Phụ Nữ Tân Văn bênh thơ mới
Cô Nguyễn Thị Kiêm diễn thuyết ngày 26 Juillet 1933. Bài diễn thuyết của cô tuy mãi sau này mới đăng lên Phụ Nữ Tân Văn số 211 (10-8-1933) đoạn đầu và đoạn sau mãi đến số 213 (24-8-1933) mới đăng hết, bài diễn thuyết ấy đã được báo Phụ Nữ tường thuật ngay từ số 210 và liên tiếp các số sau.
Nơi số 210 (3-8-1933), nghĩa là một tuần sau khi cô Kiêm đọc diễn văn, bài xã thuyết của trang nhất tựa là " Đáp lại một cuộc bút chiến " tác giả ký Phụ Nữ Tân Văn đã cực tán dương cô Kiêm như là người đầu tiên dám can đảm dạn dĩ đi " hẳn vào con đường mới, không quản sự mỉa mai của nhiều người thủ cựu " (P.N.T.V. số 210) :
" Cô Nguyễn Thị Kiêm đã diễn thuyết ở hội Khuyến học Saigon về lối thơ mới.
" Tất cả bạn độc giả có xem qua cuộc bút chiến to tát của vài tờ báo đối với thơ mới đăng ở Phụ Nữ Tân Văn sẽ nhận được ý nghĩa cuộc diễn thuyết này.
" Vài năm nay, đành rằng vẫn có nhiều người bảo phải bỏ những khuôn khổ cũ trong thi ca An nam, vì nó không còn thích hạp với tình tứ và tư tưởng của thi sĩ đời nay, là đời điển khí.
" Có người cũng đã bắt chước lối tây hay là tự ý bày ra lối mới để làm thử một hai bài thơ.
" Nhưng, thật ra, chưa có thi sĩ nào dạn dĩ bước hẳn vào con đường mới, không quản sự mai mỉa của " nhiều người thủ cựu ".
" Không ai có thể cãi rằng cô Nguyễn thị Manh Manh đã đem thi cảm thật mà đặt vào khuôn khổ mới, tỏ ra là một tân nhân vật chịu ảnh hưởng trực tiếp của thơ Tây.
" Người nào chịu bỏ thiên kiến không kể những lời chế diễu quá dễ dàng của vài ông túng " câu chuyện hằng ngày " ; người nào có huấn luyện về văn thơ, người nào chịu khó suy nghĩ trong khi đọc, tất nhận được thi cảm trong những bài thơ mới của cô Nguyễn, và đã tự hiểu rằng : tinh tứ mới cần diễn ra trong thơ mới . . . . . . . . . . . . . . . . . . .
" Cô Nguyễn đã tỏ ra quan niệm mới đối với thơ vần ; cô lại là người có thi cảm cho nên sự sáng kiến của cô có ảnh hưởng và nhơn đó mà sinh bất tiện cho cô. Ta cứ xem cuộc bút chiến to lớn và phi thường về thơ lối mới thì đủ biết.
" Người thi sĩ của báo P.N.T.V. đối phó với sức phản động ra thể nào ?
" Cô đã đăng dàn diễn thuyết để đáp lại những lời chỉ trích ; cô đã tỏ ra nghị lực phấn đấu một cách rõ rệt.
" Thái độ của bạn nữ lưu nầy sẽ có ảnh hưởng hay cho vận động phụ nữ ; bạn đàn bà có thể tự phụ vì cô Nguyễn đã dạn dĩ phấn đấu như thế ! chúng tôi xin chị em lưu ý tới thái độ của bạn nữ biên tập chỉ là vì cơ vận động phụ nữ ; chúng tôi nêu mục này ở mục xã thuyết là vì cái ảnh hưởng của nó đối với trào lưu phụ nữ, chớ không phải vì nhà diễn thuyết là bạn của chúng tôi đâu.
" Chị em đọc báo tất đã nhận chủ tâm của chúng tôi "...(Phụ Nữ Tân Văn số 210, 3-8-1933).
Các bạn nên ghi nhận kỹ lưỡng đoạn văn trên đây. Nó không phải của một nhà văn nào nhận định về cô Kiêm, về thơ mới, về cuộc tranh luận giữa thơ cũ thơ mới, mà nó là bài xã thuyết, bài lập trường của báo Phụ Nữ, tức là nó nằm ở trong chính sách, nằm trong đường lối của Phụ Nữ Tân Văn.
Huấn Minh ca ngợi thơ mới của cô Kiêm
Rồi cũng trong số 210 này, sau bài lập trường kể trên đây, còn có một bài tường thuật của Huấn Minh tựa là " Cô Nguyễn Thị Kiêm diễn thuyết tại hội Khuyến Học về LỐI THƠ MỚI ". Đây là một bài tường thuật rất có ý nghĩa, bởi nó hợp với điều mà Ngộ Không đã tường thuật ở Phong Hoá nghĩa là nó tố cáo sự hăng say của văn giới đối với vấn đề. Trong bài tường thuật này Huấn Minh đã ghi nhận bảy điểm bằng bảy tựa đề in chữ to :
1. Tựa đề thứ nhất " Cuộc diễn thuyết về lối thơ mới ". Huấn Minh ghi :" Một tuần lễ nay, đi đến đâu cũng nghe bàn bạc về " lối thơ mới " của cô Nguyễn Thị Manh Manh, và cuộc diễn thuyết về lối này.
