Home » » Vụ Án Thơ Cũ - Thơ Mới- P3

Vụ Án Thơ Cũ - Thơ Mới- P3

Written By kinhtehoc on Thứ Tư, 15 tháng 2, 2012 | 22:47


Vụ Án Thơ Cũ - Thơ Mới

A- Mặt trận bênh thơ mới (2)
Phong Hoá của Tự Lực Văn Đoàn bênh thơ mới mà bênh rất găng, rất tận tình nhưng không đồng ý cho rằng hễ cái gì không phải thơ cũ đều là thơ mới cả. Buổi đầu các ông chưa tỏ thái độ gì với các loại thơ rất dở mà người ta tôn xưng nó là thơ mới. Nhưng từ giữa năm 1935 - có lẽ lúc này thơ mới đã có cơ sở rồi - thì các ông lên tiếng loại bỏ những thơ mà theo ý các ông, không đáng là thơ mới hay cho dù có là thơ mới, thì cũng là thơ mới hạng bét, rất dở chẳng kém gì thơ cũ.
Nhị Linh công kích nhà thơ mới Đỗ Đình Vượng
Ngày 18-1-1935, Phong Hoá số 133, Nhị Linh công kích và phê bình Đỗ ĐìnhVượng bằng một giọng mát mẻ. Ông Vượng diễn thuyết ca ngợi thơ mới, nhung Nhị Linh phàn nàn rằng giá ông đừng đi nghe ông Vượng thì còn biết thơ là gì, và thơ mới ra sao, chứ " lúc tôi ra về không còn hiểu thơ và thơ mới là cái quái gì nữa, tuy diễn giả đã chịu khó tra cứu, khảo sát, lục lọi trong đủ các sách cổ, kim, tây, tầu, An nam, nào của Boileau, nào của Hồ Thích, nào của Nguyễn Du, nào của các thi sĩ cổ điển, lãng mạn ".Ngày 25-3-1935, P.H. số 142 Thạch Lam viết bài " Thơ mới " để công kích một số đông các tờ báo có đăng thơ mới, các sách có xuất bản thơ mới. Theo Thạch Lam, thơ bọn họ chẳng cũ mà cũng chẳng mới. Các bài thơ đó có năm đặc tính sau đây :
" - Cái đặc tính thứ nhất - và cũng lạ lùng nhất - là những bài đó không phải là thơ. 
"  - Cái đặc tính thứ hai là không có vần. 
"  - Cái đặc tính thứ ba là đọc lên nghe sang sảng như những mãnh sắt vụn người ta để trong bao gai mà xóc lên. 
"  - Cái đặc tính thứ tư là không có nghĩa lý gì hết. 
"  - Còn cái đặc tính thứ năm nữa, cái đặc tính này không phải của thơ, mà của người viết ra những thơ đó, cái đặc tính ấy là ...xuẩn. 
" Nếu ta có cái đặc tính cốt yếu ấy, và nếu thơ ta có đủ bốn cái đặc tính như trên thì ta thành ra một người làm thơ mới. 
" Thơ mới trong một vài tờ báo chẳng hạn ".

Thạch Lam chửi thơ mới của Phan Văn Kỳ
Cũng Thạch Lam, ngày 3-5-1935, (P.H. số 147) đã chửi thơ mới của ông Phạm Văn Kỳ. Thạch Lam ví điệu thơ của ông Kỳ như đám cháy nhà." Đấy là một cảnh thương tâm lắm ; những " khổ chủ " thấy thần hoả đến thiêu nhà khóc vang như ri. Còn những tiếng " hì hục " của vạn người không tên đó, có lẽ là tiếng của những người đến chữa cháy...
Của vạn người không hạnh phúc, 
Đợi chết dưới hầm than, 
Của vạn người đang nhui nhúc 
Tù tội của thời gian...
" Kể không có hạnh phúc thì những người bị cháy nhà không có hạnh phúc thật ! Nhất là họ bị đốt cháy trong những cái nhà như những cái " hầm than " nữa.
Rồi câu thơ ngươi, thi sĩ, 
Sẽ bọc những tiếng than, 
Góp thành một tiếng rền rĩ, 
Kêu động cả không gian. 
Một tiếng mạnh như tiếng sấm 
Đớp lửa và động mưa, 
Phát hoả từ trong rừng rậm, 
Lặn đến thành phố xưa...
" Cái tiếng mạnh như sấm đó là tiếng tre nứa nổ đấy. Ta thấy nhà thi sĩ nói đến thành phố : Ô hay, thế thì xe cứu hoả, vòi rồng tưới nước đâu ? A, đây rồi ! Thi sĩ thật là người cẩn thận :
Đố ai ngăn được tiếng ấy, 
Nó tràn với sông xanh. 
Đố ai trừ được tiếng dậy 
Của sức mạnh liên thanh.
" Nghĩa là cái vòi rồng của thành phố không đủ. Phải cần đến tiếng của nhà thi sĩ :
Rồi tiếng của người thi sĩ 
Khi sấm hết rền vang 
Sẽ đọng lại thành tiếng nỉ 
Non...như của khúc đờn. 
Rồi chung quanh ngươi, cả chủng 
Tộc...đều mở xiềng gông 
Rồi Nàng Thơ của ngươi cũng 
Yêu ngươi một cách nồng... 
Thế là thơ hết và cháy cũng hết.
" Chỉ còn lại tro tàn, lửa bụi, một đống than lủng củng những vôi, những gạch, những mảnh tre, mảnh nứa, lá gồi..." Thơ của thi sĩ Phạm Văn Kỳ âu cũng thế. Âm điệu thì réo rắt như tiếng tre nổ, tiếng vách sụp, tiếng nhà cháy.
" Còn vần thơ thì lủng ca lủng củng như một đống than đầy vôi, những gạch, những tre, mảnh nứa, lá gồi...
