Lưu Trọng Lư gửi thơ thứ nhất cho Tản ĐàSau khi đã tàn nhẫn phũ phàng phần nào với thơ cũ như vậy ở số 27 (1-12-13934), thì đến số 29 (15-12-1934) trong " Bức thư thứ nhất gửi lên Khê Thượng " cho Tản Đà, Lưu Trọng Lư đã đổi hẳn giọng nói. Đây không còn phải là một người muốn tranh hùng, cãi cọ mà là một " tâm hồn muốn mở ra với một tâm hồn ". Thực vậy, Lưu Trọng Lư đã nói với Tản Đà bằng một ngữ ngôn đầy tình yêu, lòng quý mến, niềm kính trọng một người anh đã ấp ủ lòng người em bé bỏng. Đây lời Lưu Trọng Lư thổ lộ với Tản Đà :" Tản Đà Tiên sinh, " Lần này là lần đầu tiên, tôi được biên thơ cho tiên sinh, nhưng tôi đã được hân hạnh làm quen với tác giả " Khối tình con " từ ngày tóc còn để trái đào. Đối với tôi, Tiên sinh không phải là một người lạ ; đã có lúc Tiên sinh đi bên cạnh tôi, đưa quyền phép thiêng liêng dẫn tôi vào một thế giới thần tiên, mộng ảo, thế giới của Chiêu Quân, của Dương Quý Phi, của Hằng Nga...của Tô nữ...Đã đành rằng lúc mộng thì phải có lúc tỉnh, khi ra khỏi cuộc phiêu lưu kỳ lạ, lại thấy mình quạnh quẽ lạc loài không hiểu mình, không biết người, ngơ ngác lạ lùng giữa một đám người quen biết, nhưng riêng tôi vẫn lấy điều ấy làm thích thú : " Ở trong thế giới này, nếu có điều bất ý, thì tôi đây cũng muốn mơ luôn không muốn tỉnh " cũng muốn đi vào thế giới đẹp đẽ hơn do ta tạo lấy...mà ai ngăn ta điều ấy được ?" Tiên sinh ạ, thì ra chúng ta đã quen nhau tự hồi nào, mà nay mới biên thơ cho nhau, kể cũng đã muộn lắm." Ai bảo rằng ta hay mộng tưởng ? " " Vậy trong bức thơ này và những bức thơ sau, Tiên sinh cho phép tôi gác hết những giọng khách sáo thường tình, nói phăng ra những điều tôi thường bâng khuâng trong trí về một vấn đề quan trọng giữa làng thơ. Tôi muốn nói là vấn đề " Thơ mới " mà thiên hạ bàn tán đã nhiều. Một hôm tôi đưa vấn đề ấy ra chất vấn một ông bạn tôi. Bạn tôi bình sinh là người ngay thẳng, minh bạch rất ghét thái độ mập mờ, thế mà đối với vấn đề này cũng phải trả lời một cách lúng túng :" Thơ mới hay thơ cũ thơ nào hay thì tôi thích và ngâm mãi ". " Câu trả lời lúng túng của ông bạn, sau này tôi xét lại thật chí lý, ví dụ : như tôi đây là một người rất yêu " Thơ mới " mà trong làng " Thơ mới" dầu có sản xuất ra được một bậc thiên tài lỗi lạc tôi không vì bậc thiên tài ấy mà rẻ dúng ông Nguyễn Du thân yêu của tôi, ông Nguyễn Du bất diệt, nhà thi sĩ của muôn đời. " Như vậy, ta thấy Lưu trọng Lư chẳng có ghét, chẳng có chán thơ cũ khi những nhà thơ cũ ấy là Nguyễn Du, khi các vần thơ cũ ấy là " khối tình con " của Tản Đà. Nhưng Lưu trọng Lư đã thỏ thẻ với Tản Đà rằng : thằng em bé bỏng là chàng ấy ngày nay lớn khôn rồi, mái nhà cũ của cha mẹ, tuy nó vẫn yêu, vẫn quí, mà không muốn ở nữa, nó ra đi xây dựng một mái nhà khác để ở riêng với người yêu của nó. Lưu Trọng Lư đã ôn tồn giải thích cho Tản Đà thấy tại sao ông phải làm thơ mới : " Cuộc đời dầu có thay đổi, bao giờ tôi cũng là người ưa ngâm...ngâm mãi mà không biết chán những bài " Chiêu hồn ", bài" Mả cũ... ". Nhưng tôi không thể giấu Tiên sinh cái cảm tình rất nặng của tôi đối với " Thơ mới "...Tiên sinh cho phép tôi nói ra đây cái cớ tại sao tôi làm " Thơ mới " tôi cần phải sáng