Bộ Học
chính thức xuất hiện lúc nào? |
Nội các triều đình quân chủ Việt
Nam tổ chức guồng máy hành chính có "lục Bộ" từ bao giờ? Năm Kỷ Mão 1459, triều
Lê sơ, niên hiệu Thiên Hưng, vua Lê Nghi Dân lần đầu tiên thiết lập đủ "lục Bộ"
gồm: Lại, Lễ, Hộ, Binh, Hình, Công. Kế tiếp, vua Lê Thánh Tông (1460 - 1497) đặt
chức Thượng thư - tương đương chức Bộ trưởng bây giờ - đứng đầu 6 Bộ với hàm
tòng nhị phẩm.
Như thế, trong cơ chế "lục Bộ"
không có Bộ Học. Việc đào tạo trí thức cùng tuyển chọn hiền tài thông qua hệ
thống giáo dục và thi cử trải suốt bao triều đại đều được Bộ Lễ kiêm nhiệm. Tuy
nhiên, viết về thời quân chủ phong kiến, thỉnh thoảng sách báo vẫn nhắc "Bộ Học"
với "Thượng thư Bộ Học" lẫn "Tham tri Bộ Học". Vậy Bộ Học ra đời vào thời gian
nào?
Sách Địa danh thành phố Huế
do Trần Thanh Tâm và Huỳnh Đình Kết hợp soạn (NXB Văn Hoá Dân Tộc, Hà Nội, 2001,
tr. 339) nêu: "Bộ Học thành lập thời Bảo Đại sau khi bỏ Bộ Binh vào năm
1932".
Thông tin như thế hoàn toàn thiếu
chuẩn xác!
Thực tế, Bộ Học chính thức xuất
hiện năm Đinh Mùi 1907 sau khi vua Duy Tân vừa lên ngôi.
Theo cuốn Việt Nam những sự
kiện lịch sử 1858 - 1918 của Dương Kinh Quốc (NXB Giáo Dục, Hà Nội, 1999,
tr. 303 - 304) thì ngày 8-3-1906, Toàn quyền Đông Dương ra nghị định thiết lập
Hội đồng Hoàn thiện nền giáo dục bản xứ (Conseil de Perfectionnement de
l'Enseignement indigène); ngày 16-5-1906 lại ra nghị định cho thành lập tại Bắc
kỳ, Trung kỳ, Nam kỳ, Campuchia và Lào, mỗi nơi một Hội đồng riêng để "nghiên
cứu các vấn đề giáo dục có liên quan đến riêng từng nơi một"; ngày 30-10-1906,
Pháp ra tiếp nghị định về "thiết lập chương trình giáo dục hệ Pháp Việt ở Trung
kỳ". Tiếc thay, cuốn sử biên niên này quên hẳn sự kiện quan trọng là Bộ Học xuất
hiện! Sự kiện lịch sử đáng kể đó có thể tìm thấy trong vài tài liệu khác. Như
tập Hoàng Việt Giáp Tý niên biểu của Nguyễn Bá Trác (Bộ Quốc gia
Giáo dục ấn hành, Sài Gòn, 1963, tr. 358) cho hay rằng đầu năm 1907, triều đình
Huế cử hai đại thần Cao Xuân Dục và Huỳnh Côn cầm đầu phái đoàn vào Nam kỳ để
"bàn nghị học chính" với Pháp, đến cuối năm thì về Huế và ngay sau đó "thiết lập
Bộ Học". Tập 1 Từ điển bách khoa Việt Nam (Trung tâm biên soạn Từ điển
bách khoa xuất bản, Hà Nội, 1995, tr. 261) cũng viết về Bộ Học: "Cơ quan nhà
nước của triều đình nhà Nguyễn thời thuộc Pháp, chuyên coi việc học hành, thi
cử. Được tách ra từ Bộ Lễ vào năm 1907, thời vua Duy Tân".