" Mà đọc xong bài thơ " Ngươi, thi sĩ " của ông ta, ta có cái cảm giác thoát dược một việc nguy nan như khổ chủ thoát tai nạn cháy nhà. "
Lê Ta phê bình thơ mới của Đức Văn
Đến Lê Ta ông đã bênh thơ mới bao nhiêu thì ông lại chửi người làm thơ mới bấy nhiêu. Phải chăng bọn làm thơ mới này không thuộc phe Phong Hoá ? Không dám quyết, nhưng người ta có thể ngờ rằng thế.Ngày 14-12-1934 (P.H. số 128), Lê Ta phê bình để chê bai cuốn Mơ Màng của Đức Văn là thứ thơ " văn kêu và rỗng là món sở thích của những nhà văn mới mà chẳng biết mình nói gì, " khinh miệt tập " Tình em " của Nhuệ Thuỷ có cái " biệt tài là thơ văn ông viết bằng những câu văn và ý tưởng người khác ".
Lê Ta phê bình thơ mới của Nguyễn Vỹ
Về thơ của Nguyễn Vỹ, Lê Ta có hai bài phê bình một bài đăng Phong Hoá số 127 (7-12-1934), và một bài đăng số 129 (28-12-1934).Ở bài thứ nhất, Lê Ta nhắc lại lời phê bình của Nhất Linh về Nguyễn Vỹ,và nhân đấy chửi mát Nguyễn Vỹ :
" Nhà " thi sĩ " Nguyễn Vỹ, tác giả tập thơ đầu là một nhà có nhiều tài, tình cảm nhiều, mà lòng tự ái lại nhiều hơn. Cho nên khi ông ra mắt quốc dân, mắt đầy lệ, cây bút cầm tay, ông không muốn cho ai khinh ông cả. Ấy thế mà Nhất Linh lại bảo tập thơ đầu của người tên là đuôi kia không có ruột ! Muốn khỏi mất lòng " thi sĩ " tôi phải nói chữa hộ Nhất Linh : thơ ông Vỹ có ruột đó chứ, chả tin cứ giở cuốn sách của ông ra mà xem : Chỉ tiếc cái ruột ấy đặc quá, mà khốn một nỗi là người ta lại không biết nó đựng những cái gì ! "
Sang đến bài thứ hai, Lê Ta phũ phàng với Nguyễn Vỹ hơn, đã ví thơ Nguyễn Vỹ như thơ của con sen, thơ của vú già :
" Ông Nguyễn Vỹ là một nhà học rộng. Bàn về thơ ca, ông đã cho chúng ta biết nhiều điều mới lạ : ông hiểu rõ hết được các âm điệu thơ, khuôn phép thơ, mỹ thuật của thơ, tuy ông không hiểu thơ là cái gì, và tuy ông thấy mình là thi sĩ.
" Ông lại khéo nói nữa. Khéo nói lắm, khéo nói quá ! Ông bênh vực ông một cách rất có duyên, rất chu đáo, mà ông phản đối ông lại chu đáo gấp đôi. " Tập thơ đầu " của ông là một tập thơ có khuynh hướng về cải cách, nhưng người làm " Tập thơ đầu " lại sợ cải cách, hay cải cách bằng lối riêng của ông. Ông bỏ cái gông cùm biền ngẫu với phép hạn chế phá, thừa, luận, kết của luật thơ Tàu, để mang cái gông cùm mới của luật thơ Tây.
" Thơ của ông Vỹ thiếu cái chi chi kia, chứ " chân " (pieds) thì đủ lắm. Xin đọc thử ít câu sau này :
Những cặp mắt xinh đẹp, mà ta thấy thoáng qua 
Ban ngày, lúc ta thủng thỉnh đi trên đường phố 
Bây giờ một mình ta trằn trọc trong đêm tối 
(Lối thơ 10 chân) 
. . . . . . . 
Hai bàn chân linh thiêng ấy, những ngày rằm và ngày hội 
Tôi đã được nhìn rất cảm động những trẻ mồ côi nhỏ 
Những bà già và những cô thiếu nữ xinh đẹp, ngây thơ 
Hôn hít hai bàn chân Thánh hoặc lấy tay vuốt ve, sờ 
Hay là với khăn mùi soa, vạt áo, miếng nhung, miếng vóc 
Mà họ áp hôn vào môi, hoặc đưa lên đầu tóc 
(Lối thơ 12 chân)
" Soi đến kính hiển vi cũng không thấy thiếu một chân nào. Thơ ông quả thực không phải thơ quê. Nhưng quả thực là ngô nghê." Đem so sánh thơ ông Vỹ với hai bài thơ " Đồng Hồ " của tôi ông không bằng lòng là phải, vì nó không đủ chân, nhưng giá đem so sánh với bài " Son nê " sau này của cô N.T.G. thì hẳn ông ưng ý lắm :
TẶNG VÚ GIÀ CỦA TA
Hỡi vú già của ta ơi ; Hỡi vú già của ta ơi ! 
Vú đến ở hầu nhà ta, may mắn ấy thực bởi trời. 
Vú tuy người chẳng xinh tươi, mà lại cũng không còn trẻ 
Nhưng rất chắc chắn, vững vàng, và vừa nhanh và vừa khỏe. 
Gọi thì dạ, bảo thì vâng chưa hề phải mắng một lời. 
Suốt từ sáng sớm đến chiều, chỉ làm lụng chẳng rong chơi 
Nào việc bếp nước nấu ăn, nào giặt quần áo, nào chẻ 
củi, nào quét dọn nhà cửa, hết việc lớn đến việc bé.
Tôi lấy hết can đảm để đọc đi đọc lại, lúc thì nhẩm thẩm, lúc thì cất giọng ngâm nga, mà buồn thay cho tôi, tôi nghe nó vẫn làm sao ấy." Nhưng đối với tác giả thì nó có nhiều thi vị lắm, nó có một thứ thi vị ngầm, cũng như người đàn bà xấu số ở trong phong dao có duyên thầm vì được chồng yêu quý :
Lỗ mũi em tám gánh lông 
Chồng yêu chồng bảo râu rồng trời cho 
Đêm nằm thì ngáy o o ; 
Chồng yêu chồng bảo ngáy cho vui nhà. 
Đi chợ thì hay ăn quà, 
Chồng yêu chồng bảo về nhà đỡ cơm.