tạo ra những điệu mới "... Sau đó, với tất cả tình trìu mến, say sưa, Lưu Trọng Lư đã trình diễn lại các tâm trạng mà ông trải qua khi làm một bài thơ mới, từ chỗ nghĩ ra đề tài, đến tình tứ gợi lên ; tới việc tìm chữ, chọn vần, lựa điệu : " Nói đến mình, tôi tưởng là một điều khiếm nhã, nhưng cũng chỉ có mình mình mới hiểu được rõ ràng thôi. " Tôi còn nhớ một buổi sáng về mùa Xuân ở quê nhà, ngồi bên một cánh song, tôi nhìn bóng mặt trời lấp lánh ngoài vườn hoa, giữa những mầu xanh, đỏ, tím...Những hoa hoàng lan, hoa tử vi, cúc trắng, hồng bạch phơn phớt rung rinh trong bầu xuân khí ấm áp, lòng tôi bỗng thấy nhẩy nhót, vui vẻ, phe phẩy. Tôi bèn đặt mình vào cảnh ngộ một người thiếu nữ, bên người tình để hưởng cho hết diễm phúc, làm ra bài thơ đề là " Nhưng một ý nghĩ tàn ác thoạt len vào trong trí tôi : tôi chợt thấy sự mỏng mảnh của tạo vật...Hoa sẽ tàn...Ngày tháng đi ! lòng người thay đổi - Bao nhiêu cái đẹp đẽ, êm đềm, thân yêu ở trên cõi thế rồi sẽ tan tành, đổ bể vào vực thẳm, của thời gian, lòng tôi bỗng xám tốc lại :" Ngày xuân "Năm vừa rồi " Những vật kia kể còn bền chắc, dai dẻo hơn người. " Vật " còn mong trở lại chứ " Người " thật là một đi ngàn thu mất biệt :. . . . " Thể thơ ấy là do tôi tạo ra để cho hợp với sự uyển chuyển ngoắt nghéo của thi tình, thi tứ, rồi tôi gọi nó là " Thơ mới "." Muốn tả cái lòng hớn hở, cái vui phe phẩy, khi thấy ánh trời buổi sáng nhởn nhơ với những đóa hoa mơn mởn, ta cần phải dùng một " thi thể " riêng, gọn gàng, văn vắn, vần trắc cùng ngang với vần bằng....Xuân kia còn trở lại " Cũng như khi tả sự nhanh chóng của thì giờ ta phải đi từ câu dài đến câu vắn hơn để người đọc nhận thấy sự nhanh chóng ấy một cách rõ rệt : " Thưa Tiên sinh, theo ngu ý, cái điệu thơ thật có quan hệ đến bài thơ. Sống ở trong cuộc đời mới mẻ, lòng thấy vài cái tình cảm khác khác, mà muốn diễn tả ra cho hết, không thể không tìm đến những cái điệu rộng rãi, mềm mại hơn. Âu đó cũng là một điều bất đắt dĩ, có ai cho là lập dị, cũng đành cam tâm..." Hôm nay xin tạm biệt Tiên sinh ở chỗ này đã...Trong những thư sau, ta sẽ còn trở lại với " Thơ mới " (T.T.T.B. số 29, 15-12-1934).Rồi ngày lại ngày Lưu Trọng Lư gửi thơ thứ hai cho Tản ĐàTrong bức thư sau đề ngày 19-1-1935 (Tiểu Thuyết Thứ Bảy số 34), Lưu Trọng Lư đã viết cho Tản Đà, phân tích và cực tán bài thơ " Non xanh xanh " của Tản Đà, bài thơ mà Lưu Trọng Lư bảo cũng có thể xếp vào hàng thơ mới." Tản Đà Tiên sinh " Trong bức thư trước, tôi có câu rằng :" Cái điệu thơ thật quan hệ đến ý tứ của bài thơ ". Bức thơ ấy viết xong, thì tờ T.T.T.B. số 26, mang lại một cái chứng thực nữa cho lời tôi đã nói, bài " Non xanh xanh " của Tiên sinh đăng trong số báo ấy, ở mục văn nghệ, ngoài cái giá trị tưởng tượng, nó còn có một cái giá trị ở chỗ khác nữa : ở điệu thơ... " Dương Quí Phi và Chiêu Quân là hai kẻ đa tình có danh tiếng ở trần gian, lúc về tiên giới ngày nhìn xuống cõi trần hoàn xa thẳm, mù tịt là chốn " tình trường " của mình ngày trước thì lòng thương giạt dào những nỗi nhớ nhung, thương tiếc...Cái tình thật là kỳ lạ, mà cũng thật là giét giắt, não nùng, mênh mông ! chẳng ngại gì. Tiên sinh đã tự ý tạo ra một