Văn sĩ Tần Việt và nữ sĩ Tịnh Đế dùng lối trào phúng mà biên " nhàn đàm " và " câu chuyện hàng ngày để kích bác Nguyễn nữ sĩ, tự nhiên làm cho công chúng chú ý tới cuộc diễn thuyết của bạn chúng tôi.
Văn sĩ Tần Việt và nữ sĩ Tịnh Đế dùng lối trào phúng mà biên " nhàn đàm " và " câu chuyện hàng ngày để kích bác Nguyễn nữ sĩ, tự nhiên làm cho công chúng chú ý tới cuộc diễn thuyết của bạn chúng tôi.
" Cuộc diễn thuyết này là một lời thanh minh ; nó mở ra trong văn học xứ này một trương mới ; nó có hai đặc sắc. Một lần đầu, ở xứ này có cuộc tranh biệt kịch liệt về thơ, về khuôn khổ cũ và mới, lần này là lần thứ nhứt, một thiếu niên nữ sĩ đứng ở trước chỗ đông người làm án một bọn văn sĩ thủ cựu ".
2. Tựa đề hai " Đông nhứt các buổi hội ". Huấn Minh ghi :" Buổi diễn thuyết tối hôm thứ tư 26 Juillet vừa rồi được đông người nghe nhứt...
" Tân Việt và bọn của ông ngồi rải rác các nơi, tức là đại biểu cho sức phản động. Trong thi giới cũng như trong các phạm vi khác vẫn có lắm kẻ bảo thủ ".
Điều ghi nhận ông Tân Việt và bọn ông kéo nhau đi để phá cô Kiêm là điểm các bạn nên ghi chú.
3. Tựa đề ba " Thơ hăm dọa ", Huấn Minh ghi :" Cô Nguyễn Thị Kiêm tới hội quán ! Người trong hội trao lại cho cô một xấp dày những thơ hăm dọa ".
Điều ghi chú này lại càng là một điểm độc đáo, tố cáo vấn đề gay go đến mức độ nào.
4. Tựa đề bốn " Từ hai mươi lăm năm nay ! ", Huấn Minh ghi :" 8 giờ rưỡi ! ông hội trưởng hội Khuyến học, đốc tơ Trần Văn Đôn, đứng ra giới thiệu nữ diễn giả.
- " Hội Khuyến học có đã hai mươi lăm năm nay : lần này là lần thứ nhứt, một người phụ nữ đăng đàn ! "
5. Tựa đề năm " Diễn giả nói một tiếng rưỡi đồng hồ ", Huấn Minh ghi :" Cô Nguyễn nói về lối thơ mới. Cô bác những lời nghị luận vô giá trị của ông Tân Việt và cô Tịnh Đế, vân vân, bảo rằng những thơ cô cho đăng trên báo P.N.T.V. không niêm luật. Cô giải thích chữ thơ...
" Cô giải rõ ràng vì sao mà phải bỏ khuôn khổ cũ, không phải vì phạm vi 8 câu 56 chữ không thể giúp cho thi sĩ diễn tả cái thiệt tế ngày nay, bày rõ vấn đề sự sống, cho đến những lối cũ mà hơi rộng hơn là lối lục bát và song thất lục bát cũng không thể làm khuôn cho tình tứ mới được.-Lời quả quyết này quả đúng sự thật ! "
. . . . . . . . . . . .
6. Tựa đề sáu " Thái độ của người phản đối ", Huấn Minh ghi :" Tuy những nhà phản đối cô Nguyễn đã cao rao là sẽ xin đứng lên phản đối cô tại hội quán, mà họ vẫn ngồi im...Diễn được một tiếng đồng hồ thì chừng mươi người trong bọn phản đối ấy rút về êm. "
7. Tựa đề bảy : " Cảm giác ", Huấn Minh ghi :" Trừ những kẻ tật đố, còn thì ai cũng nhận rằng buổi diễn thuyết hôm thứ tư rồi có ảnh hưởng tốt trong mọi đường.
" Dầu sao, lối thơ mới đã chiếm được quyền sống còn trong văn học An Nam.
" Hết thảy bạn nam nữ thấy cô Nguyễn nhận chơn trách cứ của mình và cổ động cho cuộc biến đổi trong thi giới như vậy � Có người đã gọi là một cuộc cách mạng trong làng thơ, - đều hưng khởi trong lòng.
" Văn sĩ An nam phần đông rất lãnh đạm với mọi sự biến đổi, nhờ cử động cương quyết của cô Nguyễn kích thích mà sẽ đổi thái độ của mình ". (P.N.T.V. số 210, 3-8-1933)
Chủ nhiệm Phụ Nữ Tân Văn ca ngợi thơ mới
Cũng trong P.N.T.V. số 210, sau bài của Huấn Minh, chính bà chủ nhiệm Nguyễn Đức Nhuận cũng có bài " Nghe cô Nguyễn Thị Kiêm diễn thuyết ". Các bạn có thể ghi mấy dòng tiêu biểu hơn sau đây :" Một người thiếu nữ đứng trước gần ba trăm thính giả nam nữ mà giảng về thơ, văn chương, cắt nghĩa chức vụ của thơ là thế nào, thỉnh thoảng cầm mấy tờ để đọc những lời chỉ trích của bạn đồng nghiệp mà thái độ rất tự nhiên, rất vững vàng !