" Ông Vỹ có quyền yêu thơ của ông lắm." Am hiểu âm luật, biết nói đến những chữ trật tự, quy tắc, biết chê sự hỗn độn, hồ đồ, lại biết ghét những cái ngớ ngẩn ngây ngô, mà viết ra những thơ như trên kia, thì viết làm gì ? ".
Ngày 12-1-1935 (P.H. số 132), Lê Ta, trong bài " Cuộc điểm...mấy Nàng Thơ ", đã gọi thơ của Từ Bộ Hứa là " một đứa con xam xám  : Vậy mẫu thân của nó hẳn là một nàng tây đen " ; bảo " Nàng thơ của Nguyễn Vỹ không hay nói tiếng Việt Nam, người cay nghiệt chặt chẽ từng dòng, từng chữ, nên đứa con của nàng không thiếu một chân, một tay nào hết. Nhưng nó phải cái ngẩn ngơ cũng như nàng " ;
Về thơ Đức Văn, Lê Ta viết :
" Ông Đức Văn thì vớ phải con mẹ quê mùa, dở hơi, sống sượng. Chị chàng này chỉ biết có thơ văn như hạng Phạm Công, Cúc Hoa ở miệng bọn hát xẩm. Cũng có khi tâm hồn xúc động, " nàng " cất thứ giọng lệnh vỡ của người nhà quê vùng bể mà ngâm rằng :
Tách nòng hờ hững mấy nòng 
Nửa hương nuống để nạnh nùng bấy nâu
" Bởi vì nàng vừa ngớ ngẩn lại vừa ngọng. "Về thơ của Nhuệ Thuỷ, thì Lê Ta viết :
" Ông Nhuệ Thuỷ thì kết duyên với một chị có họ gần với nàng Đông Thi. Nghĩa là một người xấu và hay bắt chước vẻ đẹp của Tây Thi. Thấy Tây Thi nhăn thì nàng cũng nhăn. Nhưng Tây Thi nhăn thì thêm duyên, mà nàng nhăn thì người ta chết khiếp ".
Còn nàng thơ của Lan Sơn thì ôi thôi mỉa mai làm sao !
" Nàng thơ của ông Lan Sơn là một người hay vòi. Tôi thấy lúc nào nàng ta cũng lẽo đẽo đi lải nhải theo sau thi sĩ, tay cầm cái mùi soa ướt đẫm, mặt thì mếu xếch mếu xác. Chẳng biết có bị thi sĩ bạt tai cho cái nào không ".
Đến nàng thơ của Huy Thông thì theo Lê Ta nó thuộc vào loại " tăng gia sản xuất " :
" Nàng thơ của Huy Thông là một nàng thơ có nhiều tình cảm, nhiều tư tưởng hay. Nàng lại là người " mắn " ta sẽ thấy nàng sinh sản được đông đàn. Vậy nàng có thể tự an ủi nàng rằng hỏng đứa này, còn đứa khác.
Nói thế không phải có ý bảo tập " yêu đương " - đứa con đầu lòng của nàng thơ Huy Thông là một tập thơ dở cả. Những ý tưởng mạnh mẽ, những tình tứ không thường, những hình sắc lộng lẫy hay dịu dàng với những vẻ đẹp trong trẻo, ngây thơ, mong manh, tôi thấy đầy dẫy trong tập sách trên một trăm trang giấy tốt.
" Người thiếu niên thi sĩ của tôi biết cảm xúc vì cái vẻ hùng vĩ, mênh mông của bể cả, biết mong gửi lại tiếng lòng " thì thầm lời nước mây kiều diễm " theo tiếng sóng, biết cùng tiếng sóng ca ngợi " lòng kiêu căng không bờ bến " với " nỗi buồn gớm ghê, niềm ngao ngán của một trái tim đau đớn bởi điên cuồng ".
" Huy Thông biết ghi cái vẻ mơ hồ của :
" Ngàn liễu nơi xa trong sương hồng chìm đắm ".
" Biết thổi khúc tiêu êm ái để buồn ca những lời tự tình của người tiêu bất tử thiết tha khuyên nhủ chàng mục đồng.
Những nỗi niềm âu yếm, nồng nàn và lòng yêu đương đằm thắm của một trái tim sớm đắm đuối vì tình, ông Huy Thông biết đem thả vào tiếng rộng rãi của gió trên bể bạc và thu vào trong vỏ hến nhỏ để người yêu nghe.
" Nhưng bao cái hay cái đẹp kia, tiếc thay chỉ là những hạt trai lóng lánh lẫn vào trong đống đá sỏi sù sì. Nếu ví thơ ông là bát chè thì người ăn chè là chúng ta đến thành móm hết ".
Nhưng cách đấy năm tháng, tức đến 24-5-1935, nơi Phong Hoá số 150, Lê Ta lại có một bài phê bình thơ mới của Huy Thông. Lần này, tuy có còn chê mát Huy Thông, nhưng Lê Ta đã dành nhiều chân tình cho Huy Thông. Phải chăng Huy Thông đã cộng tác với Phong Hoá. Đây lời Lê Ta :
" Gớm ! Làm gì mà ầm ĩ lên thế nhỉ ? Truyện tình tự là truyện kín đáo mới phải chứ, là những truyện một người yêu nói cho một người yêu nghe.
" Nói ở phòng riêng, bên bờ nước, ở nơi âm u, nơi tăm tối hay trong ánh trăng khuya.
" Nói bằng cái giọng nỉ non, êm ấm, dịu dàng hay khê nặc, hay khàn khàn như ống bơ rỉ, hay nặng nề như tiếng vịt đực, hay ồm ộp như tiếng ễnh ương...
" Nhưng mà người ta nói nhỏ.
" Nói nhỏ để cho những lời ở cái miệng đa tình lọt được vào cái tai đa tình,
" Thế thôi ! Chứ người ta không gào tướng lên cho bất cứ hòn đá nào với bất kỳ một " nhân vật " nào cũng nghe thấy được.
" Ông bạn Suối Đào của tôi lại không nghĩ thế.