cái điệu riêng cho thích hợp, từ đầu đến cuối bài thơ. Tiên sinh gieo toàn một vần bằng ngõ hầu diễn cho hết cái " giéo giắt ", cái não nùng, cái " mênh mông " của khối tình kỳ lạ ấy !... Trong âm hưởng của ta, những tiếng " bằng " thật là dồi dào, uyển chuyển, " huyền diệu " có thể diễn tả được hết cái buồn của người ta, cái buồn muôn hình vạn trạng... " Giả thử Tiên sinh đem phả cái tình của hai bà tiên vào một điệu thơ rất bó buộc, toàn vần trắc chẳng hạn, thì cái tình ấy sẽ tiêu tan đi mất hoặc trở nên buồn cười. " Sau khi cực tán thơ của Tản Đà, Lưu Trọng Lư đồng ý với Tản Đà rằng có rất nhiều bài thơ mới rất dở, cho nên mặc dầu sốt sắng bênh thơ mới Lưu Trọng Lư cũng chẳng muốn bênh vực những thứ thơ đó. " Trong bài " Phong trào thơ mới " Tiên sinh có câu : "... cũng có xem đến một vài bài thơ mới đăng trên các báo chí nhưng thực chưa lấy làm xứng ý " mà tôi đây cũng lấy làm bất mãn lắm...Tôi là một người yêu " thơ mới " - xin thú thật với Tiên sinh như vậy. Nhưng tôi cứ thành thực tố cáo với làng thơ rằng : phần nhiều những nhà tân thi nhân hình như không hiểu cái âm luật huyền bí, cái cách tiết tấu tự nhiên của tiếng ta... " Đã đành có khi cần phải tạo ra những điệu mới nhưng người nào nghĩ rằng muốn tạo ra thế nào thì tạo, thật là lầm to... Cái " điệu " phải hợp với thi tình, thi tứ, mà cũng cần phải hợp với những luật phép nhất định của thanh âm. Trên các báo chí ở đây tôi thấy nhiều bài " thơ mới " chữ dùng rất sôi nổi vần điệu khó khăn, lại có những câu dài dằng dặc đọc lên nghe lổng chổng nghênh nghênh thế nào ! " Đối với người thường, một câu thơ có thể dài mấy cũng được, nhưng đối với các lỗ tai rất sành sỏi của thi nhân sự ấy rất có hạn định...Trong thể ca trù cũng có lắm câu rất dài, những câu dài ấy là gồm nhiều câu ngắn nương tựa vào nhau, câu thơ mới dễ ngâm... " Hãy bình tĩnh mà xét, ý tứ của những bài " Thơ mới " ấy không phải là không hay, nhưng ý tứ hay mà làm gì, nếu không biết diễn tả ra được một cách dễ dàng, trơn tru, êm ái...Cái " thi tứ " nào luyện bằng một âm hưởng du dương, mới hòng đi tới lòng ta được, bằng không nó sẽ đi lên trí ta và nó chỉ làm cho ta suy nghĩ mà không làm cho ta cảm xúc ". Tuy có đồng ý với Tản Đà mà chê một ít bài thơ mới, Lưu Trọng Lư cũng tha thiết yêu cầu Tản Đà không nên vì những sự sơ xuất đó mà hờ hững ác cảm với thơ mới : " Dầu sao cũng không nên vì đôi điểm lầm lỗi của nhà Tân thi nhân mà hờ hững với " phong trào thơ mới "... Hình thức của thơ phải mới, mới luôn, cho hợp với tâm hồn của ta, cái tâm hồn phiền phức của ta, trong khi tiếp xúc với hoàn cảnh mới, lại càng thêm phiền phức... " Tiên sinh nghĩ sao ? ". Hoài Thanh ca ngợi thơ mới trên T.T.T.B.Đồng thời với Lưu Trọng Lư, Hoài Thanh cũng dùng Tiểu Thuyết Thứ Bảy (số 31, 29-12-1934) để bàn về " Thơ mới ".Theo Hoài Thanh, xét cho cùng ra, không có thơ mới cũng như không có thơ cũ : chỉ có thơ mà thôi, tức là thơ làm ngày xưa và thơ làm ngày nay. Cái hay, cái kiệt tác không lệ thuộc ở thời gian mà ở thiên tài của thi nhân : " Trước hết một câu hỏi, thơ mới có hay không có ? " Nói một cách tuyệt đối văn thơ không có xưa không có nay, vì vô luận xưa nay, hễ ghép