Home » » NHO GIÁO VÀ THUẬT NGỮ NHO GIA

NHO GIÁO VÀ THUẬT NGỮ NHO GIA

Written By kinhtehoc on Thứ Ba, 27 tháng 9, 2011 | 10:53

Nho giáo là một hệ thống đạo đức-triết lý do Khổng Tử và các học trò phát triển hòng xây dựng một xã hội quân chủ tốt hơn. Từ đời Hán, dưới sức mạnh phong kiến tập quyền, Nho giáo bắt đầu thống trị tư tưởng ở Trung Quốc rồi ảnh hưởng đến Triều Tiên, Nhật Bản, Việt Nam và chỉ suy yếu dần dần khi các môn phái triết học, tôn giáo và khoa học từ phía Tây lan sang.
CÁC GIAI ĐOẠN PHÁT TRIỂN NHO GIÁO
Nho giáo nguyên thủy
Thời Xuân Thu, Khổng Tử đã san định, hiệu đính và giải thích bộ Lục kinh gồm có Kinh Thi, Kinh Thư, Kinh Lễ, Kinh Dịch, Kinh Xuân Thu và Kinh Nhạc. Về sau Kinh Nhạc bị thất lạc nên chỉ còn năm bộ kinh thường được gọi là Ngũ kinh. Sau khi Khổng Tử mất, học trò của ông tập hợp các lời dạy để soạn ra cuốn Luận ngữ. Học trò xuất sắc nhất của Khổng Tử là Tăng Sâm, còn gọi là Tăng Tử, dựa vào lời thầy mà soạn ra sách Đại học. Sau đó, cháu nội của Khổng Tử là Khổng Cấp, còn gọi là Tử Tư viết ra cuốn Trung Dung. Đến thời Chiến Quốc, Mạnh Tử đưa ra các tư tưởng mà sau này học trò của ông chép thành sách Mạnh Tử. Từ Khổng Tử đến Mạnh Tử hình thành nên Nho giáo nguyên thủy, còn gọi là Nho giáo tiền Tần (trước đời Tần), Khổng giáo hay "tư tưởng Khổng-Mạnh".
Hán Nho
Đến đời Hán, hai cuốn Đại Học và Trung Dung được gộp vào sách Lễ Ký. Hán Vũ Đế đưa Nho giáo lên hàng quốc giáo và dùng nó làm công cụ thống nhất đất nước về tư tưởng. Và từ đây, Nho giáo trở thành hệ tư tưởng chính thống bảo vệ chế độ phong kiến Trung Hoa trong suốt hai ngàn năm. Nho giáo thời kỳ này được gọi là Hán Nho. Điểm khác biệt so với Nho giáo nguyên thủy là Hán Nho đề cao quyền lực của giai cấp thống trị. Thiên Tử là con trời, dùng "lễ trị" để che đậy "pháp trị".
Tống Nho
Đến đời Tống, Đại Học, Trung Dung được tách ra khỏi Lễ Ký và cùng với Luận ngữ và Mạnh Tử tạo nên bộ Tứ Thư. Lúc đó, Tứ Thư và Ngũ Kinh là sách gối đầu giường của các nhà Nho. Nho giáo thời kỳ nay được gọi là Tống nho, với các tên tuổi như Chu Hy (thường gọi là Chu Tử), Trình Hạo, Trình Di (sau này vào thế kỷ thứ 16, ở Việt Nam có Nguyễn Bỉnh Khiêm rất giỏi Nho học nên được gọi là "Trạng Trình"). Phương Tây gọi Tống nho là "Tân Khổng giáo". Điểm khác biệt của Tống nho với Nho giáo trước đó là việc bổ sung các yếu tố "tâm linh" (lấy từ Phật giáo) và các yếu tố "siêu hình" (lấy từ Đạo giáo) phục vụ cho việc đào tạo quan lại và cai trị.
Minh Nho
Minh Nho: Nho giáo cải cách với thuyết "tri hành hợp nhất" của Vương Dương Minh.
(Xem thêm phần "Thuật ngữ" ở cuối bài này)