" Cái quang cảnh ấy làm cho lời nói của bác sĩ Trần thêm có ý nghĩa.
" Hội Khuyến học ra đời hai mươi lăm năm nay, mới có lần diễn thuyết này diễn giả là một người thiếu nữ ! Một người thiếu nữ có tư tưởng, có văn tài. Một người thiếu nữ đã dám bảo rằng phải bỏ những khuôn khổ cũ của thơ ta, phải ngâm vịnh trong khuôn khổ mới !
" Một người thiếu nữ chống lại bao nhiêu nhà thủ cựu trong thi giới mà nói rằng cần phải tả sự thật đời nay trong khuôn khổ rộng hơn khuôn khổ Đường thi.
" Một người thiếu nữ dám ca tụng những thơ rất mới như là bài " Con nhà thất nghiệp " của thi sĩ Hồ Văn Hảo, làm cho bọn công kích thơ mới khó chịu phải kéo nhau ra về !
" Quang cảnh hay thay !
" Tôi ước ao các ngài phản đối lối thơ mới cứ tha hồ phản đối, nhưng giữ phép lịch sự đối với một nữ đồng nghiệp đã dạn dĩ đi vào con đường mới lạ.
. . . . . . . . . . . .
" Nếu các ông chịu nhận như vậy rồi đem sự tranh luận về lối thơ mới lên trình độ cao, chớ không nói pha lửng về " bài thơ con cóc " một cách vô vị, thì các ông sẽ được người nghịch nể vì ".
Sau cùng, cũng ở P.N.T.V. số 210, còn có bài " Lối thơ mới " của Thanh Lan (ký tên T.L.) giới thiệu bài thơ " Tình thâm " của Hồ Văn Hảo. Thanh Lan nhận định cái gì ở xã hội ta cũng đang đổi mới. Mà theo tác giả, về sự đổi mới của văn vần, có người chỉ muốn đổi mới về nội dung còn giữ y nguyên hình thức cũ. Thanh Lan không chịu thế :" Những sự biến đổi kịch liệt trong xã hội An Nam về kinh tế và chánh trị đã có vang bóng trong văn chương An Nam.
" Về văn xuôi, lối văn đối từng câu từng vế, luộm thuộm lòng thòng, dần dần thối bộ để nhường chỗ cho lối văn mới, hợp với đời mới này hơn.
" Về văn vần, tuy rằng thơ của các thi sĩ Nguyễn Thị Manh Manh, Hồ Văn Hảo, Khắc Minh và các bạn khác nữa đăng ở Phụ Nữ Tân Văn vẫn còn đương bị chỉ trích dữ, nhưng số độc giả đã đổi thị hiếu mà cảm biết cái thi vị của lối này mỗi ngày mỗi đông.
" Kẻ bảo thủ thấy mỉnh có mòi thất bại, thì đổi chiến sách. Bấy giờ họ bảo rằng :
" Đã đành là thi sĩ phải diễn cái thiệt tế mới trong xã hội, nhưng can chi lại phải bỏ lối thơ Đường luật là lối thơ đã từng nhờ những bài thơ tuyệt bút của bao nhiêu thi sĩ đời xưa mà nổi danh ? Can chi mà đổi cái hình thức ? Chỉ vụ tất ở hình thức chẳng là nông nổi lắm ru ? Chi bằng ta lo về nội dung, nghĩa là cứ diễn đạt tư tưởng và cảm tình mới trong khuôn khổ cũ.
" Tôi xin đáp ngay với người phản động :
- Hình thức và nội dung quan hệ cùng nhau mật thiết lắm.
" Cái áo đà không đủ tỏ là kẻ tu hành chân chính (l�habit ne fait pas le moine) ; nhưng mà cái áo đà (hình thức) cũng đã tỏ ra một cái tinh thần (nội dung) đặc biệt. Vì, quả nhiên, người mặc áo đà có tâm lý khác với người vận y phục thường. Dầu không phải là thầy tu chân chánh chăng nữa người vận áo đà vẫn không phải tâm lý như người thông thường.
" Nói thiết thực hơn về vấn đề thơ mới, thi sĩ nào có tình tứ mới mà chịu diễn đạt trong khuôn tám câu năm mươi sáu chữ, thì sẽ thấy kết quả nầy.
" Tình tứ thật của mình không thấy phát biểu ra được, mà chỉ thấy mình nói những lời mình không muốn nói. Cái khuôn khổ cũ giam mình trong một hoàn cảnh không thật ".
Tác giả L.Đ ca ngợi thơ mới
Ngày 7 tháng 9 năm 1933 (P.N.T.V. số 215), một tác giả khác, ký tên L.Đ. đã viết bài " Nên bàn về lối thơ mới ". Bài " Nên bàn về lối thơ mới " đã được báo Phụ Nữ Tân Văn giới thiệu như thế này :
" Bổn báo đăng bài sau này của ông L.Đ. để mở đường tranh luận về lối " thơ mới " trong tập báo này. Phụ Nữ Tân Văn không thể làm cơ quan cho đảng phái chánh trị hay là văn học nào hết ; trên tờ báo chúng tôi có thể đăng bài tả ra những khuynh hướng khác nhau để cho công chúng tranh biện rồi tự kết luận lấy ". B.B.