chữ thành câu, có ý tứ, có âm điệu, gợi được mỹ cảm cho người nghe, đều gọi là thơ cả. " Ta đọc những câu : Hay những câu của Thế Lữ :Dưới dòng nước chảy trong veo " Mấy đoạn văn này đều gợi được thi cảm trong lòng ta, ta cần gì phải phân biệt xưa nay ".Tuy nhiên nếu bình tâm mà nhận định ta vẫn thấy có một cái gì khác biệt giữa hai thể thơ mà người ta gọi là cũ, là mới : " Tuy vậy cái mục đích của nhà làm thơ, cái công dụng của thơ không khác, mà cách xếp đặt có khác, có bài thơ làm theo lối nhất định ngày xưa, có bài lại không theo niêm luật nào, những bài thơ không theo niêm luật này, quả như ông Tản Đà đã nói, không phải đợi đến vài năm gần đây mới có, song chắc ông Tản Đà cũng phải nhận rằng chỉ trong khoảng vài năm gần đây, lối thơ ấy mới thành phong trào, có địa vị hẳn hoi trên văn đàn nước nhà, phong trào thơ mới ngày nay đã thành sự thực hiển nhiên, " thơ mới " có vậy.Lơ lửng cao đưa tận chân trời xanh ngắt " Thơ mới không những có, mà lại có những tay thi sĩ có tài sản xuất nhiều tác phẩm rất giá trị nữa ". Sau đó, Hoài Thanh trích của Thế Lữ mà Hoài Thanh gọi là những vần thơ kiệt tác : " Những câu thơ của Thế Lữ tôi dẫn trên kia hay những câu sau này của Lưu Trọng Lư có đăng trong một kỳ Tiểu Thuyết Thứ Bảy vừa rồi. " Nếu đem so sánh với các áng văn kiệt tác xưa nay của nước ta, tưởng không có gì phải hổ thẹn. " Ban đêm đi dạo, thoáng nghe mùi thơm của một đoá hoa mà tưởng tượng : " Mới trong thời gian rất ngắn, mà đã có những kết quả tốt đẹp như thế, thì thơ mới còn nhiều hy vọng về sau. "Cũng giống như Lưu Trọng Lư, Hoài Thanh nhìn nhận toàn thể cơ cấu xã hội đang bị cuốn phăng theo trào lưu mới : tất cả cuộc đời dân tộc ta đang đổi mới. Tâm tình ta, tuy có thay đổi chậm hơn cả, nhưng cái lúc nó thay đổi cũng đã đến rồi :...Kiếp trước hoa là thiếu nữ " Nước ta trong mấy ngàn năm sống một cuộc đời chất phác, bình dị, tư tưởng, tình cảm, người ta cũng vì đó mà bình dị, cứ phô diễn theo những qui tắc đời trước cũng đủ. " Nhất đán, phải tiếp xúc với văn minh Âu Tây, bao nhiêu nền tảng kiên cố về lễ nghi, về tôn giáo, về xã hội, về chính trị, đều bị một phen rung rinh, điên đảo, trước mắt, bỗng bầy ra những cảnh rực rỡ nguy nga, cũng như cảnh thảm mục, thương tâm chưa bao giờ thấy. Lúc đầu còn ngơ ngác chưa hiểu ra thế nào dần dần cũng uốn mình theo cuộc sinh hoạt mới để mưu lấy sự sinh tồn, ăn bận theo lối Tây, nhà ở xây theo kiểu Tây, cũng dùng ô tô cũng đi xe lửa, cũng mở thương điếm, công trường, đó là cuộc cải cách về vật chất. " Tiếp đến cuộc cải cách về tư tưởng, người mình cũng có kỹ sư, cũng có bác sĩ, cũng nghiên cứu khoa học, triết học thái tây ". " Song cuộc cải cách chỉ ở trong vòng vật chất và tư tưởng thì chưa được sâu xa, hoàn toàn ; còn phải có một cuộc cải cách về tình cảm nữa. Phong trào thơ mới là tiêu biểu cho cuộc cải cách này vậy, cũng bởi tình cảm là phần cốt yếu trong tâm tính người ta, khó thay đổi hơn lý trí cùng mọi tập quán sinh hoạt hàng ngày, nên mãi hơn nửa thế kỷ tiếp xúc với văn hoá Âu Tây mới thấy có sự thay đổi rõ rệt, sự thay đổi này không phải chỉ riêng vài người mà chung cho rất nhiều người. Các thi sĩ trong làng thơ mới đã