Các sách kinh điển

Các sách kinh điển của Nho giáo đều hình thành từ thời kỳ Nho giáo nguyên thủy. Sách kinh điển gồm hai bộ: Ngũ Kinh và Tứ Thư. Hệ thống kinh điển đó hầu hết viết về xã hội, về những kinh nghiệm lịch sử Trung Hoa, ít viết về tự nhiên. Điều này cho thấy rõ xu hướng biện luận về xã hội, về chính trị, về đạo đức là những tư tưởng cốt lõi của Nho gia.
Ngũ Kinh
1. Kinh Thi: sưu tập các bài thơ dân gian có từ trước Khổng Tử, nói nhiều về tình yêu nam nữ. Khổng Tử san định thành 300 thiên nhằm giáo dục mọi người tình cảm trong sáng lành mạnh và cách thức diễn đạt rõ ràng và trong sáng. Một lần, Khổng Tử hỏi con trai "học Kinh Thi chưa?", người con trả lời "chưa". Khổng Tử nói "Không học Kinh Thi thì không biết nói năng ra sao" (sách Luận ngữ).
2. Kinh Thư: ghi lại các truyền thuyết, biến cố về các đời vua cổ có trước Khổng Tử. Khổng Tử san định lại để các ông vua đời sau nên theo gương các minh quân như Nghiêu, Thuấn chứ đừng tàn bạo như Kiệt, Trụ.
3. Kinh Lễ: ghi chép các lễ nghi thời trước. Khổng Tử hiệu đính lại mong dùng làm phương tiện để duy trì và ổn định trật tự. Khổng Tử nói: "Không học Kinh Lễ thì không biết đi đứng ở đời" (sách Luận ngữ).
4. Kinh Dịch: nói về các tư tưởng triết học của người Trung Hoa cổ đại dựa trên các khái niệm âm dương, bát quái,... Đời Chu, Chu Văn Vương đặt tên và giải thích các quẻ của bát quái gọi là Thoán từ. Chu Công Đán giải thích chi tiết nghĩa của từng hào trong mỗi quẻ gọi là Hào từ. Kinh Dịch thời Chu gọi là Chu Dịch. Khổng Tử giảng giải rộng thêm Hoán từ và Hào từ cho dễ hiểu hơn và gọi là Thoán truyện và Hào truyện.
5. Kinh Xuân Thu: ghi lại các biến cố xảy ra ở nước Lỗ, quê của Khổng Tử. Khổng Tử không chỉ ghi chép như một sử gia mà theo đuổi mục đích trị nước nên ông chọn lọc các sự kiện, ghi kèm các lời bình, sáng tác thêm lời thoại để giáo dục các bậc vua chúa. Ông nói, "Thiên hạ biết đến ta bởi kinh Xuân Thu, thiên hạ trách ta cũng sẽ ở kinh Xuân Thu này". Đây là cuốn kinh Khổng Tử tâm đắc nhất. (Xuân thu có nghĩa là mùa xuân và mùa thu, ý nói những sự việc xảy ra.)
6. Kinh Nhạc: do Khổng tử hiệu đính nhưng về sau bị thất lạc, chỉ còn lại một ít làm thành một thiên trong Kinh Lễ gọi là Nhạc ký. Như vậy từ lục kinh chỉ còn lại ngũ kinh.
Tứ Thư
1. Luận ngữ: ghi lại lời dạy của Khổng Tử do học trò của ông ghi chép lại sau khi ông mất (Luận ngữ = các lời bình luận).
2. Đại học: dạy phép làm người để trở thành bậc quân tử. Sách này do Tăng Sâm, còn gọi là Tăng Tử, học trò xuất sắc nhất của Khổng Tử, dựa trên lời dạy của ông soạn ra (Đại học = sự học lớn).
3. Trung Dung: dạy người ta cách sống dung hòa, không thiên lệch. Sách này do người cháu nội của Khổng Tử là Khổng Cấp, học trò của Tăng Tử, còn gọi là Tử Tư soạn ra (Trung dung = ở giữa, dung hòa).
4. Mạnh Tử: ghi lại lời dạy của Mạnh Tử. Mạnh Tử tên thật là Mạnh Kha, là người tiêu biểu nhất sau Khổng Tử, thuộc dòng Tử Tư, phát triển tư tưởng của Khổng Tử ở thời Chiến Quốc (390-305 trước công nguyên).

