Thuở nhỏ,
tôi thường được bà dẫn đi qua rạp hát bội An Cựu, sau chợ An Cựu (thuộc Phường
Phú-Nhuận, Thành-Phố Huế) để xem "hát bội".
Trình-diễn hầu như
thường-trực tại đây là Đoàn "Kim Sanh", một đoàn cải-lương "cải-lương", nghĩa là
"cải-lương Nam-Kỳ" nhưng theo lối Huế (đối-thoại cũng như hát theo các điệu
cải-lương Miền Nam mà dùng thổ-ngữ Huế và giọng Huế).
Sau này tôi có được xem một
số vở tuồng cải-lương hát theo giọng Bắc; nhờ được trình-diễn trong Nam cũng như
thực-hiện trên Đài truyền-thanh & truyền-hình phổ-biến toàn-quốc, nên
"cải-lương Bắc-Kỳ" được nhiều người biết đến; còn về "cải-lương Huế" thì hầu như
ít người nhớ đến. Tôi gọi nó là "cải-lương Huế" vì nó chỉ được trình-diễn bằng
giọng Huế và nhiều nhất ở Huế, chứ không phải khắp Miền Trung, nên không phải là
"cải-lương Trung-Kỳ".
Nói là "cải-lương Huế" nhưng thật ra thì không ai gọi nó là
"cải-lương Huế" cả. Người Huế gọi nó là "Kim Sanh", tên của đoàn hát. Vì những
lời nói cũng như lời hát đều rất là "tuồng", nghĩa là văn-hoa, du-dương, khác
với ngôn-ngữ thông-thường ngoài đời, cho nên khi nào nghe một người nào nói-năng
có vẻ bay-bướm mà người ta, hoặc thấy hay, hoặc không ưa, thì người ta kêu lên,
thí-dụ: "Thôi đừng kim-sanh nữa, mi!" Danh-từ Kim Sanh, tên của đoàn hát, đã
được dùng như tính-từ để chỉ tính-cách "văn-chương" trong các tiểu-thuyết
diễm-tình.
Tôi nhớ có tuồng diễn chuyện một anh con nhà phú-nông được đi
du-học bên Pháp, khi đã thành-tài trở về mang theo một cô vợ đầm. Cả nhà họp
mặt chờ đón, đến khi nàng dâu dân Pháp chìa tay bắt tay và định ôm hôn "ông gia"
thì mọi người đều thất-kinh; "bà gia" chỉ tay vào mặt con mình mà hát: " Mả cha
mày, đồ quân bất-hiếu!..."
Kim-Sanh tồn-tại vào khoảng
cuối thập-niên 1930 đến đầu thập-niên 1940, đã diễn nhiều vở giá-trị, với các
diễn-viên xuất-sắc, đắt khách đến nỗi đã có thêm một đoàn hát thứ hai, tên là
Kim-Thịnh. Nhưng Kim-Sanh thì nổi bật hơn...
*
Sau khi quân Pháp đổ bộ vào
Huế, từ đầu năm 1947, đồng-bào các giới, trong đó có một số văn-nghệ-sĩ,
lần-lượt hồi-cư, để tránh tai-hoạ chiến-tranh tiếp-diễn ở vùng núi và vùng quê.
Hội-Đồng Chấp-Chánh Lâm-Thời Trung-Phần ra đời, với các cơ-quan cấp Phần và cấp
Tỉnh. Nha Thông-Tin Trung-Phần đặt trụ-sở tại một toà lầu bề-thế trên đường
Trần Hưng Đạo, ngó thẳng ra cầu Trường-Tiền.
Tôi vào làm việc tại
cơ-quan Cảnh-Sát Quốc-Gia (khác với cơ-quan "Police Française"), và ở đây tôi
quen thân với ông Lê Văn Tấn, lớn hơn tôi chừng bảy-tám tuổi. Tấn cùng tôi và
một số bạn khác họp thành một đoàn kịch, do nghệ-sĩ Đặng Ngọc Lựu đạo-diễn,
trình-diễn kịch thơ và kịch văn tại Huế và các Tỉnh lân-cận. Tôi thấy Tấn
cặm-cụi sáng-tác, tuy không đem ra trình-bày nhưng vẫn tiếp-tục viết, sửa; tôi
xem thì thấy toàn là tuồng cải-lương; hỏi anh, anh đáp là đã gắn-bó với đoàn
Kim-Sanh, không thể nào quên. Hỏi thêm, Tấn cho biết là hiện nay Kim Sanh chỉ
còn một người thứ hai, nhưng ông ấy đã chuyển qua tân-nhạc, và hiện làm việc ở
Nha Thông-Tin. Đó là Châu Kỳ.
Theo lời yêu-cầu của tôi,
Tấn dẫn tôi đến làm quen với Châu Kỳ.