Từ Bộ Học
đến Bộ Quốc gia Giáo dục |
Từ điển bách khoa Việt Nam
(sđd) viết tiếp về Bộ Học: "Sau cải tổ Nam triều năm 1933, Bộ Học đổi thành Bộ
Quốc gia Giáo dục". Cứ liệu nọ phù hợp với tin tức từng đăng tải trên tạp chí
Nam Phong năm 1933 và gần đây được dẫn lại trong Từ điển lịch sử Thừa
Thiên - Huế (NXB Thuận Hoá, Huế, 2000, tr. 385): "Ngày 7-8-1933, theo đạo dụ
của vua Bảo Đại ban hành ngày 2-5-1933, Bộ Học đổi thành Bộ Quốc gia Giáo dục
của Nam triều. Bộ này được giao cho Phạm Quỳnh đứng đầu. Toàn quyền Đông Dương
Charles chủ toạ lễ thành lập tại Huế".
Cuộc cải tổ Nam triều năm Quý Dậu
1933 gây xôn xao dư luận thời bấy giờ - đặc biệt là việc nhà vua quyết định bãi
nhiệm chức Thượng thư đối với 5 đại thần cùng lúc, gồm: Nguyễn Hữu Bài (Bộ Lại),
Tôn Thất Đàn (Bộ Hình), Phạm Liệu (Bộ Binh), Võ Liêm (Bộ Lễ), Vương Tử Đại (Bộ
Công). Mãi tới nay, vụ việc đó vẫn được người Việt Nam truyền tụng khá chi tiết
qua bài thơ sử dụng lối chơi chữ đồng âm độc đáo:
Năm cụ khi không rớt
cái ình!
Đất
bằng sóng dậy xứ Thần Kinh.
Bài không đeo nữa, xin dâng
lại,
Đàn nỏ nghe ai, khéo dở hình.
Liệu thế không xong
binh chẳng được,
Liêm đành giữ tiếng lễ đừng
rinh.
Công danh thôi thế là hưu hĩ,
Đại sự xin nhường lớp hậu
sinh.
Viết sách Kể chuyện vua quan nhà Nguyễn (NXB Thuận Hoá, Huế,
1990, tr. 215), Phạm Khắc Hoè - từng làm Đổng lý ngự tiền văn phòng cho vua Bảo
Đại - nhận định rằng vụ việc đó chính là "cuộc cải cách lớn nhất trong triều
đình Huế" và bài thơ vừa dẫn là "bài thơ Đường luật khá đặc sắc mà lúc bấy giờ
không ai dám nhận là tác giả". Vài tài liệu ấn hành sau này đã khẳng định tác
giả bài thơ là Hoài Nam Nguyễn Trọng Cẩn (1897 - 1947).
"Lớp hậu sinh" mà vua Bảo Đại bổ
dụng làm tân thượng thư hồi ấy gồm 5 nhân vật: Thái Văn Toản, Phạm Quỳnh, Hồ Đắc
Khải, Ngô Đình Diệm, Bùi Bằng Đoàn. Về nhân vật Phạm Quỳnh, đích thân cựu hoàng
Bảo Đại nêu nhận xét trong hồi ký Le Dragon d'Annam (NXB Plon, Paris,
1980) - bản dịch sang Việt ngữ mang nhan đề Con rồng An Nam (Nguyễn Phước
tộc xuất bản, California 1990, tr. 90) - như sau: "Để trẻ trung guồng máy quan
lại, lấy những người mới, chính cụ Charles đã gợi ý tôi thay cụ Bài bằng Phạm
Quỳnh. Tôi cho vời ông này tới và cho ông ta biết ý định canh tân đất nước bằng
lớp người trẻ. Phạm Quỳnh là người Bắc, tự học, viết văn, làm báo, mới có 35
tuổi. Rất thành thực, ông ta trình bày lập trường của ông ta rất phù hợp với
tôi. Tôi liền phong ông ta vào chức Đổng lý ngự tiền văn phòng, hàm Thượng thư.
Đó là lần đầu tiên một người chưa từng có quan chức gì được làm Thượng thư ở
triều đình Huế."
