Đỗ Hữu Tâm* |
Vào tháng Giêng năm 2009 vừa qua, Viện Nghiên
cứu Giáo dục Đại học (HERI – Higher Education Research Institute) của trường Đại
học California ở Los Angeles (UCLA – University of California, Los Angeles) đã
cho công bố một bản phúc trình, tạm dịch là “Những điểm tiêu biểu về người sinh
viên năm thứ nhất của đại học Mỹ cho học kỳ mùa Thu năm 2008” (The American
Freshman: National Norms for Fall 2008).
Đây là kết quả cuộc khảo sát do Phân khoa
Giáo dục của Đại học UCLA thực hiện với gần 250.000 sinh viên năm thứ nhất hiện
đang học toàn thời gian trong chương trình Cử nhân của 340 đại học khắp nước Mỹ.
Những kết quả trong bản phúc trình đã được điều chỉnh bằng phương pháp thống kê
để phản ánh con số 1.400.000 sinh viên năm thứ nhất trên toàn nước Mỹ nhập học
vào mùa Thu năm 2008. (Tưởng cũng nên biết đây là một bản phúc trình hằng năm
được bắt đầu thực hiện kể từ năm 1966. Trong 4 thập niên vừa qua, tổng cộng hơn
13 triệu sinh viên năm thứ nhất từ 1.700 đại học trên toàn nước Mỹ đã lần lượt
tham dự vào các cuộc khảo sát để đúc kết nên những bản phúc trình này).
Dưới đây là
bài lược dịch và tóm tắt một số trong rất nhiều thông tin tiêu biểu trong bản
phúc trình này nhằm giới thiệu với những nhà giáo dục và đặc biệt là các bạn
sinh viên Việt Nam một cái nhìn về những người sinh viên đồng tuổi với các bạn
tại Mỹ, một trong những quốc gia có nền đại học rất tiên tiến vừa trong ngành
khoa học tự nhiên và công nghệ vừa trong ngành khoa học nhân văn và nghệ thuật.
Dĩ nhiên, nền
đại học Mỹ có nhiều ưu điểm nhưng cũng không ít khuyết điểm như mọi nền đại học
khác trên thế giới và câu trả lời của các sinh viên này chỉ phản ánh những hiện
tượng và truyền thống trong giới hạn của chiều dài lịch sử và chiều sâu văn hóa
đặc thù của xã hội Mỹ mà thôi.
Cá nhân của người sinh viên Mỹ
Về tuổi tác thì khoảng 70% sinh viên năm thứ
nhất ở các đại học Mỹ ở vào lứa tuổi 18. Một số rất trẻ, dưới 17 tuổi, chiếm
1,6% trong khi các bạn 25 tuổi hay “già” hơn chiếm 0,1%. Còn về giới tính thì
một cuộc khảo sát năm 2003 cho thấy tỷ lệ nữ sinh viên trong chương trình Cử
nhân đã tăng từ 42% (1970) đến 56% (2001).
Dù là một xứ hợp chủng, tiếng Anh vẫn là ngôn
ngữ mẹ đẻ của đại đa số sinh viên (91,2%). Đối với số sinh viên còn lại (8,8%)
thì Anh ngữ lại chỉ là một ngoại ngữ. Bản khảo sát cũng kê khai hơn 9 sắc dân
với thành phần như sau:
V
SẮC
DÂN
|
% SINH
VIÊN
|
Người da
trắng
|
71,9
|
Người da đen, gốc
Phi châu
|
11,3
|
Người gốc Á châu
Thái Bình Dương
|
8,8
|
Người gốc
Mexico
|
5,7
|
Người thuộc Quần
đảo Puerto Rico
|
1,4
|
Người gốc châu Mỹ
La-tinh
|
4,2
|
Người gốc thổ dân
Mỹ
|
2,6
|
Người có gốc
Hawaii
|
1,3
|
Các gốc gác
khác
|
4,0
|
ề tôn giáo
thì tuy lịch sử nước Mỹ rất gắn liền với đạo Tin lành và mãi cho đến năm 1960
mới có vị Tổng thống đầu tiên theo Công giáo La Mã, thành phần tôn giáo của sinh
viên Mỹ cũng rất phức tạp. Một điều đặc biệt là tuy mục này kê khai thành phần
tôn giáo nhưng lại đưa ra một thông tin đáng chú ý là trong xứ Mỹ rất ngoan đạo
này, cứ 5 sinh viên lại có một bạn (21,1%) không theo tôn giáo nào cả và tổng
cộng là 24,2% không theo đạo Chúa.