" Bởi ông là suối. Là suối, nên ông róc rách, kể lại hết cả các tiếng cây, tiếng gió, điều hay truyện dở, và thiên tình sử rất đáng cảm động của cô Tần Ngọc với ông Huy Thông. Ông Huy Thông, " nhà thi sĩ đã bao nhiêu người biết tiếng và mến tài... ", ông Huy Thông mới 17 tuổi đã đổ tú tài triết học. Có lẽ từ xưa đến nay chưa từng thấy ai thông minh đến bực ấy ", ông Huy Thông là một nhà đẹp trai và " có vẻ một nhà thông thái với trán rộng và mái tóc bờm sơm ".
" Đó là lời trong bức thư cô Tần Ngọc mà cái suối bép xép kia một hôm đã nghe thấy. Rồi bây giờ đi học lại cho chúng ta cùng nghe (Trong Văn Học tạp chí đổi mới số 1).
" Suối Đào lại cho chúng ta nghe những lời tha thiết hơn, chân thật hơn trong những bức tình thư nồng nàn của một vị nữ lang mới mẻ vô cùng - là cô Tần Ngọc - Cô yêu ông Huy Thông lắm. Cô muốn gặp ông Huy Thông sau buổi chiếu bóng ở Palace lắm. Cô muốn cho ông Huy Thông không " lọ " lắm. Cô cũng muốn cho ông Huy Thông " làm mấy bài thơ đăng ở báo Phong Hoá để tặng " cô lắm...Trời ! Biết bao nhiêu lời cảm động, làm tê tái lòng ông Huy Thông đẹp trai lắm của tôi !
" Cả một truyện tình của một tài tử với một giai nhân. Một truyện tình riêng, nghĩa là chẳng có ích gì cho ai hết thảy.
" Vậy mà Suối Đào kể lại tường tận, rất chu đáo, rất có duyên nữa. Người thóc mách đến thế là cùng.
" Có lẽ là vì Suối Đào quá yêu Huy Thông nên không hề biết gì là giữ gìn, là dè dặt nữa. Ông này quá yêu ông nọ và muốn quảng cáo cho sự đẹp trai và sự... " đa tình " của tác giả tập " Yêu đương ". Có biết đâu rằng truyện thóc mách của Suối Đào sẽ làm cho ông Huy Thông và cô Tần Ngọc không bằng lòng.
" Tôi biết ông Huy Thông là người rất khiêm tốn không bao giờ ưa người ta nói đến tài của ông lắm, hay có ai nói thì không bao giờ ông đem khoe ai...Ông Huy Thông phải đâu là người chuộng sự phô trương trên mặt báo. Không, người thi sĩ của tôi ưa ca trong lầu vắng, và chỉ muốn để cho thiên hạ thấy có khúc nhạc réo rắt của mình thôi.
" Cô Tần Ngọc cũng vậy. Cô không muốn cho ai biết truyện riêng của cô. Tình yêu đối với cô là thứ tình kín đáo, mầu nhiệm. Cô yêu ông Huy Thông vì Huy Thông " đẹp trai có tài " chứ có phải vì để được người ta làm thơ tặng cô trên báo đâu. Khi cô xúi ông Huy Thông rằng :" Số Phong Hoá sau thế nào cũng có một bài thơ tặng tôi (cô Tần Ngọc) đấy " có phải là vì hiếu danh đâu ? Đó chỉ là một tấm tình yêu thiết tha, chân thực, nồng nàn và kín đáo...nhất là kín đáo.
" Ông Suối Đào thực không biết ý tứ một chút nào hết. Những điều kín đáo như thế mà đem nói toạc cả ra !
" Làm như ông Huy Thông cũng muốn đem việc riêng của ông ra công bố.
" Làm như ông Huy Thông đã thấy mình bất tử và thấy thiên tình sử kia đáng lưu lại hậu thế.
" Làm như ông Huy Thông mong mỏi cho người ta ca tụng cái tài thi sĩ, cái tài học, cái đẹp như thần tiên...
" Ông Huy Thông của tôi đọc bài của Suối Đào chắc bây giờ đang nổi giận ".
Cuộc cách mạng về thơ đã bùng ra ở Phụ Nữ Tân Văn với bài " Một lối thơ mới trình chánh giữa làng thơ " ngày 10-3-1932, Phụ Nữ Tân Văn số 122.
Sau đó im bặt cho đến số 153 ra vào tháng 6 năm 1932, Lưu Trọng Lư, dưới tên giả cô Liên Hương, mới lên tiếng hưởng ứng Phan Khôi. Rồi hình như viên đá thứ hai của cô Liên Hương ấy cũng không gây được tiếng động nào trên cái hồ văn học Phụ Nữ. Tờ báo đầu tiên hưởng ứng nồng nhiệt là Phong Hoá của Tự Lực Văn Đoàn, chứ không phải báo Phụ Nữ Tân Văn của Phan Khôi, vì suốt năm 1932 Phụ Nữ Tân Văn không có một bài nào đề cập thêm về vấn đề thơ mới. Chưa hiểu nửa năm đầu 1933 thế nào, vì các thư viện mà tôi tra cứu thì thiếu những số từ Janvier 1933 đến Juin 1933.
An Điểm phê bình thơ mới trên Phụ Nữ Tân Văn
Nhưng từ Juillet 1933, thì trên Phụ Nữ Tân Văn thấy có nhiều bài đề cập đến thơ mới.Ngày 6-7-1933 (P.N.T.V. số 207) An Điễm, viết bài " Lối thơ mới ". Theo An Điễm thì trên Phụ Nữ Tân Văn đã có phong trào thơ mới rồi và nó đã ảnh hưởng mạnh đến văn giới cả trong và ngoài Phụ Nữ Tân Văn :
" Thiệt, " lối thơ mới " là một cái khuynh hướng đương phát triển trong văn giới Annam.
" Không những là thơ lối " Manh Manh " đăng ở P.N.T.V. được nhiều độc giả hiểu ý nghĩa, tình tứ, mà hoan nghênh ; và nhiều thiếu niên thi sĩ bắt đầu bỏ thiên kiến mà sấn bước vào con đường mới lạ, đặt cảm tình tư tưởng vào khuôn mới, khác hẳn phạm vi Đường thi.