Nội dung cơ bản của Nho giáo

Cốt lõi của Nho giáo là Nho gia. Đó là một học thuyết chính trị nhằm tổ chức xã hội. Để tổ chức xã hội có hiệu quả, điều quan trọng nhất là phải đào tạo cho được người cai trị kiểu mẫu - người lý tưởng này gọi là quân tử (quân = kẻ làm vua, quân tử = chỉ tầng lớp trên trong xã hội, phân biệt với "tiểu nhân", những người thấp kém về địa vị xã hội; sau "quân tử" còn chỉ cả phẩm chất đạo đức: những người cao thượng, phẩm chất tốt đẹp, phân biệt với "tiểu nhân" là những người thiếu đạo đức hoặc đạo đức chưa hoàn thiện. Điều này có thể được lí giải bởi đối tượng mà Nho giáo hướng đến trước tiên là những người cầm quyền). Để trở thành người quân tử, con người ta trước hết phải "tự đào tạo", phải "tu thân". Sau khi tu thân xong, người quân tử có bổn phận phải "hành đạo" (Đạo không đơn giản chỉ là đạo lí. Nho gia hình dung cả vũ trụ được cấu thành từ các nhân tố đạo đức, và Đạo ở đây bao chứa cả nguyên lí vận hành chung của vũ trụ, vấn đề là nguyên lí đó là những nguyên lí đạo đức do Nho gia đề xướng (hoặc như họ tự nhận là phát hiện ra) và cần phải tuân theo. Trời giáng mệnh làm vua cho kẻ nào có Đạo, tức là nắm được đạo trời, biết sợ mệnh trời. Đạo vận hành trong vũ trụ khi giáng vào con người sẽ được gọi là Mệnh). Cần phải hiểu cơ sở triết lí của Nho giáo mới nắm được logic phát triển và tồn tại của nó.
Tu thân
Khổng Tử đặt ra một loạt Tam Cương, Ngũ Thường, Tam Tòng, Tứ Đức... để làm chuẩn mực cho mọi sinh hoạt chính trị và an sinh xã hội.
Tam Cương và Ngũ Thường là lẽ đạo đức mà nam giới phải theo. Tam Tòng và Tứ Đức là lẽ đạo đức mà nữ giới phải theo. Khổng Tử cho rằng người trong xã hội giữ được Tam Cương, Ngũ Thường, Tam Tòng, Tứ Đức thì xã hội được an bình.
A. Tam Cương: ba mối quan hệ quân thần (vua tôi), phụ tử (cha con), phu thê (vợ chồng).
1. Quân thần: Trong quan hệ vua tôi, vua thưởng phạt công minh, tôi trung thành một dạ.
2. Cha con: Cha hiền con hiếu. Cha có nghĩa vụ nuổi dạy con cái, con phải hiếu đễ và nuôi dưỡng cha khi cha về già.
3. Vợ chồng: Chồng phải yêu thương và đối xử công bằng với vợ; vợ phải chung thủy tuyệt đối với chồng.
B. Ngũ Thường: Ngũ là năm; Thường là hằng có; Ngũ Thường là năm điều phải hằng có trong khi ở đời, gồm: Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí, Tín.
1. Nhân: Lòng yêu thương đối với muôn loài vạn vật.
2. Nghĩa: Cư xử với mọi người công bình theo lẽ phải.
3. Lễ: Sự tôn trọng, hòa nhã trong khi cư xử với mọi người.
4. Trí: Sự thông biết lý lẽ, phân biệt thiện ác, đúng sai.
5. Tín: Giữ đúng lời, đáng tin cậy.
C. Tam Tòng: Tam là ba; Tòng là theo. Tam tòng là ba điều người phụ nữ phải theo, gồm: "tại gia tòng phụ, xuất giá tòng phu, phu tử tòng tử".
1. Tại gia tòng phụ: nghĩa là, người phụ nữ khi còn ở nhà phải theo cha,
2. Xuất giá tòng phu: lúc lấy chồng phải theo chồng,
3. Phu tử tòng tử: nếu chồng qua đời phải theo con.
D. Tứ Đức: bốn tính nết tốt người phụ nữ phải có, là: Công - Dung - Ngôn - Hạnh.
1. Công: khéo léo trong việc làm.
