Biển Giao Chỉ
Hồ Bạch Thảo
Thứ Sáu 23, Tháng Tư 2010, BTV:
Hai bộ sách trong Tứ khố toàn thư có tên Lãnh ngoại đại đáp (嶺 外 代 答) và Ðông Tây Dương khảo (東 西 洋 考) đề cập nhiều lần đến Giao Chỉ dương tức biển Giao Chỉ.
Lãnh ngoại đại đáp do Chu Khứ Phi soạn. Khứ Phi người đất Vĩnh Gia, đậu Tiến sĩ năm Long Hưng thứ 1 [1193]; từng giữ chức Thông phán tại Quế Lâm, Quảng Tây. Vì làm quan lâu năm tại đây, nên có nhiều bạn hữu hỏi thăm về lịch sử địa lý phong tục vùng này; số người muốn biết rất đông, phải trả lời phát mệt, nên ông viết bộ sách thay thế, sách nhan đề Lãnh ngoại đại đáp có nghĩa là “thay lời giải đáp về vùng đất Lãnh ngoại”, sách gồm 10 quyển.
Qua nhan đề sách, cần phân biệt các từ ngữ “lãnh” và “sơn”. Sơn là núi thuần tuý, lãnh là núi có đường đi qua; ví như tại nước ta thì các núi tại đèo Cả, đèo Ngang đều có thể gọi là lãnh. Tuy nhiên Chu Khứ Phi xét trên thực tế cho rằng Ngũ Lãnh là 5 con đường chính vào đất Lãnh Ngoại, có thể qua núi, có thể không:
Từ đất Ðinh thuộc Phúc Kiến vào Tuần Mai, Quảng Ðông, là đường thứ nhất.
Từ Nam An, Giang Tây vượt qua Ðại Dữu vào Nam Hùng, Quảng Ðông, đường thứ hai.
Từ đất Lâm thuộc Hồ Nam vào đất Liên, đường thứ ba.
Từ đất Ðạo vào đất Hạ, Quảng Tây, là đường thứ tư.
Từ đất Toàn vào Tĩnh Giang, là đường thứ năm.
Còn Lãnh Ngoại tại đâu? Tức lãnh thổ nước Nam Việt thời nhà Triệu; bằng cớ được thấy qua thư của Hán Văn đế gửi cho Nam Việt vương Triệu Ðà vào năm Hán Văn đế thứ nhất [-179], do Sứ thần Lục Giả trao tay cho Triệu Ðà, có đoạn như sau:
“ …Nay lấy đất của Vương không đủ lớn thêm được, lấy của cải của Vương cũng không đủ giàu thêm được, thôi thì từ Ngũ Lãnh trở về nam do Vương tự trị. Tuy nhiên với danh hiệu Ðế mà Vương tự xưng; như vậy có hai Ðế cùng tồn tại, lại không còn sứ giả đi lại, tức là tranh chấp. Nếu tranh giành mà không biết nhường nhịn, bậc quân tử không ai làm như vậy. Mong rằng sẽ cùng Vương bỏ sai lầm cũ, để hai nước thông sứ như cũ. Bởi vậy Trẫm sai Lục Giả mang dụ cáo Vương, Vương hãy nhận lấy, đừng đánh phá thêm nữa… ” (1)
Xét về lai lịch vùng đất này, Chu Khứ Phi xác nhận trước đó đã bị Tần Thủy Hoàng thôn tính [-214]:
“Từ khi Hoàng đế nhà Tần thôn tính thiên hạ, xẻ núi làm đường, lược định Dương Việt, đặt ra Nam Hải, Quế Lâm, Tượng Quận.” (2)
Ðến đời Hán Vũ Đế [-111] xâm lăng nước Nam Việt của nhà Triệu, tiện thể chiếm đảo Hải Nam; chia tất cả thành 9 quận:
“Hán Vũ đế bình Nam Việt chia đất Quế Lâm của nhà Tần thành 2 quận: Uất Lâm và Thượng Ngô; chia Tượng quận thành 3 quận: Giao Chỉ, Cửu Chân và Nhật Nam; [Nam Hải được giữ tên cũ] cắt phần đất thừa của Nam Hải và Tượng quận lập quận Hợp Phố; từ đất Từ Văn vượt biển chiếm đảo Hải Nam chia thành 2 quận: Chu Nhai và Ðam Nhĩ.” (3)
Như chúng ta đã biết 3 quận Giao Chỉ, Cửu Chân, Nhật Nam thuộc đất Ðại Việt cũ, Cửu Chân là Thanh Hóa, Giao Chỉ tại phía bắc Cửu Chân tương đương với Bắc Việt ngày nay, tức từ tỉnh Ninh Bình lên phía bắc cho đến biên giới Trung Quốc; vậy biển Giao Chỉ, hay Giao Chỉ dương còn có thể gọi là biển Bắc Việt.