Phạm Quỳnh (1892 - 1945) dạo ấy
tuy "chưa từng có quan chức gì" song đã vang danh gần xa là chủ bút tạp chí
Nam Phong từ năm 1917. Năm 1933, theo chỉ dụ số 29 của vua Bảo Đại, Phạm
Quỳnh trở thành Thượng thư Bộ Học đúng thời gian cơ quan này cải tên là Bộ Quốc
gia Giáo dục (Ministère de l'Education nationale). Thời điểm đó, Phạm Quỳnh vượt
ngưỡng "tứ thập nhi lập" rồi, chứ chẳng phải "mới có 35 tuổi" như cựu hoàng Bảo
Đại nhớ nhầm!
Nhân vật
và di tích liên quan |
Đã xác định Bộ Học chính thức xuất
hiện năm Đinh Mùi 1907. Vậy Thượng thư đầu tiên của Bộ này là ai? Chẳng ai xa
lạ, đấy chính là Cao Xuân Dục (1842 - 1923).
Vốn là Hiệp biện đại học sĩ sung
Tổng tài Quốc sử quán, thọ tước An Xuân Nam, Cao Xuân Dục từng làm chánh chủ
khảo khoa thi Hội năm Tân Sửu 1901 và làm quan độc quyển khoa thi Đình năm Đinh
Mùi 1907. Cũng năm 1907, ông cùng Thượng thư Bộ Hộ là Huỳnh Côn vào Nam kỳ "bàn
nghị học chính" với Pháp xong bèn quay về Huế lập thêm Bộ Học. Triều đình cử Cao
Xuân Dục làm Thượng thư Bộ mới này vào tháng 11-1907. Thượng thư họ Cao còn được
sung Phụ chính đại thần, rồi được ban hàm Thái tử thiếu bảo, sau được thăng tước
An Xuân Tử. Cao Xuân Dục là thân sinh của Phó bảng Cao Xuân Tiếu (1865 - 1939)
và là nội tổ của giáo sư Cao Xuân Huy (1900 - 1923).
Các vị kế nhiệm Thượng thư Bộ Học
là Hồ Đắc Trung (1856 - 1939) và Thân Trọng Huề (1869 - 1925). Khi Bộ Học đổi
danh xưng thành Bộ Quốc gia Giáo dục vào năm 1933, Phạm Quỳnh làm Thượng thư.
Cuốn Việt Nam những sự kiện lịch sử 1919 - 1945 của Dương Trung Quốc (NXB
Giáo Dục, Hà Nội, 2001, tr. 226) cho biết rằng "hạn định chức vụ Thượng thư là 3
năm" và "đến năm 1939, số lượng các Bộ tăng lên thành 7 Bộ". Bấy giờ, Phạm Quỳnh
làm Thượng thư Bộ Lại kiêm Thượng thư Bộ Quốc gia Giáo dục.
Giai đoạn từ ngày 12-5-1942 đến
19-3-1945, Trần Thanh Đạt làm Thượng thư Bộ Quốc gia Giáo dục. Trần Thanh Đạt
(1891 - 1968) còn có tên Trần Công Toại, là anh cùng cha khác mẹ với hai nhà văn
Trần Thanh Mại và Trần Thanh Địch. Ông Đạt cũng là phụ thân của "người lụa bến
sông Hương" Trần Thị Thương Thương - "nguồn thơ bất tuyệt" cho thi sĩ tài hoa
Hàn Mạc Tử (1912 - 1940) sáng tác Duyên kỳ ngộ và Quần tiên
hội.
Tập 4 bộ sách Hỏi đáp về triều
Nguyễn và Huế xưa do Nguyễn Đắc Xuân biên soạn (NXB Trẻ, TP.HCM, 2002, tr.
47 - 48) có đoạn: "Thời quân chủ nhà Nguyễn, ông Cao Xuân Dục là Thượng thư Bộ
Học đầu tiên và ông Trần Thanh Đạt là người cuối cùng". Sự thật lịch sử đúng thế
chăng?