Bài này, trước hết, thuật lại nền học của Việt Nam từ đầu, là một nền học lệ thuộc hoàn toàn vào Trung Hoa cho nên các kỹ thuật làm thơ viết văn, nhất thiết đều bắt chước Tàu :
" Nước ta từ xưa đến nay vẫn là một nước có một nền văn hiến ; song xét ra cho dùng văn cho đúng, văn hiến ấy phần nhiều chuyên chú vào các hạng nhà nho.
" Còn về mặt quốc âm vẫn còn kém sút nhiều lắm, kém sút về hình thức mà về phương diện tinh thần cũng quá eo nghèo.
" Ngày nay hán học đã sắp điêu tàn, e có ngày phải tuyệt diệt. Vậy thì cần nhứt là ta phải kiếm một lối học thuật mới để thay vào. Đó là lẽ cố nhiên ai ai cũng đều công nhận ; nhưng trong nước hiện thời có hai nền văn học. Thứ nhất : Pháp văn ; thứ nhì : Quốc văn. Pháp văn cần phải học đã đành rồi, song học để mà làm một cái lợi khí để hấp thụ lấy tinh thần Âu Mỹ hầu truyền bá trong dân gian, chớ không thể lấy đó mà thay cho Quốc văn được.
" Vậy thì điều cần thiết hơn hết là ta nên lấy quốc văn làm một môn học phổ thông. Dân ta là An Nam, lại học nói, học viết tiếng An Nam, há chẳng phải là một điều tiện lợi lắm ru. Thế mà từ xưa đến nay có mấy ai cho rằng tôi học quốc văn ở trường này...trường kia ra chăng ? Hẳn là không ! Ta định lấy Quốc văn là môn học phô thông, mà hồi nào đến giờ không có trường, không có cơ quan cho đúng dắn thì người thức giả phỏng ai lại chẳng đem lòng lo nghĩ .
" Người nho học thi ngồi chễnh chệ, run đùi, tấm tắt khen thầm văn ông Lý, ông Đỗ là hay. Còn hạng tân học khen Pháp văn, là cao thâm uyên bác, khen thơ ông Victor Hugo là khéo, khen văn ông Lamartine là não nuột thâm trầm. Nhhũng hạng có học thì tuỳ theo sở thích của mình mà ưa chuộng, không mấy ai chịu ngóng ngàng đến Quốc văn ; thành thử từ xưa đến nay, cái tình đối với Quốc văn thật là nguội lạnh lợt lạt. Vẫn biết rằng Quốc văn đã phát hiện từ hồi đời nào kia, cũng có người quan tâm đến, nhưng đó là phần ít. Nếu không có thì sao lại có cuốn Kim Vân Kiều, cuốn Tần Cung Oán, cuốn Chinh Phụ Ngâm, cuốn Lục Vân Tiên là mấy bộ văn chương kiệt tác như thế. Song xét cho kỹ thì các nhà văn sĩ hồi xưa làm ra những áng văn ấy vì một cơn ngẫu hứng, hoặc là đem tả lấy cái tâm sự của mình nó uẩn khúc trong lòng chớ chưa phải là vì vấn đề Quốc văn mới sản xuất ra mấy tập văn kia vậy.
" Các nhà nho kia hễ mỗi khi cảm hứng thì làm toàn là thơ bằng Hán văn, mấy ông cho rằng nôm na là mách qué. Bởi thế có mấy ai ngó ngàng đến vận mạng, đến tiền đồ Quốc văn làm chi. Có lẽ vì duyên cớ ấy mà làm cho lắm điều trở ngại về Quốc văn, sự tấn bộ về Quốc văn cũng phải dần dà chểnh mảng. Hiện nay chúng ta đã biết rằng Quốc văn là eo hẹp, nên chỉ lật đật tu bổ, trau dồi lại cho tốt ; xây tường đấp móng cho nền Quốc văn được rực rỡ thêm nhiều. Kẻ lo tìm kiếm nhiều tiếng mới, người lại lo bầy bố nhiều lối thơ. Nói tóm lại ai ai cũng đều lo sửa đổi " cái kho hương hoả " của mình cho hoàn toàn thiện mỹ, hầu chẳng hổ rằng người nước ta là một giống dân hiếu học, văn chương nước ta chẳng kém chi người.
" Nay thử hỏi ý kiến bày ra " thơ mới " phát hiện vào thời kỳ nào ?
" Người nước ta thuở xưa phần đông chuyên về hán học. Cứ theo sách cũ tra cứu ra thì nước ta biết chữ Hán tự đời Hồng Bàng, nghĩa là lúc ban sơ mới khai quốc thì trong nước ta đã có chữ Hán. Tiền nhân của chúng ta học hán văn tất phải dùng chữ, dặt câu theo Hán. Trở về sau, dần dần Hán mạt, cải Đường là lúc chữ Hán thạnh hành mới biến chế và phân ra nào là : ngũ ngôn cố thể, ngũ ngôn cận thể, ngũ ngôn bài luật, ngũ ngôn luật, ngũ ngôn tuyệt cú ; thất ngôn cổ thể, thất ngôn cận thể, thất ngôn luật, thất ngôn bài luật, thất ngôn tuyệt cú vv... song thể cách thơ từ cũng chưa phải là vào tình trạng quá gắt gao. Trở về sau, từ đời Trung Hưng trong nước ta sấp xuống chuyên dùng lối thơ thâÙt ngôn luật, trong một bài thơ phải có câu : phá đề, nhập đề, thượng trạng, hạ trạng, thuợng luận, hạ luận, thượng kết, hạ kết, bó buộc bách xúc thái quá, xưa nay không có thế bao giờ.