Chu Khứ Phi xác nhận Giao Chỉ dương, tại phía tây đảo Hải Nam, ông mô tả như sau:
Ba dòng nước xoáy (dịch bản Hán văn ở trên)
“Bốn quận phía tây nam đảo Hải Nam có biển lớn gọi là Giao Chỉ dương. Tại biển có 3 dòng nước xoáy, nước phun lên chía thành 3 dòng; dòng thứ nhất chảy về phía nam dẫn đến biển thuộc các nước Phiên (4); dòng thứ 2 chảy lên phía bắc qua vùng biển Quảng Ðông, Phúc Kiến, Chiết Giang; dòng thứ 3 chảy vào nơi mù mịt không bờ gọi là Ðông Ðại Dương.
Tàu thuyền đi về hướng nam phải qua ba dòng nước xoáy, nếu gặp một chút xíu gió thì vượt được, nếu vào chỗ hiểm đó mà không có gió thuyền không ra được, ắt phải vỡ chìm trong ba dòng nước xoáy. Nghe truyền rằng biển lớn phía đông có Trường Sa Thạch Ðường (5) rộng vạn dặm, nước thủy triều (6) thi triển đẩy vào chốn cửu u (7). Trước kia đã có thuyền bị bão phía tây thổi, trôi dạt đến biển lớn phía đông này, nghe tiếng ba đào chấn nộ hung hãn, trong khoảng khắc gặp gió lớn thuận chiều nên may thoát được.”
Bản đồ Google chỉ vùng biển Giao Chỉ
Phiên âm và chú thích bản đồ Google:
Beihai: Bắc Hải thị, thuộc phủ Liêm Châu đời Thanh.
Changjiang Lizu: Xương Giang Lê tộc, thuộc phủ Quỳnh Châu thời Thanh.
Dongxing: Ðông Hưng, thuộc phủ Liêm Châu thời Thanh.
Fangchenggang: Phòng Thành cảng, thuộc phủ Liêm Châu thời Thanh.
Hepu: huyện Hợp Phố, thuộc phủ Liêm Châu thời Thanh.
Leizhou: phủ Lôi Châu thời Thanh.
Lingao: huyện Lâm Cao thuộc phủ Quỳnh Châu [Hải Nam]
Xuwen: huyện Từ Văn, thuộc phủ Lôi Châu
Nhìn lên bản đồ Google, vị trí biển Giao Chỉ hoặc Giao Chỉ dương, về phía Việt Nam gồm duyên hải các tỉnh Ninh Bình, Nam Ðịnh, Thái Bình, Hải Phòng, Quảng Ninh. Về phía Trung Quốc, Giao Chỉ dương nằm ngoài vùng biển thuộc 3 phủ của Trung Quốc, đó là: Liêm Châu, Lôi Châu, và Quỳnh Châu. Căn cứ bản đồ và những điều mô tả trong Trù hải đồ biên (籌 海 圖 編) của Hồ Tôn Hiến thời Gia Tĩnh triều Minh, và Khâm định Ðại Thanh nhất thống chí (欽 定 大 清 一 統 志) thời Càn Long nhà Thanh, thấy được vùng duyên hải 3 phủ như sau:
Vùng biển phủ Liêm Châu, từ tây sang đông bắt đầu từ biên giới Việt Nam cho đến giáp giới phủ Lôi Châu, có các đơn vị hành chánh hiện nay như Ðông Hưng thị [Dongxing], Phòng Thành cảng [Fangchenggang], Khâm châu thị [Quinzhou], huyện Hợp Phố [Hepu], Bắc Hải thị [Beihai]. Bờ biển dài khoảng 150 km, đảo ngoài xa như Ô Lôi cách bờ biển khoảng 90 km.
