ nghĩa tự do cổ điển. Điều quan trọng ở đây và cho phép làm sáng tỏ vấn đề trên nhiều phương diện là sự thật lịch sử sau: “Với tư cách vấn đề triết học, khoan dung đã hình thành nhân có vấn đề khoan dung tôn giáo và lúc đầu được hiểu là sự suy xét về kết quả của cuộc chiến tranh ba mươi năm, trong đó đại diện của các tôn giáo thù địch với nhau đã sát hại lẫn nhau dường như không loại trừ một ai”(6).
Theo quan niệm này, chân lý, các chuẩn tắc đạo đức cơ bản và các quy tắc sinh hoạt chính trị được xác lập và luận chứng một cách xác đáng và đáng tin cậy đối với tất cả mọi người. Nói về khoan dung trong những vấn đề này là vô nghĩa, vì chứng minh, luận chứng duy lý là xác đáng đối với mọi người. Song, người ta không những tán thành những luận điểm chân thực, mà còn bảo vệ những ý kiến khác nhau. Tính chân thực của một số ý kiến sau đó có thể được xác định. Tuy nhiên, có những ý kiến mà tính chân thực không bao giờ được xác định một cách dứt khoát. Đó trước hết là những quan điểm tôn giáo, là những luận điểm siêu hình học, những giá trị đặc thù của các nền văn hóa khác nhau, các tín ngưỡng và tín niệm đặc thù của các tộc người. Những ý kiến ấy được người ta thừa nhận trên các cơ sở nằm ngoài lý tính và trước hết, gắn liền với quá trình tự nhất thể hóa (văn hóa, sắc tộc, cá nhân). Thiếu nhân cách toàn vẹn độc đáo của con người thì không có cá nhân theo đúng nghĩa của từ này, tức là không có con người cùng với những quyết định độc lập của mình, với trách nhiệm về hành vi của mình. Song, các phương thức tự nhất thể hóa trong nhiều trường hợp lại nằm ngoài lý tính và gắn liền với truyền thống quen thuộc của con người, với nơi họ sinh ra và lớn lên, với văn hóa của họ, với lịch sử đất nước họ, với tiểu sử của bản thân họ, v.v..
Đối với các chân lý nhận thức (đặc biệt là các chân lý của khoa học) và các chuẩn mực pháp lý, đạo đức được luận chứng một cách duy lý thì đương nhiên, không nên có thái độ khoan dung đối với những gì mâu thuẫn với chúng, đối với những hành động vi phạm chúng. Những người vi phạm các chuẩn tắc pháp lý và đạo đức hiển nhiên cần phải bị trừng phạt. Song, trong trường hợp này, cần phải ý thức rõ rằng, chân lý không thể gán ghép bằng vũ lực: cưỡng chế thể xác hay tuyên truyền. Con người chỉ có thể thừa nhận luận điểm chân thực một cách độc lập. Do vậy, cần phải đấu tranh chống lại những hành động vi phạm các quy tắc chung sống đã được xác lập một cách duy lý và bộc lộ thái độ khoan dung ở một chừng mực nhất định đối với những quan niệm phi duy lý, tạo ra cho những người ủng hộ chúng các điều kiện cho phép họ tự mình thừa nhận tính chân thực của những gì có thể được xác định một cách hiển nhiên và phổ biến.
Còn đối với những ý kiến mà tính chân thực của chúng không thể chứng minh được nhưng lại được thừa nhận dựa trên các cơ sở phi duy lý (niềm tin tôn giáo, các luận điểm siêu hình học, những giá trị đặc thù của các nền văn hóa khác nhau, các tín ngưỡng sắc tộc, v.v.), thì hoàn toàn có thể cho phép chúng tồn tại trong trường hợp chúng không mẫu thuẫn với các cơ sở sinh hoạt văn minh chung. Trong trường hợp này, những ý kiến như vậy và thực tiễn phù hợp với chúng thể hiện là “công việc đặc biệt” của các nhóm văn hóa, sắc tộc, xã hội nào đó. Khoan dung trong trường hợp này có căn cứ của mình, vì những khác biệt về quan điểm không có quan hệ với vấn đề về chân lý và những chuẩn tắc chính trị, pháp lý và đạo đức cơ bản, mang tính trung lập đối với những giá trị cơ bản của nền văn minh và không cản trở sinh hoạt chung đã được coi là lành mạnh. Các nhóm xã hội, văn hóa và sắc tộc khác nhau có thể có nhà thờ, trường học riêng của mình, phát triển ngôn ngữ và tập quán của mình. Can thiệp vào công việc của họ là không nên. Điều quan trọng đối với sinh hoạt lành mạnh trong xã hội và đối với quan hệ hòa bình giữa các cộng đồng và các nền văn hóa khác nhau là sự đồng thuận trong nhận thức về các chuẩn mực đạo đức cơ bản và các chân lý khoa học. Rất cần phải lưu ý rằng, xét theo quan niệm này về khoan dung, những khác biệt về các giá trị văn minh đặc thù sẽ giảm dần cùng với sự phát triển của loài người, vì tương tác ngày một gia tăng giữa các nền văn minh và các tộc người, sự cần thiết phải cùng nhau giải quyết những vấn đề thực tiễn sẽ dẫn tới kết cục như vậy.