" Về sau, các nhà nho nào là văn nhân thi sĩ, hễ mỗi cơn khiển hứng thì mượn lối đó mà làm, thét rồi đời này sang đời kia thành di truyền ra một tánh quen, nói trắng ra thành một " cái tật " là đúng hơn, không thế nào trừ bỏ dặng.
" Đến sau - không biết vào thời kỳ nào ? - Hoặc giả vì lối thơ ấy câu đã ngắn, lại có hạn ; phần niêm luật quá gắt gao, trang nghiêm, hiểm hóc, sao là " bình ", sao là " trắc ", lại còn " âm vận ", hãm người làm thơ phải theo lấy đó. Thành thử cái ý kiến của mình không thể nào đem tả ra cho hết nội trong " năm mươi sáu " chữ ấy. Phải cân nhắc tỉ mỉ từng câu, từng chữ, thật là trong óc lúng túng, bực bội vô cùng những người làm thơ đều biết - vì thế mà ngòi bút không đặng một tí tự do, và câu văn cũng kém mất đôi phần linh hoạt.
" Thật vậy, có nhiều khi tôi tập làm thơ trên nầy, hễ bị " bí " một cái, xuất mồ hôi hột chẳng chơi ! Cào tai, gãi cổ ; chọn tiếng này, lựa tiếng kia mãi rồi trọn một ngày thơ đâu chẳng thấy, chỉ thấy trí óc nó dật dờ chóng mặt, mà dầu có đặng đi nữa đọc bài thơ nghe cũng " xẳng lè ". Vì sao ? Vì trong bài thơ có nhiều chữ tôi không muốn để mà buộc lòng tôi phải để. Trước sự bức bách của thể cách Tàu, chẳng phải bây giờ mới có người nghĩ ra thơ mới, mà đã có người nghĩ ra thơ mới từ thủa nào rồi kia : đó là hai thể lục bát và song thất lục bát.
" Thiết nghĩ, vì duyên cớ ấy mới có người phát minh ra hai lối thơ mới - ngày nay đã cũ rồi - chính là thơ lục bát, và song thất lục bát kia vậy. Ấy đó, vấn đề thơ mới này sanh ra trong óc tiền nhân ta lâu rồi ; chớ không phải đến nay mới có chúng ta là trước nhứt. Song đó chẳng qua là mấy tay thi sĩ đại tài sáng kiến ra một lúc mà thôi. Trở về sau cái tình ấy tưởng đâu là phải tiêu diệt mất, vì người ta đối với nó một cách hờ hững lơ là ; khác nào một luồng gió vừa thổi lai rai, một đốm lửa con con trong đống củi ".
Lần thứ hai, văn sĩ ta, theo ông L.Đ., đã lại nghĩ ra thơ mới, đó là ông Trần Tuấn Khải với điệu " Anh khoá ".
" Về thời kỳ gần đây thấy trong quyển " Duyên nợ phù sinh " của ông Á Nam Trần Tuấn Khải có một bài thơ mới tựa là :" Tiễn chân anh khoá xuống tàu ".
Anh Khoá ơi em tiễn chân anh xuống tận bến tàu (1)
Đôi tay em đỡ lấy cái khăn giầu (trầu) em lấy đưa anh
. . . . .
" Ấy cái điệu thơ mới của ông Trần là như thế.
" Ông khéo sáng kiến dùng điệu thơ lục bát thêm tiếng thêm điệu vào thành ra bài thơ, không có hạn câu, hạn chữ, dễ đạt được ý tứ và phô bày ra rõ ràng tình tiết. Khi đọc lên lại nghe rất êm tai, dễ cảm hoá được lòng người, vì câu văn thật là não nùng uyển chuyển lắm.
Các nhà làm thơ mới sau ông Trần Tuấn Khải, cũng theo ông L.Đ., hình như cũng chỉ là theo đà tiến hoá chung mà gây thành phong trào rầm rộ hơn chứ không có gì là lạ lùng hay lập dị.
" Về sau phong trào " thơ mới " sôi nổi, không khác nào luồng gió lai rai kia hoá thành luồng giông lớn, đốm lửa con con kia bừng cháy. Lửa càng cao, giông càng lớn : bao nhiêu người tỉnh giấc đều đối với vấn đề thơ mới một cái tình cảm rất nồng nàn ". Sau đấy, ông L.Đ. kể tên và khen một số nhà thơ mới như Phan Khôi, Lưu Trọng Lư, Hoàng Xuân Mộng, Nguyễn Thị Kiêm :
" Đến đây có lẽ là thời kỳ giải quyết. Nào là bài " Tình già " của ông Phan Khôi, " Trên đường đời " của ông Lưu Trọng Lư, " Trên con đường cũ " của ông Hoàng Xuân Mộng vân vân... Lại cô Nguyễn Thị Kiêm là một nhà tân nữ lưu, sốt sắng đứng lên diễn thuyết tại nhà hội Khuyến học để bàn về lối thơ mới ; thì thật là hay lắùm, tốt lắm.