được hoan nghênh một cách đặc biệt cũng vì hợp với lòng khát vọng của phần đông. " Người ta thường nói " Nguồn thi cảm ", mà quả thế, thi cảm là một dòng nước vô hình chảy ngầm ngầm từ đời này qua đời khác trong tâm hồn dân tộc. Lúc thường dòng sông phẳng lặng đi theo lối có sẵn từ ngàn xưa, gặp lúc giông tố, năm bẩy nguồn nhóm lại, sức nước quá mạnh, tung bờ, vỡ đê, chảy tràn lan khắp đồng ruộng. Nhưng tràn lan một lúc rồi cũng phải tìm lối đi, nhân đó sẽ có thêm nhiều dòng sông mới, dần dần lại cùng phẳng lặng chảy hoài như xưa cho đến ngày có một cơn giông tố khác. " Tôi muốn dòng sông kia như khuôn phép mà làng thơ mới sẽ tự tạo ra và buộc mình vào trong vì một lối thơ mới tồn tại không thể có qui tắc nhất định. Người có thiên tài thì tự nhiên sẽ lựa được những âm điệu có thể làm rung động lòng người nhưng thiên tài hiếm, lẽ tất nhiên làm cho không phải ai cũng có thiên tài, một người tìm ra được âm điệu hay, năm ngàn người cùng làm theo âm điệu ấy đã thành ra qui tắc rồi đó. " Vậy bây giờ thơ mới đã có qui tắc gì chưa ? Hiển nhiên là chưa có. Không theo phép tắc khuôn khổ xưa thì người ta gọi là mới, hai chữ thơ mới hiện nay chỉ có thể định nghĩa một cách tiêu cực như vậy, mà thôi, lối thơ sau này, câu thơ sẽ dài hay ngắn thể nào, điệu thơ sẽ thể nào, chưa ai biết được, song có điều chắc chắn, là thơ thì phải có vần. Những bài Nguyễn Du, Nietzche của Thái Can trong quyển Những Nét Đan Thanh, ý tứ dồi dào đều là những bài văn xuôi rất hay, nhưng không thể xem là thơ được, thơ phải có vần, phải chú trọng về âm điệu, phải mượn thêm âm điệu trao mối cảm cho người ta nhiều hơn là mượn ý tứ ly kỳ hay sâu sắc ". Sau cùng, cũng giống như Lưu Trọng Lư, Hoài Thanh dầu có trách một ít sơ suốt của làng thơ mới vẫn bênh vực thơ mới, vẫn chịu rằng thơ mới đã có những thiên tài xứng đáng : " Các ông trong làng thơ cũ thường hay có ác cảm với thơ mới đó là lẽ tất nhiên. Họ lại còn nói xấu nữa " mấy anh trẻ con không có nho học, không biết niêm luật thơ là thế nào cũng muốn kiếm một chỗ ngồi giữa đình làng thơ, nên mới phải bày ra lối thơ mới. " Điều này quả là một điều vu oan. Tôi thấy phần nhiều các ông làm thơ mới đều có biết làm thơ cũ, chỉ vì qui tắc thơ cũ quá chật hẹp không đủ phô diễn những mối cảm xúc, những tính tình mới mẻ phức tạp của họ nên họ phải đi tìm những phép tắc rộng rãi hơn đó thôi. Một đôi khi vui vui, họ cũng làm thử lối thơ cũ thì thơ họ hay lắm. Những bài " Học trò đi học đã về " (1), " Hoa ái tình " (2), của Thái Can ; " Túp lều cỏ " " Nhớ lại ngày " (3) của Lưu Trọng Lư ;bài " Năm qua " (4) của Leiba, bài " Than thở của nàng Mỹ Thuận " (5) cùng nhiều bài khác của Thế Lữ đều là những bài thơ có giá trị, cùng với mấy bài này ta có thể kể luôn mấy bài thơ của Đông Hồ : " Bốn cái hôn " (6), " Cô gái xuân ", " Cái hôn lần đầu " (7) tuy ông Đông Hồ không tự nhận mình là một nhà thơ mới. " Có một điều, nguồn thi cảm mới đầu có đi theo những phép tắc xưa vẫn giữ tính cách riêng của nó ; mà những bài thơ tôi vừa kể trên này nếu gọi là thơ mới có lẽ đúng hơn là thơ cũ. " (Tiểu Thuyết Thứ Bảy, số 31, 29-12-1934). |
Home »
NHỮNG VỤ ÁN VĂN CHƯƠNG
» Vụ Án Thơ Cũ - Thơ Mới- P5