Với quan niệm này, khoan dung thực chất là thái độ thờ ơ đối với sự tồn tại của các quan điểm và thực tiễn khác nhau, vì chúng được xem là cái ít quan trọng hơn so với những vấn đề cơ bản mà xã hội loài người đang vấp phải.
Quan niệm thứ hai về khoan dung xuất phát từ việc “không thừa nhận tiền đề của quan niệm thứ nhất, mà chính là: có các chân lý nhận thức và các chuẩn tắc sinh hoạt xã hội có thể được xác lập một cách hiển nhiên và xác đáng đối với mọi người”(7). Quan niệm thứ hai dựa vào các kết quả nghiên cứu nhân học văn hóa hiện đại, vào một số kết quả phân tích lịch sử khoa học, nghiên cứu nhận thức khoa học về mặt xã hội và vào một số quan điểm hiện đại trong triết học của khoa học. Theo quan niệm này, các quan điểm tôn giáo, siêu hình học và các giá trị đặc thù của một nền văn minh nào đó không mang tính thứ yếu đối với hoạt động của con người và sự phát triển của xã hội, mà quyết định bản thân tính chất của hoạt động ấy và phương thức phát triển của nền văn minh. Tính đa dạng của những quan điểm, những giá trị và những lối ứng xử là không thể loại bỏ được, vì nó gắn liền với bản tính người và quan hệ của con người với thế giới thực tại. Tất cả mọi nền văn minh đều bình quyền, nhưng lại không thể so sánh được với nhau. Không có một hệ thống quan điểm và giá trị có đặc quyền. Chỉ có một ngoại lệ đối với tư tưởng cho rằng, không phụ thuộc vào chủng tộc, giới tính và sắc tộc, tất cả mọi người đều có quyền bình đẳng về tồn tại thể chất và phát triển văn hóa (hoàn toàn không thể khoan dung đối với việc xâm phạm các quyền này).
Nhưng, vốn bình quyền và xứng đáng được tôn trọng, các hệ thống quan điểm khác nhau (kể cả các nền văn minh khác nhau), trên thực tế, lại không thể tương tác với nhau, vì chúng tự khép kín và không thể so sánh với nhau. Tính tự nhất thể của các nền văn minh, của các cộng đồng văn hóa và xã hội khác nhau có cơ sở của mình là chúng dường như không giao tiếp với nhau và tồn tại trong các thế giới khác nhau. Có thể dịch chuyển từ một thế giới văn minh này sang một thế giới văn minh khác, nhưng lại không thể đồng thời sống trong hai thế giới khác nhau. Khoan dung trong trường hợp này thể hiện ra là thái độ tôn trọng cái khác: người hay nền văn minh mà ta không thể hiểu và không thể tương tác.
Chúng ta có thể phản bác quan niệm như vậy về khoan dung. Sự phản bác này được thể hiện trong quan niệm thứ ba.(7)
Quan niệm thứ ba về khoan dung là như sau. Chúng ta có thể chứng minh rằng, các hệ thống giá trị và các quan điểm thực sự có sự tương tác với nhau, và đó đơn giản là sự kiện của lịch sử văn hóa. Khi đó, do bị phê phán, một số giá trị và quan điểm sẽ biến mất để nhường chỗ cho một số giá trị và quan điểm khác vì không có khác biệt tuyệt đối giữa chúng. “Cạnh tranh thường xuyên diễn ra giữa các hệ thống giá trị khác nhau, giữa các truyền thống khác nhau trong việc chứng minh cho tính xác đáng của mình, cho khả năng giải quyết những vấn đề khác nhau của nhân loại hiện thời. Vả lại, với toàn bộ những khác biệt giữa các truyền thống và các nền văn minh, chúng vẫn cần phải giải quyết nhiều vấn đề chung. Cạnh tranh đưa tới việc lựa chọn những chuẩn mực, hệ thống giá trị và truyền thống phù hợp với các yêu cầu của bối cảnh sinh tồn thường biến của loài người”(8).