Vùng biển phủ Lôi Châu, phía tây giáp với biển Giao Chỉ. Bờ biển dài khoảng 150 km, hiện nay có các đơn vị hành chánh như Lôi Châu thị [Leizhou], huyện Từ Văn [Xuwen]; đảo xa phải kể đến Khốn Châu, cách bờ khoảng 60 km.
Vùng biển phía tây phủ Quỳnh Châu [Hải Nam] giáp với biển Giao Chỉ. Bờ biển dài khoảng 300 km, hiện nay có các đơn vị hành chánh như: huyện Lâm Cao [Lingao], Ðam Châu thị [Danzhou], cảng Xương Hóa [Changjang Lizu], Tam Á thị [Sanya].
Có thể nói rằng ngoại trừ phần lãnh hải 3 phủ nêu trên, phần còn lại là biển Giao Chỉ, bề ngang từ tây sang đông trên 200 km. Nay xét đến đảo Bạch Long Vĩ tại tọa độ địa dư 20.08 bắc 107.44 đông, chỉ cách bờ biển Hải Phòng chưa đến 100 km, ắt phải nằm trong biển Giao Chỉ, tức thuộc lãnh hải Việt Nam.
Hãy nhìn lại bản đồ Trung Quốc và vùng Ðông Nam Á; từ các tỉnh Chiết Giang, Phúc Kiến, và phía bắc Quảng Ðông, thủy trình ngắn nhất đến các nước Ðông Nam Á như Chiêm Thành, Chân Lạp, Trảo Oa (8) vv… phải theo hướng Nam, tức phía Đông đảo Hải Nam. Nhưng trên thực tế họ tránh quần đảo Hoàng Sa, với sự hãi hùng như tác gỉả Lãnh ngoại đại đáp đã mô tả “Nghe truyền rằng biển lớn phía Đông có Trường Sa Thạch Ðường rộng vạn dặm, nước thủy triều thi triển đẩy vào chốn cửu u. Trước kia đã có thuyền bị bão phía Tây thổi, trôi dạt đến biển lớn phía Đông này, nghe tiếng ba đào chấn nộ hung hãn, trong khoảnh khắc gặp gió lớn thuận chiều, nên may thoát được”; nên đã chọn một hải trình xa hơn, hải trình này men theo hướng Đông Tây, luồn qua eo biển giữa phủ Lôi Châu và Hải Nam, đến biển Giao Chỉ, rồi tiếp tục theo hướng Nam đến các nước Ðông Nam Á.
Cũng qua đoạn văn trích dẫn, thấy được sự thiếu đứng đắn của các nhà nghiên cứu Trung Quốc khi đề cập đến yếu tố lịch sử của quần đảo Hoàng Sa. Họ thường nêu tên tác phẩm Lãnh ngoại đại đáp của Chu Khứ Phi, với Trường Sa Thạch Ðường, như là một bằng cớ về đời Tống đã làm chủ đảo này! Nhưng họ không dám nêu trọn văn bản, để biết rằng tác giả Chu Khứ Phi tự nhận rằng chỉ “truyền văn” [nghe nói, rumor] chứ không có bằng chứng; và kẻ thực sự đến được chỗ đó chỉ là người trên chiếc thuyền bị trôi dạt, may mà thoát được thân! Nói một cách khác, từ đời Thanh trở về trước chỉ có một vài thuyền Trung Quốc bị gió trôi dạt, và một ít dân nghèo làm nghề đánh cá mạo hiểm đến quần đảo Hoàng Sa mà thôi.