2. Dung: hòa nhã trong sắc diện.
3. Ngôn: mềm mại trong lời nói.
4. Hạnh: nhu mì trong tính nết.
Người quân tử phải đạt ba điều trong quá trình tu thân:
* Đạt Đạo. Đạo có nghĩa là "con đường", hay "phương cách" ứng xử mà người quân tử phải thực hiện trong cuộc sống. "Đạt đạo trong thiên hạ có năm điều: đạo vua tôi, đạo cha con, đạo vợ chồng, đạo anh em, đạo bạn bè" (sách Trung Dung), tương đương với "quân thần, phụ tử, phu phụ, huynh đệ, bằng hữu". Đó chính là Ngũ thường, hay Ngũ luân[1]. Trong xã hội cách cư xử tốt nhất là "trung dung". Tuy nhiên, đến Hán nho ngũ luân được tập trung lại chỉ còn ba mối quan hệ quan trọng nhất được gọi là Tam thường hay còn gọi là Tam tòng.
* Đạt Đức. Quân tử phải đạt được ba đức: "nhân - trí - dũng". Khổng Tử nói: "Đức của người quân tử có ba mà ta chưa làm được. Người nhân không lo buồn, người trí không nghi ngại, người dũng không sợ hãi" (sách Luận ngữ). Về sau, Mạnh Tử thay "dũng" bằng "lễ, nghĩa" nên ba đức trở thành bốn đức: "nhân, nghĩa, lễ, trí". Hán nho thêm một đức là "tín" nên có tất cả năm đức là: "nhân, nghĩa, lễ, trí, tín". Năm đức này còn gọi là Ngũ thường.
* Biết Thi, Thư, Lễ, Nhạc. Ngoài các tiêu chuẩn về "đạo" và "đức", người quân tử còn phải biết "Thi, Thư, Lễ, Nhạc". Tức là người quân tử còn phải có một vốn văn hóa toàn diện.
Hành đạo
Sau khi tu thân, người quân tử phải hành đạo, tức là phải làm quan, làm chính trị. Nội dung của công việc này được công thức hóa thành "tề gia, trị quốc, bình thiên hạ". Tức là phải hoàn thành những việc nhỏ - tề gia, cho đến lớn - trị quốc, và đạt đến mức cuối cùng là bình thiên hạ (thống nhất thiên hạ). Kim chỉ nam cho mọi hành động của người quân tử trong việc cai trị là hai phương châm:
* Nhân trị. Nhân là tình người, nhân trị là cai trị bằng tình người, là yêu người và coi người như bản thân mình. Khi Trọng Cung hỏi thế nào là nhân thì Khổng Tử nói: "Kỷ sở bất dục, vật thi ư nhân - Điều gì mình không muốn thì đừng làm cho người khác" (sách Luận ngữ). Nhân được coi là điều cao nhất của luân lý, đạo đức, Khổng Tử nói: "Người không có nhân thì lễ mà làm gì? Người không có nhân thì nhạc mà làm gì?" (sách Luận ngữ).
* Chính danh. Chính danh là mỗi sự vật phải được gọi đúng tên của nó, mỗi người phải làm đúng chức phận của mình. "Danh không chính thì lời không thuận, lời không thuận tất việc không thành" (sách Luận ngữ). Khổng tử nói với vua Tề Cảnh Công: "Quân quân, thần thần, phụ phụ, tử tử - Vua ra vua, tôi ra tôi, cha ra cha, con ra con" (sách Luận ngữ).
Đó chính là những điều quan trọng nhất trong các kinh sách của Nho giáo, chúng được tóm gọi lại trong chín chữ: tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ. Và đến lượt mình, chín chữ đó chỉ nhằm phục vụ mục đích cai trị mà thôi.
Quân tử ban đầu có nghĩa là người cai trị, người có đạo đức và biết thi, thư, lễ, nhạc. Tuy nhiên, sau này từ đó còn có thể chỉ những người có đạo đức mà không cần phải có quyền. Ngược lại, những người có quyền mà không có đạo đức thì được gọi là tiểu nhân (như dân thường).