Song không nên dùng vũ lực để gán ghép ý kiến của mình cho người khác hay những giá trị của một nền văn minh này cho các nền văn minh khác. Trong trường hợp này, khoan dung thể hiện chỉ là thái độ tôn trọng đối với nền văn minh khác. Khoan dung là tuyệt đối cần thiết để né tránh “xung đột giữa các nền văn minh”. Đồng thời, có thể hiểu và sử dụng khoan dung, khi nó được quy thành sự không can thiệp vào công việc của nền văn minh khác và tương tác bình quyền với nền văn minh này. Sự tương tác giữa các nền văn minh hiện nay là rất cần thiết, song chưa đủ để giải quyết tất cả mọi vấn đề đang nảy sinh trước nhân loại. Như vậy, tính tất yếu của sự tương tác giữa các nền văn minh đòi hỏi phải có sự đối thoại giữa chúng.
Đối thoại giữa các nền văn minh có nội dung phong phú hơn khoan dung, vì nó đòi hỏi không những phải chấp nhận lập trường, hệ thống giá trị và định hướng của người khác, mà còn cả mong muốn học một điều gì đó ở người khác. Trong lịch sử hiện thực, các nền văn minh đã học hỏi lẫn nhau khi tính đến kinh nghiệm của người khác và qua đó mở rộng kinh nghiệm của mình. Đây là sự kiện không thể bác bỏ được của lịch sử văn hóa. Những tư tưởng quan trọng nhất trong lịch sử triết học và khoa học đã xuất hiện khi có sự giao tiếp và phê phán lẫn nhau giữa các hệ thống quan điểm, các hệ chuẩn khoa học khác nhau. Nền văn minh phương Tây đã xuất hiện từ sự tích hợp giữa hai nền văn minh rất khác nhau và thậm chí có cảm tưởng hoàn toàn vô ước: nền văn minh Do Thái – Kitô giáo và nền văn minh Cổ đại. Xây dựng hệ giáo lý của mình, các giáo phụ Kitô giáo đã tiến hành đối thoại hữu hiệu với triết học Cổ đại.(8)
Bản thân ý thức có bản chất đối thoại. “Cái Ngã” không giống với đơn tử của Leibniz, vì nó không tự khép kín ở bản thân mình, mà cởi mở với “cái Ngã khác”. Bản thân quan hệ với bản thân như “cái Ngã”, tức là hành vi tự phản tư đơn giản, là có thể vì tôi có quan hệ với tha nhân và có thể quan hệ với bản thân mình như với người khác, tức là đứng trên lập trường của người khác. Mỗi người đều không những có nhân cách độc đáo riêng của mình, mà còn có thể phát triển nó nhờ tự thay đổi những nét cơ bản của nhân cách ấy. Vấn đề này hiện đang trở nên đặc biệt cấp bách, bởi người ta chỉ có thể phát triển nhân cách riêng của mình trên cơ sở thường xuyên giao tiếp với người khác, với các quan điểm, lập trường của người khác và với khả năng thấu hiểu lập trường ấy.
Hiện nay, nhân loại đã ý thức được một cách sâu sắc bài học kinh nghiệm về mối quan hệ không tốt và phiến diện của mình với tự nhiên, với nhau và sự cần thiết phải mở rộng bài học kinh nghiệm ấy. Yếu tố tương ái trong nắm bắt kinh nghiệm của nhau hoàn toàn không có nghĩa là kinh nghiệm của người khác được nắm bắt một cách không có phê phán. Vấn đề là ở chỗ khác: Cần nhận thấy lập trường khác, hệ thống giá trị khác, nền văn minh khác không phải là những cái thù địch với mình, mà là những cái có thể góp phần giải quyết những vấn đề không những của mình, mà cả của những người khác và những nền văn minh khác, của những hệ thống giá trị khác. Không chỉ những người riêng biệt, mà cả các nền văn minh đều có thể và cần phải phát triển trong sự đối thoại này.