Như đã đề cập tại phần mở đầu, Ðông Tây dương khảo của Trưởng Biến thời nhà Minh, cũng đề cập nhiều lần đến biển Giao Chỉ. Phần lớn tư liệu trong bộ sách này thiên về thực dụng, cung cấp các tài liệu hàng hành [navigation] cho các thuyền Trung Quốc dưới thời nhà Minh hàng hải đến các nước vùng đông nam Á. Trương Biến cho biết trên mỗi thuyền phải có một châu sư [navigator] căn cứ vào tài liệu nêu trên, để hướng dẫn thuyền đi đúng hải trình. Tài liệu cung cấp 3 yếu tố căn bản, buộc các châu sư phải lưu ý:
Phương hướng: trên thuyền có chỉ nam châm [指 南 針, compass], lẽ dĩ nhiên không dùng độ như ngày nay, nhưng nếu chịu khó tìm hiểu cũng có thể đổi [decode] ra được; ví như hướng đơn Hợi = 330 độ; hướng Nhâm Tý = 352.5 độ.
Khoảng cách: không tính bằng dặm, mà tính bằng canh; một ngày một đêm có 10 canh.
Ðộ sâu: không tính bằng thước mà tính bằng sải tay. Ðây cũng thiên về thực dụng, lúc thủy thủ dòng dây từ thuyền xuống đáy biển, khi kéo dây lên dùng sải tay đo đếm dễ dàng, mỗi sải tay khoảng 1.6 m.
Nhờ tài liệu nêu trên, nên chúng ta biết rằng thương thuyền Trung Quốc, cùng các thuyền chở sứ giả thời nhà Minh, đến vùng đông nam Á, đều chuẩn bị khởi hành tại biển Giao Chỉ, rồi men theo bờ biển An Nam, Chiêm Thành; có thể ghé qua một vài địa điểm thuận tiện như Thanh Hóa, Hội An, Quy Nhơn để buôn bán, tìm nguồn cung cấp về thực phẩm và nước ngọt. Hầu như họ chưa bao giờ ra đến cái gọi là vùng biển lưỡi bò chữ U, mà Trung Quốc hiện nay lớn tiếng rêu rao để đòi chủ quyền! Ðặc biệt các tàu thuyền đi xuống vùng Mã Lai, Singapore, Nam Dương hiện nay, đều ghé đất Linh Sơn thuộc nước Chiêm Thành cũ, một địa điểm tại tỉnh Phú Yên hiện nay, để từ đó ra khỏi mũi Ðại Lãnh gần vũng Rô. Nơi này không còn bị núi che khuất; có thể hướng chỉ nam châm thẳng đến đảo Côn Lôn, đảo có núi cao dễ nhận biết; để từ đó lại dùng chỉ nam châm dẫn đến nước muốn đến. Mọi chi tiết về hàng hành từ Trung Quốc đến các nước Ðông Nam Á xin hẹn trình bày chi tiết qua bài viết khác.
HBT
Chú thích
1. Xem Triệu Ðà và nước Nam Việt, Hồ Bạch Thảo, Diễn đàn, ngày 29/5/2009
2. Lãnh Ngoại Ðại Ðáp, quyển 1, trang 12.
3. Lãnh ngoại đại đáp, quyển 1, trang 12-13.
4. Nước Phiên: Trung Quốc xưa chỉ các nước thuộc vùng đông nam Á, như An Nam, Chiêm Thành, Tiêm La, Tam Phật Tề, v.v.
5. Người Trung Quốc xưa gọi quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam là Vạn Lý Trường Sa Thạch Ðường; vì tại đó có bãi cát rộng, đảo vây biển thành ao nước có đá san hô bao quanh như thạch đường [thạch đường có nghĩa là ao xung quanh bằng đá].
6. Nguyên văn “vĩ lư” chỉ thủy triều; điển lấy từ bài Thu Thủy của Trang Tử như sau: “Thiên hạ chi thủy, mạc bất ư hải, vạn xuyên quy chi, bất tri hà thời chỉ nhi bất doanh; vĩ lư tiết chi, bất tri hà thời dĩ nhi bất hư”; ý nói trong thiên hạ không đâu nhiều nước bằng biển; vạn sông chảy vào không biết đến bao giờ thì dừng, thuỷ triều thi triển không biết lúc nào dứt.