" Tôi xin biểu đồng tình cùng cô, và tôi còn trông mong, khuyến khích sau này sẽ còn nhiều cô Nguyễn Thị Kiêm nữa.
" Tôi lấy làm tiếc không đặng lên mục kích và nghe mấy lời của cô phun châu nhả ngọc, song xem trong báo chương thì cũng đủ biết rằng lời của cô là chánh đáng.
" Một đoạn cô bình luận bài thơ " Tình già " của ông Phan Khôi có câu " Bài thơ này ít có người thích. Người ta cho nó là dài lắm và không có nguyên tắc. Thật, về hình thức thì bài Tình già không được gọn... ". Cô cho nó không có nguyên tắc và không được gọn tôi xin đồng ý cùng cô ; còn cô bảo nó là " dài lắm " thì tôi cho rằng trái.
" YÙ kiến phát minh ra thơ mới là để tránh lối thơ Đường vì câu nó quá ngắn không thế nào đạt hết ý. Đã cho đó là phiền phức, rấp toan kiếm một con đường mới mẻ rộng rãi, thênh thang để mặc sức ngòi bút vẫy vùng, tình tứ hoạt bát, mà cô còn câu nệ " dài lắm " tôi e trái chăng ? Thế thì ta cứ theo lối cũ, cứ tám câu bảy chữ, hoặc 5 chữ 3 vần càng tốt hơn, hà tất phải bày ra lối mới ?
" Mong rằng cô suy xét và biết giùm cho, vì chính cô cũng có nói :" Muốn cho tình tứ không vì khuôn khổ mà bị " đẹt " mất, thì rất cần phải có một lối thơ khác, do lề lối nguyên tắc rộng rãi hơn. Thơ này khác hơn lối xưa nên gọi là thơ mới ".
Nhưng L.Đ. mong rằng thơ mới, tuy hình thức có tự do hơn thơ cũ, nhưng cũng phải đặt ra thể cách cho nó đàng hoàng, chứ không thể để cho ai nấy muốn tự do sao cũng được :
" Còn về nguyên tắc một bài thơ thì cần phải có : Những nhà phát minh thơ mới cũng nên biết rằng thơ mới là để cho ta đặng tự do ; song cái tự do ấy có mực thước, có chuẩn bằng, có qui tắc. Lời thơ phải ở trong một cái phạm vi nhứt định. Nếu kẻ làm thơ muốn vuợt ra ngoài lề lối ấy, thì tôi tưởng rằng bài thơ không phải là vận văn mà là " tản văn " là phải.
" Ngoài cái nguyên tắc ấy thơ lại phải có âm hưởng véo von. Khi đọc bài thơ nghe ra như khúc đờn êm ái : khi khoan, khi nhặt, lúc bổng, lúc trầm ; người xem thơ tư tưởng rằng đứng vào cảnh ngày hè hoặc đêm thu, nghe dế ngâm ve hót.
Đó là kể sơ qua phương diện bề ngoài bài thơ lại phải có ý tứ sâu xa, lời lẽ hùng hồn, câu văn chánh đáng. Thơ có hồn mà không có xác thì chưa phải là thơ toàn ; mà có xác lại không có hồn thì khác chi đoá hoa tươi không hương nhụy ; chỉ đáng cho ta vất bỏ đi mà thôi !
" Tôi nói nghe ra hơi lạc đề, nhưng muốn luận cái đặc tính về hình thức, về tinh thần bài thơ ra thể nào, cùng cô Nguyễn nên mới dông dài như thế. Tưởng lại bà con cũng chẳng đem lòng cố chấp. Bây giờ tôi nói lại chánh đề " thơ mới !".
Sau đấy ông L.Đ. đề nghị đặt cho thơ mới một cái tên riêng, chứ chẳng nhẽ cứ gọi nó mãi là thơ mới sao cho tiện. Bây giờ là mới, chứ sau này, giăm bảy chục năm, một trăm năm, cũng cứ gọi là thơ mới thì không khỏi vô nghĩa.
" Thơ mới là gì ? Đã có người nói đến rồi ! Kêu rằng " thơ mới " chỉ là một cái tên kêu đỡ, tạm một lúc vậy thôi. Về sau, trải qua năm nầy tháng kia lối " thơ mới " mà ta đang kêu đây cũng phải cũ. Chừng ấy không lẽ ta cứ gọi hoài " thơ mới ". " Thơ mới " hay là ta cứ để tên đó, rồi dậm thêm như vầy :" Thơ mới mà xưa " chăng ? Vậy thì mỗi lối " thơ mới " buộc phải có một cái tên riêng, để sau này khỏi lẫn lộn.
" Vấn đề đặt tên thơ mới là một vấn đề cần nên bàn đến và giải quyết ngay mỗi khi có một lối " thơ mới " xuất hiện. Song cũng không phải là dễ !