" Hình như nhiều giới thi sĩ khác ở ngoài cơ quan PNTV cũng hưởng ứng mà dạn dĩ đặt cho thi cảm của mình vào khuôn mới, khác nào thi nhau mà thách sự mai mỉa của hủ tục ".
Sau đó, An Điễm tuyên bố P.N.T.V. muốn giữ vai trò lãnh đạo phong trào thơ mới :
" Phụ Nữ Tân Văn muốn làm một cơ quan tiền quân cho nên trong sự sửa đổi khuôn khổ của thơ ta, cũng như trong mọi vấn đề kinh tế xã hội, thoát ra ngoài thiên kiến, mà dạn dĩ gọi bạn làm thơ đi vào con đường mới � con đường mới hợp với sự sanh tồn mới.
" Khuynh hướng trong vài giới thi sĩ xứ ta đã thay đổi, thế là bạn làm thơ không phải lãnh đạm đối với kẻ thanh niên thi sĩ của báo Phụ Nữ Tân Văn.
" Ước gì các bạn sẽ tiến mau cho đến ngày đánh vỡ được thành trì giam hãm làm sỉ hổ tình tứ của nhà mỹ thuật là luật nhà Đường ; " hồn thơ " trong xứ ta sẽ có cơ tới gần cái thiệt tế hơn " .
Thạch Lam phê bình thơ mới của Hồ Văn Hảo
Ngày 20-7-1933, P.N.T.V. số 208, Thạch Lam, trong bài " Lối thơ mới " đã giới thiệu bài thơ " Con nhà thất nghiệp " của Hồ Văn Hảo :" Thanh niên thi sĩ Hồ Văn Hảo ra mắt bạn đọc báo lần này là lần thứ hai. Hai lần thách sự mỉa mai của hủ tục, sự áp chế của kỷ luật nhà Đường ; hai lần tỏ ra một sự tiến bộ lớn.
" Lần đầu trong " P.N. " kỳ số 205, ra ngày 22 Juin vừa rồi thi sĩ Hồ " Tự tình với trăng ".
. . . . .
" Hôm nay xem bài thơ sau này, các bạn sẽ có dịp cùng chúng tôi nhận một sự tiến bộ lớn ".
CON NHÀ THẤT NGHIỆP
" Ngọn đèn leo lét, 
Xác xơ một nóc nhà tranh ; 
Trên chiếu tan tành, 
Một trẻ thơ nằm im, xanh mét... 
. . . . . . . . . 
Ngoài, trời mưa xào xạt ; 
Gió tạt 
Vào, vách thưa 
Mấy hạt mưa 
Mảnh mùng tơi tan tác... 
. . . . . . . . . 
Lạnh lùng đứa bé 
" Cựa mình, cất tiếng ho rang, 
Người mẹ vội vàng 
Vuốt ve rằng :" nín đi con nhé ! 
. . . . . . . . . 
Cha con gần về tới, 
Con ôi, 
Nín đi nào ! " 
Dạ như bầu, 
Miệng cười, hàng lệ xối 
Cánh cửa tre từ từ mở 
. . . . . . . . . 
Một luồng gió lạnh chen vô. 
Đèn vụt tắt ; tối mò... 
Ai đó ? 
Ai ? Mình về đây... 
. . . . . . . . . 
Chút nữa đã bị còng ; 
Mới chun vào, họ la : ăn trộm ! 
Nếu chân không chạy sớm, 
Mặt vợ con còn thấy chi mong ! 
. . . . . . . . . 
Thôi ! bây giờ tiền đâu mua thuốc 
Cho con ; chết nỗi đi Trời ! 
Túng quá mới ra nghề nhơ nhuốc. 
Chắc mai đây nhịn đói lắm, mình ơi ! 
Hồi làm cu li, 
Đến mua, tiệm còn bán chịu ; 
Nay sở đã đuổi ra, thì 
Một đồng điếu 
Họ cũng bảo : đi ! 
. . . . . . . . . 
Âm thầm, vợ đốt đèn dầu 
Ra chiều buồn bã. 
Chồng quên lạnh dạ. 
Ngồi thở ra, chắt lưỡi lắc đầu. 
. . . . . . . . . 
Ngoài, vẫn mưa xào xạt 
Trong, đứa bé ho rang... 
Ngọn đèn tàn 
Hết dầu nên lu lạt... " 
. . . . . . . . .
Đó là một trong những bài thơ mới của khoảng giữa năm 1933 nghĩa là một năm sau bài Tình Già (10-3-1932).
Cô Nguyễn Thị Kiêm bênh thơ mới
Thơ mới tuy phát xuất từ Nam Kỳ với Phan Khôi, là người Trung, nhưng dư luận học giới Nam kỳ lúc ấy cũng phân tán lắm. Nguyễn Văn Hanh phản đối chống thơ mới bao nhiêu thì cô Nguyễn Thị Kiêm, bút hiệu Nguyễn Thị Manh Manh sốt sắng bênh vực thơ mới bấy nhiêu. Ngày 26 Juillet 1933, cô  Nguyễn Thị Kiêm diễn thuyết bênh vực thơ mới tại hội Khuyến học Saigon. Theo Phụ Nữ Tân Văn số 211 ra ngày 10-8-1933, số đăng bài diễn thuyết của cô Nguyễn Thị Kiêm thì cô Kiêm nói truyện lâu trong tiếng rưỡi đồng hồ " mà vì ứng khẩu mà diễn " cho nên báo Phụ Nữ Tân Văn chỉ thuật lại được những đoạn cốt yếu.Vì bài diễn thuyết này gây xúc động mạnh trong thi giới miền Nam, nên ta cần biết qua về bài diễn văn này. Đây các bạn nghe cô Nguyễn Thị Kiêm nói truyện về thơ mới :
" Trước khi nói về vấn đề thơ mới tôi xin thử giải thơ là gì. Thơ là một danh từ để chỉ chung các vận văn. Làm thơ là gì ? Làm thơ tức là lựa một vận văn trong các thứ vận văn, hay là đặt ra một vận văn để phô tả tánh tình, ý tưởng của mình, những quan niệm của mình đối với sự đời, với vũ trụ, những cảnh vật, những hiện tượng của sự sống.