7. Cửu u: nơi tối tăm mờ mịt, như đi vào âm phủ.
8. Trảo Oa: Java.
Nguồn: http://www.diendan.org/phe-binh-nghien-cuu/bien-giao-chi/
Lãnh ngoại đại đáp do Chu Khứ Phi soạn. Khứ Phi người đất Vĩnh Gia, đậu Tiến sĩ năm Long Hưng thứ 1 [1193]; từng giữ chức Thông phán tại Quế Lâm, Quảng Tây. Vì làm quan lâu năm tại đây, nên có nhiều bạn hữu hỏi thăm về lịch sử địa lý phong tục vùng này; số người muốn biết rất đông, phải trả lời phát mệt, nên ông viết bộ sách thay thế, sách nhan đề Lãnh ngoại đại đáp có nghĩa là “thay lời giải đáp về vùng đất Lãnh ngoại”, sách gồm 10 quyển.
Qua nhan đề sách, cần phân biệt các từ ngữ “lãnh” và “sơn”. Sơn là núi thuần tuý, lãnh là núi có đường đi qua; ví như tại nước ta thì các núi tại đèo Cả, đèo Ngang đều có thể gọi là lãnh. Tuy nhiên Chu Khứ Phi xét trên thực tế cho rằng Ngũ Lãnh là 5 con đường chính vào đất Lãnh Ngoại, có thể qua núi, có thể không:
Từ đất Ðinh thuộc Phúc Kiến vào Tuần Mai, Quảng Ðông, là đường thứ nhất.
Từ Nam An, Giang Tây vượt qua Ðại Dữu vào Nam Hùng, Quảng Ðông, đường thứ hai.
Từ đất Lâm thuộc Hồ Nam vào đất Liên, đường thứ ba.
Từ đất Ðạo vào đất Hạ, Quảng Tây, là đường thứ tư.
Từ đất Toàn vào Tĩnh Giang, là đường thứ năm.
Còn Lãnh Ngoại tại đâu? Tức lãnh thổ nước Nam Việt thời nhà Triệu; bằng cớ được thấy qua thư của Hán Văn đế gửi cho Nam Việt vương Triệu Ðà vào năm Hán Văn đế thứ nhất [-179], do Sứ thần Lục Giả trao tay cho Triệu Ðà, có đoạn như sau:
“ …Nay lấy đất của Vương không đủ lớn thêm được, lấy của cải của Vương cũng không đủ giàu thêm được, thôi thì từ Ngũ Lãnh trở về nam do Vương tự trị. Tuy nhiên với danh hiệu Ðế mà Vương tự xưng; như vậy có hai Ðế cùng tồn tại, lại không còn sứ giả đi lại, tức là tranh chấp. Nếu tranh giành mà không biết nhường nhịn, bậc quân tử không ai làm như vậy. Mong rằng sẽ cùng Vương bỏ sai lầm cũ, để hai nước thông sứ như cũ. Bởi vậy Trẫm sai Lục Giả mang dụ cáo Vương, Vương hãy nhận lấy, đừng đánh phá thêm nữa… ” (1)
Xét về lai lịch vùng đất này, Chu Khứ Phi xác nhận trước đó đã bị Tần Thủy Hoàng thôn tính [-214]:
“Từ khi Hoàng đế nhà Tần thôn tính thiên hạ, xẻ núi làm đường, lược định Dương Việt, đặt ra Nam Hải, Quế Lâm, Tượng Quận.” (2)
Ðến đời Hán Vũ Đế [-111] xâm lăng nước Nam Việt của nhà Triệu, tiện thể chiếm đảo Hải Nam; chia tất cả thành 9 quận:
“Hán Vũ đế bình Nam Việt chia đất Quế Lâm của nhà Tần thành 2 quận: Uất Lâm và Thượng Ngô; chia Tượng quận thành 3 quận: Giao Chỉ, Cửu Chân và Nhật Nam; [Nam Hải được giữ tên cũ] cắt phần đất thừa của Nam Hải và Tượng quận lập quận Hợp Phố; từ đất Từ Văn vượt biển chiếm đảo Hải Nam chia thành 2 quận: Chu Nhai và Ðam Nhĩ.” (3)
Như chúng ta đã biết 3 quận Giao Chỉ, Cửu Chân, Nhật Nam thuộc đất Ðại Việt cũ, Cửu Chân là Thanh Hóa, Giao Chỉ tại phía bắc Cửu Chân tương đương với Bắc Việt ngày nay, tức từ tỉnh Ninh Bình lên phía bắc cho đến biên giới Trung Quốc; vậy biển Giao Chỉ, hay Giao Chỉ dương còn có thể gọi là biển Bắc Việt.