Thuật ngữ

1. Nho giáo: Ở Trung Quốc thuật ngữ này vốn có ý "dĩ Nho học giáo nhân" (以 儒 學 教 人), nhấn mạnh phương diện giáo hoá của học thuyết Nho. Từ cổ đại đến trung đại đều được dùng như vậy. "Giáo" ở đây là "giáo hoá", không tương ứng với "tôn giáo" như trong Phật giáo, Đạo giáo.
Việc xem Nho giáo là một tôn giáo chỉ mới thực sự là vấn đề được học giới thảo luận vào khoảng những năm 1910-1915 (?). Đấy là thời điểm xảy ra phong trào "Khổng giáo hội" do Khang Hữu Vi (Kang You-wei) là người chủ xướng. Phong trào này cho rằng học thuyết của Khổng Tử là một tôn giáo. Nhiều người đã nghĩ như vậy khi tham gia phong trào "chấn hưng Nho giáo" đầu thế kỉ XX. Vào thời điểm ấy có sự xung đột quan điểm về luân lý giữa Đông và Tây. Đa số người Trung Quốc rất tôn sùng Khổng Tử. Những người ủng hộ luân lý Trung Quốc họ cho rằng ở phương Tây có một tôn giáo lớn như "Ki tô giáo" để đi theo, vì vậy nếu không cho Nho giáo là một tôn giáo thì về mặt tình cảm họ cảm thấy có vấn đề với Nho giáo truyền thống. Cuộc tranh luận đó đến nay vẫn chưa kết thúc.
Nho giáo là một thuật ngữ dùng phổ biến nhất ở Việt Nam, nơi không đặt thành vấn đề thảo luận như trên. Trong sự cảm nhận và sử dụng, thuật ngữ này có thể thay thế cho các thuật ngữ "Nho gia", "Nho học". Nghĩa là Nho giáo vừa chỉ "dĩ học giáo nhân" vừa chỉ cái học thuật của Khổng gia (tức Khổng học).
2. Nho gia: Chỉ phương diện học thuyết, học phái, phân biệt với các "gia" khác. Nho gia (Confucianism) theo các nhà nghiên cứu Trung Quốc không bao hàm chỉ nghĩa nhà Nho (Nho sĩ), cho nên ngày nay Nho gia là thuật ngữ phổ biến nhất mà người Trung Quốc sử dụng.
Ở Việt Nam nói đến thuật ngữ này, vừa hiểu tương tự như Nho giáo đồng thời chỉ nhà Nho với tư cách là Nho sĩ.
3. Nho học: học thuyết của Nho gia. Ở Việt Nam, thuật ngữ này được hiểu là học thuật của các nhà Nho, học thuật được thực hiện bởi các nhà Nho, các tác phẩm của nhà Nho được xem là “Nho học”.
4. Nho thuật: chỉ phương diện chính trị thực hành của nhà Nho. Khái niệm này ở Việt Nam và Trung Quốc không có sự sai lệch nhiều.
5. Nho sĩ: chỉ người học tập tri thức Nho học (Confucian, lettré) và tự giác theo những tín điều do Khổng Phu Tử đề ra.
6. Tân Nho gia: giai đoạn bắt đầu từ Hán Nho thì được kể là Tân Nho gia (Neo-Confucianism). Nhưng khái niệm này được dùng nhiều nhất để chỉ Tống Nho.
7. Hiện đại Tân Nho gia: giai đoạn hiện đại của Nho giáo được kể từ đầu thế kỉ 20 trở lại đây. Trong đó giai đoạn gần nhất từ 1980 đến nay được gọi là Đương đại Tân Nho gia (New Confucianism).
8. Khổng giáo: là thuật ngữ bắt đầu xuất hiện ở đầu thế kỉ 20 để chỉ Khổng học về phương diện Tôn giáo, sử dụng tương ứng với thuật ngữ “Nho gia” trong một số trường hợp nhất định
9. Khổng học: chỉ học thuyết gốc của Khổng Phu Tử. Cả hai thuật ngữ Khổng giáo và Khổng học đều khác với Nho giáo và Nho học, bởi vì Khổng giáo và Khổng học là giai đoạn và học thuật Nho giáo nguyên thủy của thời Khổng tử và Mạnh tử (Mencius).
Share this article :
 
Support : Creating Website | phuctriethoc | NGUYỄN VĂN PHÚC
Copyright © 2013. NGUYỄN VĂN PHÚC - All Rights Reserved
By Creating Website Published by KINH TẾ HỌC
Proudly powered by NGUYỄN VĂN PHÚC
NGUYỄN VĂN PHÚC : Website | Liên hệ | phuctriethoc@gmail.com
Proudly powered by Triết học kinh tế
Copyright © 2013. NGUYỄN VĂN PHÚC - All Rights Reserved