Chấp nhận các lập trường khác với lập trường của mình, so sánh luận chứng của mình với luận chứng ủng hộ các lập trường khác là điều kiện cần thiết để phát triển quan điểm của mình. Điều này cũng có liên quan tới sự tương tác giữa các nền văn minh. Tính đa dạng trong trường hợp này thể hiện ra không phải là nhân tố cản trở sự tồn tại của nền văn minh, không chỉ là cái hoàn toàn xa lạ với nó, mà là điều kiện cần thiết để nó phát triển hữu hiệu và là cơ chế phát triển văn hóa nói chung. Đây chính là một polyphonique (phức điệu), tức là sự đối thoại và tương tác sâu xa giữa các lập trường khác nhau.
Đối thoại nói chung là hình thức phát triển cao hơn cả của tính nhất thể cá nhân lẫn tính nhất thể văn minh. Nó có nội dung phong phú hơn khoan dung và là hình thức tôn trọng sâu sắc hơn đối với cái khác, chứ không phải đơn giản chỉ là thái độ quan tâm đến kinh nghiệm của người khác. Bởi lẽ, đối thoại không thể động chạm tới hạt nhân sâu xa của nền văn minh (cũng như hạt nhân sâu xa của tính nhất thể cá nhân), nên thái độ đối với hạt nhân ấy phải mang tính khoan dung. Hơn nữa, tương lai của con người, của loài người và của văn hóa nhân loại luôn gắn liền với sự đối thoại cũng động chạm tới hạt nhân của tính nhất thể. Thời gian đối thoại như vậy sẽ tới, còn hiện nay, tính năng động của mọi quá trình xã hội, kể cả của tính nhất thể, đang tăng lên một cách nhanh chóng.
Như vậy, đối thoại giữa các nền văn minh trong điều kiện hiện nay có thể coi là một hình thức giao tiếp đặc biệt, khi mà, thứ nhất, các bên đối thoại có các quan điểm khác nhau về cùng một vấn đề nào đó; thứ hai, mỗi bên đều thừa nhận giá trị của bàn luận duy lý về một vấn đề cụ thể. Kết cục của đối thoại là các bên tham gia đi đến một lập trường hay một giải pháp chung.
Hiện nay, đối tượng đối thoại giữa các nền văn minh có thể và cần phải là những vấn đề mà việc giải quyết chúng có thể chi phối tương lai trước mắt của nhân loại. Đó trước hết là việc tạo dựng một trật tự chính trị và pháp luật thế giới mới. Dư luận xã hội ghi nhận một lưỡng đề: Nền văn minh phương Tây có xu hướng lịch sử là dẫn tới dân chủ và những giá trị gắn liền với dân chủ - tự do cá nhân và các quyền cá nhân; trong khi các nền văn minh phương Đông lại đánh giá cao trách nhiệm và nghĩa vụ, có thiên hướng dẫn tới chế độ quyền uy chính trị. Nếu điều đó là như vậy, thì đối thoại giữa các nền văn minh về những vấn đề nêu trên là không thể, vì những giá trị ấy đóng vai trò là hạt nhân của các nền văn minh tương ứng, còn việc thảo luận những giá trị như vậy là không thể ở giai đoạn phát triển hiện nay của nhân loại. Tình hình vẫn cứ là như vậy cho tới thời gian gần đây, nhưng hiện tại đã khác. Vấn đề hiện nay là thiết lập kiểu quan hệ nào giữa các quốc gia đại diện cho các nền văn minh khác nhau để sao cho chúng có thể duy trì tính nhất thể của mình. Dân chủ là cái đem lại khả năng duy nhất để thiết lập kiểu quan hệ quốc tế như vậy. Do vậy, hiện nay, đại diện của các nền văn minh khác nhau không thể không thừa nhận những giá trị dân chủ, ít nhất là về phương diện này. Thực ra, chúng ta vẫn chưa hiểu đến tận gốc rễ những giá trị trong quan hệ dân chủ giữa các quốc gia và giữa các nền văn minh là gì, vì khái niệm “dân chủ” chủ yếu được áp dụng trong một quốc gia riêng biệt. Song, điều quan trọng là đã có đối tượng cho đối thoại và thảo luận, và có thể giả định quá trình thống hợp các nền văn minh sẽ diễn ra nhanh hơn. Điều này lại có nghĩa rằng, những vấn đề về khoan dung ngày càng quyết định tính chất đối thoại giữa các nền văn minh.
Đối tượng đối thoại giữa các nền văn minh hiện nay có thể và cần phải là những vấn đ&