Chúng ta đều biết đêm 9-3-1945,
phát xít Nhật đảo chính thực dân Pháp trên toàn cõi Đông Dương. 10 hôm sau, nội
các triều Nguyễn do Phạm Quỳnh đứng đầu xin từ chức tập thể. Dĩ nhiên, trên
nguyên tắc, Trần Thanh Đạt hết lãnh đạo Bộ Quốc gia Giáo dục vào thời điểm ấy,
tức ngày 19-3-1945 chứ không phải ngày 9-3-1945 như Nguyễn Đắc Xuân ghi nhận.
Đến ngày 17-4-1945, trước sự hiện diện của đại sứ Nhật là Yokoyama, Trần Trọng
Kim đệ trình vua Bảo Đại danh sách nội các mới. Nội các thân Nhật do Trần Trọng
Kim làm Thủ tướng; Bộ Giáo dục và Mỹ thuật được thạc sĩ toán học Hoàng Xuân Hãn
điều hành. Nội các kia chỉ tồn tại tới ngày 7-8-1945. Thế cũng đủ để nói rằng
tới lúc vua Bảo Đại cử hành lễ thoái vị tại Ngọ Môn ở Huế vào chiều 30-8-1945
thì trong thành phần nội các của chế độ quân chủ cuối cùng của Việt Nam, người
đứng đầu Bộ Học - dù được cải tên thành Bộ Quốc gia Giáo dục hoặc Bộ Giáo dục và
Mỹ thuật - chẳng phải Trần Thanh Đạt mà là Hoàng Xuân Hãn (1908 -
1996).
Trụ sở của Bộ Học thuở xưa đóng
tại đâu? Địa điểm ấy toạ lạc sát vườn hoa Tôn Nhơn phủ, ở phía đông bên ngoài
Hoàng thành, chỉ cách cửa Hiển Nhơn một quãng ngắn. Tài liệu La Citadelle de
Hué - onomastiques (Kinh thành Huế - địa danh) do Léopold Cadière công bố
trên tờ Bulletin des Amis du Vieux Hué năm 1933 cho thấy đấy vốn là phủ
riêng của vua Dục Đức, sau Viện Cơ Mật dùng làm nơi hội họp, đến đời vua Thành
Thái thì chuyển nên trường Tôn Học (dạy các hoàng tử và công tử, công tôn). Đầu
đời vua Duy Tân, chỗ ấy chính là văn phòng Bộ Học.
Trụ sở Bộ Học được cải dụng làm
trường trung học Thành Nội từ năm 1955 tới năm 1957. Trường Thành Nội sau đó
chuyển tên là trường Hàm Nghi. Kế tiếp, nơi ấy trở thành Nha Học chánh Trung
phần. Hiện nay, đấy là Công ty Sách và thiết bị trường học Thừa Thiên - Huế, ven
đường Hàn Thuyên. Tại nơi này, dấu tích dễ nhận ra là cổng vòm xây vẫn lưu 4 chữ
Hán: 學部 堂 門 Học Bộ đường môn.
Chỉ tồn tại non 4 thập niên vào
nửa đầu thế kỷ XX, Bộ Học của nước ta thời phong kiến vẫn còn lắm vấn đề mà hậu
thế mong muốn tìm hiểu - nhất là những ai hằng quan tâm đến truyền thống giáo
dục Việt Nam.
Phanxipăng
Đã đăng Thế Giới
Mới 503 (9-9-2002)
|
|
Thượng thư đầu tiên của Bộ
Học: ông Cao Xuân
Dục |
Thượng thư thứ nhì của Bộ
Học: ông Hồ Đắc
Trung |
|
Thượng thư cuối cùng của Bộ
Học lúc đã đổi tên thành Bộ Giáo dục và Mỹ thuật: ông Hoàng Xuân
Hãn |
|
Cổng vòm Học Bộ đường
môn ở Huế hiện nay. Ảnh: Phanxipăng |