" Ít nữa phải có nhiều người hiệp ý kiến lại đặng công đồng ; kẻ đa người giảm bao giờ tột lẽ mới thôi. Làm như vậy một lối thơ đối với cái tên của nó mới xứng. Khi kêu đến " tên " nó thì người đọc có thể hiểu ngay tính cách riêng của nó ra sao ? Tỷ như thơ " Lục bát " thì hiểu thơ ấy là thơ câu trên 6 chữ câu dưới 8 chữ ; thơ " Song thất lục bát " thì tự hiểu rằng : hai câu 7 chữ, kế đó một câu 6 một câu 8...
" Thấy đó thì đủ biết sự đặt tên cho thơ mới tưởng cũng không phải là vô ích ; nhưng hiện thời nó cũng lắm nỗi khó khăn, vì mỗi lối thơ mới còn phải để cho độc giả lựa chọn cho xác đáng rồi mới công nhận ".
Nhưng bàn thì bàn chứ thực ra chính tác giả cũng không biết đề nghị được cái tên gì cho ổn, thành ra tác giả đành phó cho thời gian thôi :
" Bao giờ lối thơ đã đăng " nhập tịch " rồi, thì chừng đó cái tên của nó cũng có lẽ phải xuất hiện ra.
" Chính tôi đem hiến cho bà con một lối thơ mới, mà bài của tôi cũng là một lối thơ " vô danh ". Suy nghĩ hoài, định cho nó một cái tên nhưng không biết tên chi ?...
" Ấy mới biết " bày ra một lối thơ " có lẽ dễ hơn " đặt tên một lối thơ " nhiều lắm.
" Hiện thời phong trào " thơ mới " lôi cuốn bao nhiêu người có nhiệt huyết với quốc văn đều quan tâm chú ý đến rồi, sắp sửa làm cho cái lâu đài quốc văn cực đẹp thêm lên. Bản đồ (plan) đã vẽ, còn chờ có nhân công thì khởi cất ".
Tác giả L.Đ. chẳng phải phải là người đứng ngoài mà bàn suông. Ông bàn rồi ông cũng hăng hái góp công sức. Ông cũng đã làm một bài thơ mới để góp mặt với làng thơ mới :
" Thấy cái nhà ấy là một cái nhà chung, sau này chúng tôi sẽ trông mong nhờ cậy vào nó nhiều lắm nên không dám làm lơ. Đã biết bao nhiêu người lo tạo tác chúng tôi tuy rằng bất tài, không dám dương lên là " tay thợ " lên tường đấp móng dựng cột, ra kèo chúng tôi làm không nổi, song chẳng lẽ điềm nhiên ư ? Hoặc là để chúng tôi tiếp phụ công vào ôm gạch, chở cát, trộn hồ tưởng cũng nên.
" Một ngày kia cái lầu cao, mát mẻ ấy gầy dựng hoàn thành rồi, chúng tôi bước đến ở mới là không thẹn và tự nghe trong mình vô cùng thơ thới vui vẻ lạ thường.
" Vì vậy chúng tôi cũng xin đem sau đây " Một lối thơ mới trình chính giữa làng thơ " để cho văn nhân, thi bá liệu lượng chấm giùm. Bài thơ ấy như vầy :
NHẮN AIAi chẳng bảo rằng duyên đôi ta là duyên đầm ấm ?
Rày đường xa muôn dặm, ai có biết vì đâu mà nên cuộc bể dâu ?
Kìa trời nước một màu, ai tỏ lời thề hẹn, dành giữ nguyền không vẹn ?
Đã lắm lúc đôi phen, nguyện đá vàng liêm tiết dẫu cuộc đời giải kiết...
Quan san rày vĩnh biệt ngao ngán bấy tình trường lại xẻ gánh chia đường
Nào ! luân lý cang thường thử xem dường bao nã ? Ôi ái tình nước lã !
Danh dự xem bã giả vì thế lực kim tiền, nên lỗi ước phụ nguyền.
Tất thành lại khuôn thiên, âu thả gièo giòng nước, thà phụ lời sau trước.
Miễn sao là mình được phú quí với công danh thì thoả nguyện bình sanh
Ôi ! duyên nợ mỏng mành, nhân tâm thường tráo chác hỡi ơi người quá ác !
Hồng nhan thường phận bạc, nàng biết thế hay chưa, cuộc đời lại nắng mưa.
Nhắn ai khéo lọc lừa, tài tai thường đi cập mấy ai người khỏi gặp ! ?Lưu Trọng Lư ca ngợi thơ mới
Đến ngày 15-9-1933 (P.N.T.V. số 216) Lưu Trọng Lư lại cho đăng lại bài " Một cái khuynh hướng mới về thi ca ", bài mà ông đã viết và cho in trong tập tiểu thuyết " Người sơn nhân " xuất bản vào tháng 5 năm 1933.
Nguyễn Thị Kiêm ca ngợi thơ mới
Ngày 14 tháng 12 năm 1933 (P.N.T.V. số 228), cô Nguyễn Thị Kiêm lại gửi một bức thư ngỏ, tựa đề là " Bức thư gửi cho tất cả ai ưa hay là ghét lối thơ mới ".