Chu Khứ Phi xác nhận Giao Chỉ dương, tại phía tây đảo Hải Nam, ông mô tả như sau:
Ba dòng nước xoáy (dịch bản Hán văn ở trên)
“Bốn quận phía tây nam đảo Hải Nam có biển lớn gọi là Giao Chỉ dương. Tại biển có 3 dòng nước xoáy, nước phun lên chía thành 3 dòng; dòng thứ nhất chảy về phía nam dẫn đến biển thuộc các nước Phiên (4); dòng thứ 2 chảy lên phía bắc qua vùng biển Quảng Ðông, Phúc Kiến, Chiết Giang; dòng thứ 3 chảy vào nơi mù mịt không bờ gọi là Ðông Ðại Dương.
Tàu thuyền đi về hướng nam phải qua ba dòng nước xoáy, nếu gặp một chút xíu gió thì vượt được, nếu vào chỗ hiểm đó mà không có gió thuyền không ra được, ắt phải vỡ chìm trong ba dòng nước xoáy. Nghe truyền rằng biển lớn phía đông có Trường Sa Thạch Ðường (5) rộng vạn dặm, nước thủy triều (6) thi triển đẩy vào chốn cửu u (7). Trước kia đã có thuyền bị bão phía tây thổi, trôi dạt đến biển lớn phía đông này, nghe tiếng ba đào chấn nộ hung hãn, trong khoảng khắc gặp gió lớn thuận chiều nên may thoát được.”
Bản đồ Google chỉ vùng biển Giao Chỉ
Dữ liệu bản đồ ©2011 Google, Mapabc -
Beihai: Bắc Hải thị, thuộc phủ Liêm Châu đời Thanh.
Changjiang Lizu: Xương Giang Lê tộc, thuộc phủ Quỳnh Châu thời Thanh.
Dongxing: Ðông Hưng, thuộc phủ Liêm Châu thời Thanh.
Fangchenggang: Phòng Thành cảng, thuộc phủ Liêm Châu thời Thanh.
Hepu: huyện Hợp Phố, thuộc phủ Liêm Châu thời Thanh.
Leizhou: phủ Lôi Châu thời Thanh.
Lingao: huyện Lâm Cao thuộc phủ Quỳnh Châu [Hải Nam]
Xuwen: huyện Từ Văn, thuộc phủ Lôi Châu
Nhìn lên bản đồ Google, vị trí biển Giao Chỉ hoặc Giao Chỉ dương, về phía Việt Nam gồm duyên hải các tỉnh Ninh Bình, Nam Ðịnh, Thái Bình, Hải Phòng, Quảng Ninh. Về phía Trung Quốc, Giao Chỉ dương nằm ngoài vùng biển thuộc 3 phủ của Trung Quốc, đó là: Liêm Châu, Lôi Châu, và Quỳnh Châu. Căn cứ bản đồ và những điều mô tả trong Trù hải đồ biên (籌 海 圖 編) của Hồ Tôn Hiến thời Gia Tĩnh triều Minh, và Khâm định Ðại Thanh nhất thống chí (欽 定 大 清 一 統 志) thời Càn Long nhà Thanh, thấy được vùng duyên hải 3 phủ như sau:
Vùng biển phủ Liêm Châu, từ tây sang đông bắt đầu từ biên giới Việt Nam cho đến giáp giới phủ Lôi Châu, có các đơn vị hành chánh hiện nay như Ðông Hưng thị [Dongxing], Phòng Thành cảng [Fangchenggang], Khâm châu thị [Quinzhou], huyện Hợp Phố [Hepu], Bắc Hải thị [Beihai]. Bờ biển dài khoảng 150 km, đảo ngoài xa như Ô Lôi cách bờ biển khoảng 90 km.