Nha Thông-Tin Trung-Phần có
dành riêng một số phòng trong trụ-sở Nha cho một số văn-nghệ-sĩ tạm-trú. Khi
Tấn dẫn tôi vào phòng Châu-Kỳ thì thấy Châu-Kỳ đang cắt móng chân cho một
thiếu-nữ đẹp. Họ giới-thiệu với tôi đó là nữ-ca-sĩ Mộc-Lan. Mộc-Lan là một
ca-sĩ nổi tiếng, và Châu Kỳ đang sống chung với Mộc-Lan.
*
Châu Kỳ trạc tuổi của Tấn. Vì cùng đam-mê và hoạt-động
văn-nghệ nên Châu-Kỳ và tôi trở nên bạn thân.
Thuở ấy chúng tôi không có
máy điện-thoại riêng, nên thường gặp nhau một cách bất-thường, chuyện-trò những
khi chỉ có một mình anh thôi. Thường thì tôi đến tìm anh nơi tổ uyên-ương của
anh ở Nha Thông-Tin, nơi tôi thường đến suốt cả thập-niên (Ngoài việc ghé thăm
Châu Kỳ, tôi còn vào thăm nghệ-sĩ Tô Kiều Ngân, nhà thơ Nguyễn Anh, nhà
nghiên-cứu Phan Khoang, kịch-sĩ Vũ Đức Duy, nhà văn Bửu Kế, nhà nghiên-cứu Bửu
Cầm, rồi sau này là cặp vợ+chồng nhà văn Hoàng Pha, v.v...; có lần tôi dùng xe
đạp chở nữ ca-sĩ Kim Tước từ Nha Thông-Tin qua cầu Trường Tiền đến Đài
Phát-Thanh Huế để tập dượt nhạc, vì xe Jeep bị hư, thời-gian tôi làm Trưởng Đài
"Tiếng Nói Quân-Đội tại Miền Trung").
*
Mối tình Châu-Kỳ - Mộc-Lan,
quả đẹp như thơ, nhưng không bền lâu.
Châu Kỳ rời Huế bao giờ tôi
không được biết, dù rất thân nhau. Phải chăng vì tình tan vỡ nên anh buồn tủi
lặng-lẽ ra đi?
Ngang đây tôi xin chép trích một đoạn có đề-cập đến Châu Kỳ,
trong cuốn hồi-ký "Về Vùng Chiến-Tuyến" của tôi (do nhà Văn Nghệ ở Nam Cali
xuất-bản vào năm 1996 – ISBN 1-886566-15-1 – trang 186):
[Một hôm, nhân vào Sài-Gòn
lập thủ-tục du-học Hoa-Kỳ, tôi gặp trung-sĩ Tôn Thất Óc giữa phố. Óc là
nhân-viên Đội Biệt-Động ở Huế; cùng đi với ảnh có vài ba người nữa, đang ngồi
trong một chiếc xe-hơi đậu bên lề đường. Ảnh dừng lại chào hỏi tôi. Khi ảnh
lên xe đi rồi, có mấy người mà tôi thấy quen mặt đang ngồi trong nhà hàng Thanh
Thế vẫy tôi vào. Họ là công-nhân, quân-nhân hoặc thường-dân gốc ở Huế, nay vào
tùng-sự, thụ-huấn hoặc sinh-sống trong này.
Nhạc-sĩ Châu Kỳ ghé tai tôi
nói nhỏ: "Đừng bắt mình, nghe, Thanh-Thanh!" Tôi tròn mắt hỏi lại: "Tôi làm gì
mà bắt ai?" Nhạc-sĩ Lê Trọng Nguyễn liền vỗ vai Kỳ: "Thanh-Thanh không dính vào
những việc đó đâu!"]
(Ghi chú: mật-vụ nhà Ngô, phe Ngô Đình Cẩn, thủ-tiêu các
nhân-vật "có máu mặt" ở Huế và vào hoạt-động tận trong Nam).
*
Nhà thơ Hồ Đình Phương, người tích-cực hoạt-động trong
Văn-Đoàn và Nhà Xuất-Bản "Xây-Dựng" của tôi, sau khi tốt-nghiệp thủ-khoa Khoá I
Cao-Học Quốc-Gia Hành-Chánh, làm Trưởng Ty Thuế-Vụ ở Tỉnh Long-An, đã dẫn tôi đi
thăm một xưởng dệt vải của Công-Ty Tơ Lụa Việt-Nam (?) và chỉ cho tôi thấy một
nữ viên-chức trẻ đẹp ở sở làm này, mà nói đó là bạn mới của Châu
Kỳ.