" Thi sĩ An nam hồi nào tới bây giờ thường dùng ba lối thơ : thơ Đường luật ; lục bát ; song thất lục bát. Không kể thơ Đường luật, là thơ của người Tàu, ta chỉ có hai lối thơ sau, còn bao nhiêu lối khác chỉ cho chung về điệu ca (như hát sẩm, hát nhà trò vân vân...). Phần nhiều thơ Đường luật là thơ tả tình cảm về thân thế của tác giả, còn thơ lục bát và song thất lục bát thì hay thiên về lối tả cảnh, thuật truyện (Style narratif).
" Thơ Đường luật là một lối thơ rất bó buộc về từng câu từng chữ, chặt chịa về luật bình trắc, về phép đối câu, đối chữ. Vì khuôn khổ luật phép phiền phức nên người làm thơ Đường luật phải ở trong một phạm vi eo hẹp lúng túng, hễ cảm hứng ra bài nào thì câu văn như nhái lại mấy trăm bài khác ; còn ý tưởng thì dường như đã có nhiều người " phát minh " ra trước rồi. Bằng muốn bỏ hết mấy " sáo cũ ", diễn những tư tưởng mới mẻ thì không trúng khuôn khổ. Ta có thể nói rằng thơ Đường luật không dùng được nữa, vì bao nhiêu cái đề hay, bao nhiêu cái ý tưởng sâu, đều đã có một hạng thi sĩ tài đời xưa, phô tả hết rồi, người sau đây vì cái vòng niêm luật ấy, phải lập lại câu cũ ý xưa mà thôi, thành ra lời văn không thích hạp với sự đời bây giờ mà ý tưởng thì không tả ra hết được.
" Hai lối sau, lục bát và song thất lục bát thì giản dị hơn : cách đặt câu định vần cũng không cần phải đối, phải hạn câu. Tuy vậy, về nội dung của nó, ý tưởng ít bị khép hơn thơ Đường luật, song cái hình thức cũng còn ép ta phải lập những sáo cũ.
" Muốn cho tình tứ không vì khuôn khổ mà bị " đẹt " mất thì rất cần phải có một lối thơ khác, do lề lối nguyên tắc rộng rãi hơn. Thơ này khác hơn lối xưa nên gọi là thơ mới.
" Năm ngoái, trong báo Phụ Nữ Tân Văn, ông Phan Khôi " trình trong làng thơ " một lối thơ mới, nhưng ông cũng kể rằng, mười năm trước, có một thiếu niên thi sĩ ở Hà Nội có sáng kiến này đầu nhứt. Chưa thấy được bài thơ mới đầu nhứt, tôi chỉ đọc bài thơ " Tình già " của ông Phan Khôi.
" Hai mươi bốn năm xưa, một đêm vừa gió lại vừa mưa, dưới ngọn đèn mờ, trong gian nhà nhỏ, hai cái đầu xanh kề nhau than thở vv... "
" Bài thơ này ít người thích. Người ta cho nó là dài lắm và không có nguyên tắc. Thật, về hình thức thì bài
" Tình già " không được gọn, nhưng về nội dung, tình tứ giãi ra một cách rõ ràng, dễ hiểu mà thật thà. Chỉ đọc qua là nghe khác hẳn lối thơ xưa, có vẻ thiết thực và cảm hoá được người đọc. Chính ông Khôi đã nói đó là một lối thơ làm thử (un essai) cốt đem tình tứ có thật trong tâm hồn mình mà tỏ ra bằng những câu thơ có vận chớ chẳng buộc niêm luật, hạn câu chi hết. "
" Sau ông Phan Khôi chẳng bao lâu, báo Phụ Nữ Tãn Văn có đăng bài hưởng ứng lối thơ mới của cô Liên Hương (Trung Kỳ) và một bài thơ mới của ông Lưu Trọng Lư sau đây :
TRÊN ĐƯỜNG ĐỜI :
Lần bước tiếng gieo thầm, bóng ai kia lủi thủi? 
Lẳng lặng với sương gieo im đìm cùng gió thổi, 
Không tiếng, không tâm, không thưa không hỏi. 
Không hát, không cười, không than, không tủi. 
Lận đận với năm canh, bóng ai kia lủi thủi. 
(P.N.T.V. số 211, 10-8-1933)
" Tôi chắc là bài " Trên đường đời " được nhiều người thích hơn bài " Tình già ". Câu văn bài sau nghe thâm trầm, có nhịp có vần hơn, song nên để ý rằng ý nghĩa của bài này không rõ rệt hơn bài trước mà lại có hơi mờ ám. Nhưng phải biết rằng bài này rút trong một tiểu thuyết (Hai cái thời đại) chớ chẳng phải một bài thơ riêng, vậy muốn hiểu nghĩa của nó phải biết chuyện trong tiểu thuyết hay là hiểu sơ bài ấy nói về khúc nào trong tiểu thuyết. Theo ý tôi là người chưa đọc quyển tiểu thuyết kia, đọc bài " Trên đường đời ", định phỏng rằng tác giả (ông Lưu Trọng Lư) muốn tả thân cô độc, đau khổ, của một người trên đường đời có khác nào một bóng người âm thầm đi một mình trong cái đêm tối. . . . . . .. . . . . . . . .
" Bài " Trên đường đời " không gọi được là một bài vì nó vắn lắm, sau nầy khó làm mẫu để tỏ tư tưởng khác, chỉ kêu là một khúc trong một bài (une strophe). Bây giờ muốn làm ra một bài một điệu thì nên thêm một khúc nữa tương tự mẫu khúc trên rồi hai khúc sau chỉ có bốn câu hay ba câu tùy ý, như vậy hình thức điệu này rõ rệt, chắc chắn, có hơi giống điệu sonnet của thơ Pháp. (Đọc một sonnet Pháp). Đây là tôi bày một ý kiến cho các thi sĩ (une proposition) chớ không phải nói ông Lưu Trọng Lư bắt chước theo thơ Pháp mà các ngài hòng la lên :
" Bỏ thơ Tàu lại vớ thơ Tây !