Vùng biển phủ Lôi Châu, phía tây giáp với biển Giao Chỉ. Bờ biển dài khoảng 150 km, hiện nay có các đơn vị hành chánh như Lôi Châu thị [Leizhou], huyện Từ Văn [Xuwen]; đảo xa phải kể đến Khốn Châu, cách bờ khoảng 60 km.
Vùng biển phía tây phủ Quỳnh Châu [Hải Nam] giáp với biển Giao Chỉ. Bờ biển dài khoảng 300 km, hiện nay có các đơn vị hành chánh như: huyện Lâm Cao [Lingao], Ðam Châu thị [Danzhou], cảng Xương Hóa [Changjang Lizu], Tam Á thị [Sanya].
Có thể nói rằng ngoại trừ phần lãnh hải 3 phủ nêu trên, phần còn lại là biển Giao Chỉ, bề ngang từ tây sang đông trên 200 km. Nay xét đến đảo Bạch Long Vĩ tại tọa độ địa dư 20.08 bắc 107.44 đông, chỉ cách bờ biển Hải Phòng chưa đến 100 km, ắt phải nằm trong biển Giao Chỉ, tức thuộc lãnh hải Việt Nam.
Hãy nhìn lại bản đồ Trung Quốc và vùng Ðông Nam Á; từ các tỉnh Chiết Giang, Phúc Kiến, và phía bắc Quảng Ðông, thủy trình ngắn nhất đến các nước Ðông Nam Á như Chiêm Thành, Chân Lạp, Trảo Oa (8) vv… phải theo hướng Nam, tức phía Đông đảo Hải Nam. Nhưng trên thực tế họ tránh quần đảo Hoàng Sa, với sự hãi hùng như tác gỉả Lãnh ngoại đại đáp đã mô tả “Nghe truyền rằng biển lớn phía Đông có Trường Sa Thạch Ðường rộng vạn dặm, nước thủy triều thi triển đẩy vào chốn cửu u. Trước kia đã có thuyền bị bão phía Tây thổi, trôi dạt đến biển lớn phía Đông này, nghe tiếng ba đào chấn nộ hung hãn, trong khoảnh khắc gặp gió lớn thuận chiều, nên may thoát được”; nên đã chọn một hải trình xa hơn, hải trình này men theo hướng Đông Tây, luồn qua eo biển giữa phủ Lôi Châu và Hải Nam, đến biển Giao Chỉ, rồi tiếp tục theo hướng Nam đến các nước Ðông Nam Á.
Cũng qua đoạn văn trích dẫn, thấy được sự thiếu đứng đắn của các nhà nghiên cứu Trung Quốc khi đề cập đến yếu tố lịch sử của quần đảo Hoàng Sa. Họ thường nêu tên tác phẩm Lãnh ngoại đại đáp của Chu Khứ Phi, với Trường Sa Thạch Ðường, như là một bằng cớ về đời Tống đã làm chủ đảo này! Nhưng họ không dám nêu trọn văn bản, để biết rằng tác giả Chu Khứ Phi tự nhận rằng chỉ “truyền văn” [nghe nói, rumor] chứ không có bằng chứng; và kẻ thực sự đến được chỗ đó chỉ là người trên chiếc thuyền bị trôi dạt, may mà thoát được thân! Nói một cách khác, từ đời Thanh trở về trước chỉ có một vài thuyền Trung Quốc bị gió trôi dạt, và một ít dân nghèo làm nghề đánh cá mạo hiểm đến quần đảo Hoàng Sa mà thôi.