Tôi không tò-mò hỏi về đời tư của Châu Kỳ, nhưng về sau có nghe Hồ Đình Phương
nói là "bà" sau này thật dễ thương, rất chiều-chuộng Châu Kỳ, và Kỳ đã đạt được
hạnh-phúc gia-đình. Tôi mừng cho anh.
*
Sau quốc-biến Tháng Tư Đen
năm 1975, các hoạt-động kháng-Cộng của nhiều giới đồng-bào, bằng nhiều
phương-tiện và dưới nhiều hình-thức, đã được dấy lên công-khai, suốt nhiều năm
trường, tại nhiều nơi ở Miền Nam.
Em tôi, Trương Minh Dũng,
một cựu sĩ-quan cao-cấp Quân-Lực Việt-Nam Cộng-Hoà, cũng có làm thơ (bài nào
cũng được Châu Kỳ phổ nhạc) và cũng hát hay, đã cùng với Châu Kỳ đi thực-hiện
những buổi ca-nhạc chống-Cộng tại các nhà-hàng và địa-điểm đông người ngay tại
Sài-Gòn, trong một thời-gian khá lâu. Hiện-tượng này, cùng với hoạt-động của
các nhân-vật khác ở các lĩnh-vực khác, tất cả đều cùng chống Cộng, đã được đưa
vào phim ảnh của chế-độ mới, thí-dụ cuốn phim "Vụ Án Hồ Con Rùa", phổ-biến khắp
nơi (hồi đầu cộng-sản còn lo "phục-vụ" đồng-bào nông-dân, đưa phim đi chiếu khắp
các thôn ấp), tôi ở trong trại "cải tạo" cũng có được xem.
Các nghệ-sĩ
kiên-trì và quả-cảm này sau đó đã bị bắt đi "cải tạo" nhiều năm. Vì là bị tù,
dù tù chính-trị, sau khi Việt-Nam Cộng-Hoà không còn, nên Mỹ không tính
"thâm-niên" để nhận cho đi tị-nạn theo diện cựu-chính-trị-phạm như các
anh+chị+em H.O.
*
Vào năm 1999, băng nhạc, và
CD, nhan đề "Năm Mười Bảy Tuổi", là băng Vân Sơn 10, sản-xuất tại Mỹ, đã được
đưa về Việt-Nam, trong đó có bản "Tuý Ca", do Trường Vũ hát, và ghi tác-giả bản
nhạc là Tú Nhi.
Thật ra, "Tuý Ca" là tên của một bài thơ của Trương Minh Dũng,
do Châu Kỳ phổ nhạc, đã được xuất-bản trong bộ Thuỳ Dương Nhạc Tuyển của
chương-trình ca-nhạc "Tiếng Thuỳ Dương" của Đài Phát-Thanh Quân-Đội tại Sài-Gòn,
do Mỹ Hạnh phát-hành, vào năm 1974 (tôi còn giữ bản nhiếp-sao).
Vào thời-gian đó,
ở Mỹ vừa mới xảy ra vụ kiện, người giữ bản quyền bản dịch vở kịch "Lôi Vũ" đã
được thắng kiện, vì người đem diễn kịch ấy đã không xin phép và trả tác-quyền.
Giữa Hoa-Kỳ và Việt-Nam lại đã có ký hiệp-ước bảo-vệ tác-quyền "tài-sản
tinh-thần". Có người đề-nghị Châu Kỳ và Trương Minh Dũng nên kiện để đòi
bồi-thường, ít nhất cũng có chút tiền mà tiêu trong cảnh túng nghèo. Châu Kỳ,
qua Trương Minh Dũng, nhờ tôi tìm hiểu rõ hơn. Tình-cờ tôi gặp nhạc-sĩ Trần
Thiện Thanh (ca-sĩ Nhật-Trường), hỏi anh tại sao người ta ghi tên tác-giả "Tuý
Ca" là Tú Nhi, Tú Nhi là ai, thì anh đáp là hình như việc đó là do Chế
Linh.
Rốt cuộc, cả Châu Kỳ lẫn Trương Minh Dũng đều không tiến-hành
vụ kiện. Dũng nói với tôi: Châu Kỳ bảo rằng Chế Linh với Kỳ+Dũng cũng là anh+em
với nhau từ xưa, nỡ nào?
Một thời-gian sau, Dũng gửi
qua tôi một số ấn-bản tập nhạc nhan-đề "Những Tình-Khúc Châu Kỳ & Trương
Minh Dũng" do nhóm Song Nguyên, Lê Hiếu, Nhật Triết và Thạch Cầm ở Việt-Nam
thực-hiện trong năm 2000, và trong "Lời Dẫn" có đoạn:
"50 năm. Phải, Châu Kỳ và
Trương Minh Dũng đã kết bạn với nhau được 50 năm. Lời ca, hồn thơ và sóng nhạc
đã quyện hai người thành một... Năm mươi năm trước, Châu Kỳ & Trương Minh
Dũng đã từ đất Huế xa xăm "hành phương Nam", họ đem theo muôn nghìn cái lấp lánh
của mặt sông Hương trong một sáng rực rỡ mặt trời. Bây giờ họ kết thành một
chuỗi minh châu mười một tình khúc. Mỗi hạt đều long lanh, tròn trịa... sương
mai."