" Sau bài " Trên đường đời " còn có một lối thơ mới. Tác giả Ký Thanh Tâm (không biết của ông hay là bà nào) gởi đăng báo P.N.T.V.
" Tôi thử đọc bài này, tựa là " Vắng khách thơ ". Hình thức bài này chia rõ ra ba phần : phần đầu : Xuân năm ngoái, phần thứ nhì : ly biệt, phần thứ ba : Xuân năm nay : ý tưởng rõ rệt dễ hiểu. Nên để ý rằng bài nói về sự buồn (ly biệt, nhớ thương) mà câu văn lại gọn gàng, phe phẩy như nhảy nhót (style sautillant) vì tại câu văn vắn, chấm phết nhiều. Thành ra đọc bài " Vắng khách thơ " xong, người đọc sẽ la :" cái bài ngộ nghĩnh quá ! " chớ không có cảm tưởng buồn. Đây, ta thấy rõ cái hình thức bài văn có quan hệ lớn đối với nội dung.
" Đó là ba bài thơ mới đầu hết mà ít có ai để ý tới. Bây giờ tôi sẽ bàn đến thơ mới sau này, của tôi và bạn hưởng ứng như Hồ Văn Hảo, Khắc Minh vân vân là bọn người làm đại náo trong làng thơ.
" Đầu năm ngoái, trong số báo mùa xuân của Phụ Nữ Tân Văn, có bài thơ mới đầu nhứt của tôi, tựa là " Viếng phòng vắng " (Đọc bài thơ) tả những tư tưởng của người khách, đến một phòng xưa, phòng của người bạn yêu đã quá cố. Bài này thấy rõ rệt 7 strophes, mỗi strophe giống nhau, strophe đầu và trong strophe chót hơi đồng chữ mà khác ý. Khúc đầu và khúc chót :
Gió lọt phòng không Gió lọt phòng không 
Tạt hơi đông Tạt hơi đông 
Lạnh như đồng. Lạnh như đồng. 
Ngồi mơ tưởng... Ngồi mơ tưởng.. 
Ngày xưa phất phưởng Tình xưa phất phưởng 
Dấy động tơ lòng Ấm dịu cõi lòng.
" Một khúc có 6 câu. Câu thứ 1 và 5, 6, thì mỗi câu có bốn chữ, câu 2, 3, 4 mỗi câu có 3 chữ. Vận thì câu 1, 2, 3, 6 ăn nhịp với nhau ; 4, 5 vần với nhau. Khúc đầu là nhập đề liền, lại là cái giàn cảnh : Người khách đến viếng phòng vắng, ngồi trong phòng. Cửa phòng mở he hé, luồng gió lạnh tạt vào làm cho khách rúng động ; tưởng ngày xưa phất phưởng ; lòng lại bồi hồi. Khúc thứ 2, 3, 4, 5, 6 tả những tư tưởng của khách. Do theo mấy tư tưởng ấy, ta có thể thấy cái phòng không.
Trải đã mấy trăng 
Hỡi nhện giăng, 
Với rêu lan, 
Tấm vách cũ... 
Từ khi người chủ 
Một giấc lặng trang ?
" Khúc chót là cái kết luận của mấy tư tưởng nọ, là cái tâm hồn (état d'âme) của người khách sau khi ôn truyện xưa nhớ người xưa...Tình xưa phất phưởng, ấm dịu cõi lòng." Sau bài này, tôi cũng theo điệu này mà viết một bài khác, tựa là " Thơ gửi cho em Vân " (đọc và cắt nghĩa bài sau...). Còn đây là là một điệu khác. Điệu này tôi có làm hai bài " Canh tàn " và " Mộng du " (đọc hai bài ấy). Tôi xin chép một bài ra đây để tiện chỉ cách đặt.
CANH TÀN
Em ơi, nghe lóng nghe 
Gió đêm thoáng qua cửa, 
Lụn tàn một góc lửa, 
Lạnh ngắt chốn buồng the ! 
. . . . . 
Gió đêm thoáng qua cửa... 
Não dạ, dế tỉ te. 
Lạnh ngắt chốn buồng the. 
Em ôi, khêu chút lữa, 
. . . . . 
Não dạ, dế tỉ te. 
Gió ru... "  thiết chi nữa ! " 
Em ôi, khêu chút lữa, 
Rồi lại ngồi đây nghe 
. . . . . 
Gió ru... "  thiết chi nữa ! " 
Sụt sùi mấy cành tre... 
Em ngồi đây có nghe. 
Tơ lòng chị đứt nữa ?...
Bài này có 4 khúc, mỗi khúc 4 câu, mỗi câu 5 chữ. Khác là câu thứ 2 và 4 của khúc trước đem vô khúc kế làm ra câu thứ 1 và 3. Tôi ngụ ý đặt điệu này theo bài (... Soir) của thi sĩ Pháp Charles Baudelaire. (Đọc bài ấy) có mấy câu lập đi lập lại. Không phài là túng vận hay là chỉ để êm tai, mà thật là cái dụng ý để tả cái buồn, một cái ý tuởng đang vấn vít theo mãi." Trong một điệu khác, tôi cũng dùng lối lập đi lập lại câu văn, nhưng cái dụng ý lại khác và vấn đề bài cũng khác xa bài này. Ấy là bài " Hai cô thiếu nữ " (đọc bài ấy).
" Bài này cũng có nhiều khúc. Mỗi đoạn có 4 câu, câu 1 và 3 có 7 chữ, câu 2 và 4 có 8 chữ. Câu 1 và 9 là câu lập lại. Cái đề là " Hai cô thiếu nữ " thì bài này chỉ thuật chuyện hai cô thiếu nữ, tác giả không để mình vô trong đó, không nói cảm tưởng của mình, cũng không phê bình câu chuyện ; để cho mặc ý người đọc phán đoán.
Hai cô thiếu nữ đi ra đồng ; 
(Một cô ở chợ một cô ở đồng) 
Hai cô thiếu nữ đi ra đồng, 
Một mảnh lụa hồng, một vóc vải đen.