Như đã đề cập tại phần mở đầu, Ðông Tây dương khảo của Trưởng Biến thời nhà Minh, cũng đề cập nhiều lần đến biển Giao Chỉ. Phần lớn tư liệu trong bộ sách này thiên về thực dụng, cung cấp các tài liệu hàng hành [navigation] cho các thuyền Trung Quốc dưới thời nhà Minh hàng hải đến các nước vùng đông nam Á. Trương Biến cho biết trên mỗi thuyền phải có một châu sư [navigator] căn cứ vào tài liệu nêu trên, để hướng dẫn thuyền đi đúng hải trình. Tài liệu cung cấp 3 yếu tố căn bản, buộc các châu sư phải lưu ý:
Phương hướng: trên thuyền có chỉ nam châm [指 南 針, compass], lẽ dĩ nhiên không dùng độ như ngày nay, nhưng nếu chịu khó tìm hiểu cũng có thể đổi [decode] ra được; ví như hướng đơn Hợi = 330 độ; hướng Nhâm Tý = 352.5 độ.
Khoảng cách: không tính bằng dặm, mà tính bằng canh; một ngày một đêm có 10 canh.
Ðộ sâu: không tính bằng thước mà tính bằng sải tay. Ðây cũng thiên về thực dụng, lúc thủy thủ dòng dây từ thuyền xuống đáy biển, khi kéo dây lên dùng sải tay đo đếm dễ dàng, mỗi sải tay khoảng 1.6 m.
Nhờ tài liệu nêu trên, nên chúng ta biết rằng thương thuyền Trung Quốc, cùng các thuyền chở sứ giả thời nhà Minh, đến vùng đông nam Á, đều chuẩn bị khởi hành tại biển Giao Chỉ, rồi men theo bờ biển An Nam, Chiêm Thành; có thể ghé qua một vài địa điểm thuận tiện như Thanh Hóa, Hội An, Quy Nhơn để buôn bán, tìm nguồn cung cấp về thực phẩm và nước ngọt. Hầu như họ chưa bao giờ ra đến cái gọi là vùng biển lưỡi bò chữ U, mà Trung Quốc hiện nay lớn tiếng rêu rao để đòi chủ quyền! Ðặc biệt các tàu thuyền đi xuống vùng Mã Lai, Singapore, Nam Dương hiện nay, đều ghé đất Linh Sơn thuộc nước Chiêm Thành cũ, một địa điểm tại tỉnh Phú Yên hiện nay, để từ đó ra khỏi mũi Ðại Lãnh gần vũng Rô. Nơi này không còn bị núi che khuất; có thể hướng chỉ nam châm thẳng đến đảo Côn Lôn, đảo có núi cao dễ nhận biết; để từ đó lại dùng chỉ nam châm dẫn đến nước muốn đến. Mọi chi tiết về hàng hành từ Trung Quốc đến các nước Ðông Nam Á xin hẹn trình bày chi tiết qua bài viết khác.
HBT
Chú thích
1. Xem Triệu Ðà và nước Nam Việt, Hồ Bạch Thảo, Diễn đàn, ngày 29/5/2009
2. Lãnh Ngoại Ðại Ðáp, quyển 1, trang 12.
3. Lãnh ngoại đại đáp, quyển 1, trang 12-13.
4. Nước Phiên: Trung Quốc xưa chỉ các nước thuộc vùng đông nam Á, như An Nam, Chiêm Thành, Tiêm La, Tam Phật Tề, v.v.
5. Người Trung Quốc xưa gọi quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam là Vạn Lý Trường Sa Thạch Ðường; vì tại đó có bãi cát rộng, đảo vây biển thành ao nước có đá san hô bao quanh như thạch đường [thạch đường có nghĩa là ao xung quanh bằng đá].
6. Nguyên văn “vĩ lư” chỉ thủy triều; điển lấy từ bài Thu Thủy của Trang Tử như sau: “Thiên hạ chi thủy, mạc bất ư hải, vạn xuyên quy chi, bất tri hà thời chỉ nhi bất doanh; vĩ lư tiết chi, bất tri hà thời dĩ nhi bất hư”; ý nói trong thiên hạ không đâu nhiều nước bằng biển; vạn sông chảy vào không biết đến bao giờ thì dừng, thuỷ triều thi triển không biết lúc nào dứt.
7. Cửu u: nơi tối tăm mờ mịt, như đi vào âm phủ.
8. Trảo Oa: Java.
Nguồn: http://www.diendan.org/phe-binh-nghien-cuu/bien-giao-chi/