Tập "Những Tình Khúc Châu Kỳ & Trương Minh Dũng" gồm có 11
bản nhạc, tất cả đều phổ từ thơ của Trương Minh Dũng:
1. Sao Chưa Thấy
Hồi Âm
2. Bỏ Phố Lên Rừng
3. Mưa Trên
Quảng Đức
4. Giọt Đàn Theo Giọt Lệ
5. Về Sông
Cũ
6. Tuý Ca
7. Tình Thơ Ý
Nhạc
8. Người Đi Chưa Về
9. Em Đi Về
Đâu
10. Hồi Âm
11. Người Nhớ
Bài Ca, Ta Nhớ Người
(Về bài "Bỏ Phố Lên Rửng", có người mới đây tưởng là Châu Kỳ
qua nó ghi lại hoàn cảnh chật vật, phải bán nhà ra ngoại ô trú ngụ. Hoàn-cảnh
sau này thì chật-vật thật, nhưng bài ấy là thơ của Trương Minh Dũng sáng-tác từ
thập-niên 1960).
Châu Kỳ và Trương Minh Dũng nhờ tôi chuyển tặng một số bản, có
ghi tên người nhận và mang chữ ký của cả hai người, nhưng không thấy bản gửi
tặng Chế Linh. Có lẽ Châu Kỳ gửi thẳng, qua đường dây khác, hoặc
chờ...
Cho đến năm 2005, Châu Kỳ được Trung-Tâm Thuý Nga bảo-trợ qua
Canada để thu cuốn băng "Paris by Night 78", anh đã cùng vợ từ Canada qua miền
Nam California gặp thăm một số bạn-bè. Tôi tin là anh đã gặp Chế Linh, "anh+em
với nhau từ xưa".
*
Từ mấy tháng qua, một số
anh+chị+em văn-nghệ-sĩ ở hải-ngoại (Mỹ, Pháp, Thuỵ Sĩ, Na-Uy, v.v...) đã quyên
góp một số tiền để tổ-chức "Cây Mùa Xuân Mậu-Tý" cho anh+chị+em văn-nghệ-sĩ hiện
còn ở tại quê nhà; thủ-quỹ việc này là nhà văn Vũ Uyên Giang.
Tôi có góp vào để
nhờ trao riêng nhạc-sĩ Châu Kỳ một món quà.
Nhưng theo tin nhà cho biết
thì Châu Kỳ đã bị bệnh nặng, phải vào bệnh-viện, tôi sợ không kịp liền gửi thẳng
về chị Kỳ một món quà nữa.
Ngày 28 tháng 12 năm 2007,
tôi gọi điện-thoại hỏi thăm, gặp lúc Châu Kỳ đã về nhà rồi. Anh còn tỉnh-táo,
nghe chị trao đổi với tôi, nhưng không nói được. Tôi nhờ chị đưa ống nghe vào
sát tai anh để anh nghe tôi. Cuối cùng, tôi chúc anh sớm hồi-phục. Chị nói là
anh mỉm cười và gật đầu. Thế là anh+em chúng tôi đã "gặp lại" nhau, qua máy
điện-thoại, và hẳn là anh đã có nhớ lại bao nhiêu kỷ-niệm giữa hai chúng tôi từ
những thuở nào, trước ngày anh vĩnh-viễn ra đi.
Mấy tháng trước đó, anh còn
khoẻ mạnh, vợ+chồng Châu-Kỳ đã cùng với các anh+chị Tô Kiều Ngân, Phạm Cung,
Song Nguyên, họp với vợ+chồng Trương Minh Dũng em tôi, đại-diện cho tôi bên phía
nhà gái, để tiếp nhà trai trong lễ cầu-hôn con gái của tôi. Bây giờ thì Trương
Minh Dũng, vốn đã có mặt bên cạnh Châu Kỳ những ngày cuối đời của anh, cũng lại
đại-diện cho tôi trong lễ nhập-quan, di-quan của anh.
Xin thắp một nén nhang lòng
cầu-nguyện cho hương-linh bạn tôi, nhạc-sĩ Châu Kỳ, sớm được thảnh-thơi trên cõi
vĩnh-hằng.
LÊ XUÂN NHUẬN
(*) - Nhạc sĩ Châu Kỳ vừa qua đời
ngày 6 tháng 1, 2008