Chính bức thư là một bài thơ mới khá dài ký tên Nguyễn Thị Manh Manh, nhưng bài thơ này được giới thiệu bằng những dòng văn xuôi sau đây ký tên Nguyễn Thị Kiêm :
" Tờ phụ truơng văn chương của Đuốc Nhà Nam ngày 3,4-12-33 vừa rồi, có một bài của ông Hoàng Tâm giở ra câu chuyện thơ mới, thơ cũ mà cãi nữa. Trong bài ông ấy có nói đến tôi, nói rằng tôi đã thất trận, đến đỗi phải gởi thơ mới đăng trong báo Phụ Nữ thời đàm ! ông Hoàng Tâm lầm đấy, Nguyễn Thị Kim ở Phụ Nữ thời đàm với Nguyễn Thị Kiêm viết cho Phụ Nữ Tân Văn là hai người, chớ không phải một : Đến chuyện ông cho tôi " rút cờ " lại là một việc sai nữa. Lâu nay trong báo Phụ Nữ Tân Văn không có đăng thơ mới chỉ vì không trống giấy mà thôi. Người ta vẫn gởi thơ mới đến cho chúng tôi nhiều lắm và chính tôi cũng có làm nhiều bài. Vì có nhiều vấn đề đáng quan tâm hơn là thơ nên chúng tôi hoãn lại chưa có dịp đăng lên báo. Nay ông có nhắc đến, sửa soạn ăn mừng cuộc thắng trận của ông, tôi xin soạn một bài thơ mới của tôi viết cách đây hai tháng nay đăng lên báo. Nếu ông có dư thì giờ và báo Đuốc Nhà Nam có thiếu bài, ông cứ cho tôi hay, tôi sẽ đưa mấy bài thơ mới để cho ông đăng lên báo Đuốc Nhà Nam và phê bình luôn thể. "
Đây bài thơ, tức bức thư ngỏ mà Nguyễn Thị Kiêm gửi cho người ưa và người ghét thơ mới. Nó bộc lộ một tâm hồn thiếu nữ đất Lục Tỉnh, thẳng thắn, đột ngột, hăng say :
Phải tôi đấy, Manh Manh, mấy bạn à !
Lâu quá không làm thơ, mấy bạn cũng " nột dạ " ?
Phải, tôi đây Manh Manh, mấy ông à !
Lâu quá không làm thơ, mấy ông lấy làm lạ ?...
Bọn yêu tựu hỏi nhỏ : " E...chỉ sợ ?
Tội nghiệp chớ ! Người thì trẻ nên có hơi khờ "...
Bạn ghét xúm hét to : " Á ! nó sợ !
Đáng khiếp chửa ! Người thì đẹt mà muốn vát cờ "
Nghiêng mình thưa :" Hỡi các bạn quí yêu,
Gì mà sợ ? Nghe tôi nói nhỏ : Manh chưa " xiều "
Khoanh tay gọi :" Hỡi các ông trớ trêu,
Khoan vinh mặt, đứng ngay cho tôi tỏ mấy điều
Thật, lâu nay tôi vắng đến " làng thơ "
Các bạn ơi, không phải phụ ai mà hởn hờ,
Ừ, lâu nay tôi không có làm thơ,
Các ông ơi, không phải sợ ai mà lu lờ.
Bị lôi cuốn trong chiến trường hoạt động.
Há được ngồi không mà sấp " mấy sợi tơ lòng ".
Trước là hành động, thơ không mấy trọng,
Suốt đời nào để nghe quả tim con phập phòng !
Tuy vậy, giữa những lúc đi hăm hở,
Đôi khi tôi giựt mình nhớ đến khách làng thơ.
Ừ, mình nín thinh họ cho nhát dở !
Thôi, lấy " túi văn chương " vét một vài bài thơ.
Bấy lâu đành với tình cảm hởn hờ,
Bây giờ cần tới nó e hồn thơ không tới ?
Nó chơi chớ có gì đâu mà chờ,
Đây một bức thơ, thơ mới ! thơ mới ! thơ mới !
...Rồi tôi thấy biết bao người rũ tới.
Vừa nghe hô thơ mới của Nguyễn Thị Manh Manh
Người ưa với kẻ ghét lối thơ mới,
Ưa đến nghe, ghét đến " bới " làm tôi tái xanh
...Rồi tôi nghe tiếng cười rộ lớn thêm,
Vớ được chuyện, họ cầm bút viết thôi kịch liệt !
Kẻ nghịch la :" Đả đảo ! chẳng để êm ! "
Bạn thích gật đầu nói :" Cái lối thơ hay thiệt "
Kết kuận chuyện mới gần thành chuyện cũ
Các bạn ơi, cãi với nhau thét đã nhàm rồi
Làng thơ, thơ cũ, thơ mới, có đủ :
Thơ xưa là đất cũ, thơ nay tỷ đất bồi ;
Đất trước để yên, đất sau lo xới,
Đất mới thì ít khô khan hơn đất dụng rồi.
Rủ nhau khai phá, cất thêm sở mới,
Nếu thật tình mong cây thơm mọc nhánh đâm chồi.
Bây giờ tôi thử khuyên khách làng thơ :
Đổi lại, ai ưa thơ mới lo tìm chỗ dở,
Ai ghét, ráng kiếm cái hay của thơ
Vậy, chê, khen, có giá trị hoa mới sẽ nở ".