" Mấy câu lập lại vừa là cái giây liên lạc (lien de transition) trong bài vừa là cái điệu riêng của bài. Có nhiều người cho rằng lập lại câu văn là đỡ kiếm vần và dễ làm lắm, kéo dài bao nhiêu cũng được, làm mấy chục bài như vậy cũng được. Tha hồ cho mấy ông cứ làm ! Nhưng lập lại câu văn như trong bài " Canh tàn " và bài " Hai cô thiếu nữ " mà không khéo lập, cho ăn nhập với câu trên câu dưới, thì mấy câu lập đi lập lại sẽ làm " nghẹt " bài thơ, lui không lui, tới không tới, khác nào người dui là chàng " Vân Tiên cõng mẹ " vô không vô mà ra không ra. Tôi nói như vầy là có một bài thơ ngộ nghĩnh, giọng khôi hài, không biết tác giả là ai, hình như của Cổ Nguyệt Nguyên thì phải.
Vân Tiên cõng mẹ trở ra, 
Đụng lấy cột nhà cõng mẹ trở vô. 
Vân Tiên cõng mẹ trở vô, 
Đụng lấy cột bồ cõng mẹ trở ra. 
Vân Tiên cõng mẹ trở ra... vân vân... "
" Tôi cũng có dùng lối song thất lục bát, rồi xen một lối vận khác vào, để thành ra một lối thơ mới như trong bài " Sa đàn " (đọc và chỉ nguyên tắc bài ấy)." Gần đây người mình có dịch văn Pháp nhiều lắm. Dịch ra bằng lối bát cú, tứ cú cũng có, lối lục bát, song thất lục bát cũng có. Song hai lối sau thường dùng hơn vì theo hình thức, dễ phô tả ý tưởng của tác giả hơn hai lối nọ. Dịch các thơ Tây bằng lối song thất lục bát tôi chẳng nóigì, đến như dịch mấy bài thơ của thi sĩ Pháp Paul Verlaine là một lối thơ đặc biệt quá mà dịch bằng lối lục bát thì không trúng ý tác giả. Ông Verlaine muốn cho thơ đặt làm sao mà đọc nghe như tiếng đờn. Thế nên ông có một lối văn riêng. Nhưng vậy, không phải thơ ấy không có nghĩa. Đọc nghe êm ái mà lại cho người " thấy " được thưởng thức được cảm giác khác.
" Tôi xin đọc hai bài thơ của ông, hai bài này có nhiều dịch giả (đọc bài La lune blanche và Chanson d�automne). Rồi bây giờ tôi đọc mấy dịch văn. Đây là bài " Khúc ca hay " (La bonne chanson hay là La lune blanche) của ông Phạm Đình Nguyên dịch " Khúc ca hay " theo lối lục bát, lời văn hay, ý tưởng trúng, nhưng lối lục bát khác với lối văn riêng của Verlaine quá thành ra không tả hết cái hay. Bây giờ tôi đọc bài " Vầng trăng bạc " của ông Đào Thanh Phước cũng dịch bài La lune blanche mà dịch bằng lối thơ mới. Tôi cũng xin đọc hai bài dịch " Chanson d�automne " của hai ông Đào Thanh Phước và Dương Quang, bằng một lối thơ mới, ý tưởng trúng mà câu văn dồi dào có lẽ đạt được ý muốn của tác giả. Nãy giờ tôi nói đến dịch văn tây là có ý tỏ rằng với lối thơ mới người ta sẽ dịch được nhiều bài hay.
" Trước khi dứt câu chuyện thơ mới, tôi xin bàn đến vài bài thơ mới của thi sĩ Hồ Văn Hảo. Tiếc rằng tôi không đủ thời giờ để nói đến các bạn hưởng ứng khác như Khắc Minh vân vân ... Bài thơ của Hồ Văn Hảo là " Tự tình với trăng " (đọc và chỉ nguyên tắc bài ấy) câu văn thật êm đềm mà rõ rệt, người xem bài này có thể vẽ ra một cảnh.
Màn trời ai vén, 
Để chị Hằng mặt thẹn đỏ tươi tươi 
Một nụ cười, 
Ra chiều xẻn lẻn...
" Tiếc là ý tưởng bài này có hơi cũ, tác giả chê cõi đời là " bể khổ trầm luân " không thiết gì đến đời, muốn lên ở cung trăng cho êm tịnh." Nhưng bài sau thì lại khác hẳn. Ấy là bài " Con nhà thất nghiệp " mà người ta cho là chẳng phải thơ. Chỉ vì chẳng phải than thân trách phận, tả cảnh hoa tàn, nguyệt xế, suối chảy chim ngâm mà là một cảnh thiết thực, một cảnh khổ có thực trong đời : người thất nghiệp.
" Có lẽ trong thơ văn, người cu li ờ trần quần vẫn là một động vật không có gì lãng mạn chăng ? Có lẽ cái bi kịch một người nghèo khổ phải đi ăn trộm " hụt ", chúng ta hay được la " ăn trộm " ! rồi anh chạy trốn, kịch ấy không có gì lạ, đáng để ý chăng ? (đọc bài " Con nhà thất nghiệp " và phê bình).
" Kết luận tôi xin nhắc rằng chúng tôi chẳng hề nói mình đặt ra những " thơ mới " hoàn toàn xuất sắc bao giờ, chỉ mong rằng lối thơ mới được nhiều người dể ý đến và nó có thể trở nên một lối thơ thông dụng để tả một cách thiết thực rõ ràng những thi cảm của các nhà thi sĩ hiện thời. "
Share this article :
 
Support : Creating Website | phuctriethoc | NGUYỄN VĂN PHÚC
Copyright © 2013. NGUYỄN VĂN PHÚC - All Rights Reserved
By Creating Website Published by KINH TẾ HỌC
Proudly powered by NGUYỄN VĂN PHÚC
NGUYỄN VĂN PHÚC : Website | Liên hệ | phuctriethoc@gmail.com
Proudly powered by Triết học kinh tế
Copyright © 2013. NGUYỄN VĂN PHÚC - All Rights Reserved