TÔN
GIÁO
|
%
SINH
VIÊN
|
12 hệ phái
Tin lành phổ quát nhất
|
34,5
|
Công giáo La
Mã
|
25,4
|
Những hệ phái
Cơ Đốc giáo khác
|
12,9
|
Phật
giáo
|
1,3
|
Hồi
giáo
|
0,9
|
Ấn
giáo
|
0,8
|
Không theo
tôn giáo nào cả
|
21,2
|
Cha mẹ của
người sinh viên
Về trình độ học vấn của cha mẹ người sinh
viên Mỹ thì đa số đều có học vấn cao hơn cấp Tú tài, và trong nhóm đó mẹ có
trình độ này (53,5%) nhiều hơn cha (45,7%). Nhưng cũng có nhiều sinh viên mà cha
mẹ đều có học vấn cao hơn cấp Cử nhân, và trong nhóm đó cha có trình độ này
(25,4%) nhiều hơn mẹ (21%). Tuy nhiên con số các sinh viên mà cha mẹ chỉ có bằng
Tú tài hay thấp hơn không phải là ít (cha gồm 28,9% và mẹ gồm
25,5%).
Về tình trạng
gia đình thì phần lớn sinh viên (70,3%) đến từ những gia đình có đầy đủ cha và
mẹ. Tuy nhiên, khoảng một phần tư (25,9%) lại phải chịu cảnh cha mẹ ly dị hay
không sống với nhau nữa. Số còn lại có cha mẹ đã qua đời.
Có lẽ cũng
như sinh viên ở mọi quốc gia trên thế giới, về thu nhập thì sinh viên Mỹ thuộc
đủ diện, từ rất nghèo đến trung bình, và từ khá giả đến giàu có. Thu nhập của
cha mẹ sinh viên Mỹ được tóm tắt như sau:
DIỆN KINH TẾ/
THU NHẬP HẰNG NĂM (USD)
|
%
SINH
VIÊN
|
Rất nghèo (từ
dưới 10.000 đến 24.999)
|
12,4
|
Nghèo (từ 25.000 đến 74.999)
|
36,2
|
Trung bình
(từ 75.000 đến 149.999)
|
31,8
|
Khá giả (từ
150.000 đến 249.999)
|
12,1
|
Giàu có (từ
250.000 trở lên)
|
7,4
|
Sinh viên Mỹ
lựa chọn đại học và ngành học như thế
nào
Ngoài các yếu
tố khoảng cách địa lý từ nhà đến trường và phương tiện di chuyển, một số tiêu
chuẩn chính mà sinh viên Mỹ cho là quan trọng nhất trong việc lựa chọn đại học
được tóm tắt ở bảng dưới đây: (Một điều đáng chú ý là tỷ lệ các bạn nữ sinh viên
quan tâm đến những tiêu chuẩn này luôn luôn cao hơn các bạn nam sinh
viên)
TIÊU CHUẨN ĐỂ
CHỌN ĐẠI HỌC
|
%
|
%
NŨ
|
%
TẤT
CẢ
|
Đại học có
tiếng tăm
|
59,5
|
68,9
|
64,7
|
Sinh viên tốt
nghiệp kiếm được việc làm tốt
|
50,5
|
57,3
|
54,2
|
Sinh viên
được trợ giúp tài chính trong khi học
|
38,1
|
47,0
|
43,0
|
Sinh viên đã
đến tham quan trường
|
35,7
|
46,1
|
41,4
|
Học phí không
cao quá
|
35,8
|
43,3
|
39,9
|
Đại học nổi
tiếng nhờ những hoạt động xã hội
|
36,2
|
40,2
|
38,4
|
Cũng như sinh
viên ở các quốc gia khác, sau khi tốt nghiệp trung học, sinh viên Mỹ thường nộp
đơn vào nhiều đại học. Kết quả là 60,7% được nhận vào đại học mà các bạn sinh
viên ấy mong muốn nhất trong khi 26,1% và 8,6% phải vào các trường mà những sinh
viên ấy xếp vào hạng 2 và hạng 3. Ngược lại, bản phúc trình cũng cho biết, dù đã
được nhận vào trường mà các sinh viên muốn nhất, nhiều bạn đã phải chọn trường
hạng 2 hay hạng 3 chỉ vì thiếu hụt tài chính.
Nói về những
lo âu có đủ tiền hay thiếu hụt tài chính để hoàn tất học trình đại học thì tỷ lệ
của nữ sinh viên lo âu vẫn nhiều hơn nam sinh viên như được trình bày trong bảng
tóm tắt dưới đây:
ƯU TƯ VỀ HỌC
PHÍ
|
%
|
%
NỮ
|
%
TẤT
CẢ
|
Rất lo âu
không đủ tiền cho đến khi học xong
|
8,4
|
12,9
|
10,9
|
Lo âu vừa
phải, hy vọng trả được học phí
|
48,7
|
56,9
|
53,2
|
Không lo âu
lắm
|
42,8
|
30,2
|
35,9
|
Ngành học ở
Mỹ rất đa dạng và hầu hết chương trình Cử nhân ở các đại học Mỹ đều không nhiều
thì ít có đủ loại ngành học cho sinh viên lựa chọn theo nhu cầu và sở thích. Bản
phúc trình cho thấy một số những ngành học được sinh viên chọn lựa nhiều nhất
là:
NGÀNH
HỌC
|
%
SINH
VIÊN
|
Kinh doanh
(Business)
|
16,7
|
Chuyên môn
(Professional), như Dự bị Y khoa
|
13,8
|
Nghệ thuật và
Nhân văn (Arts & Humanities)
|
13,5
|
Khoa học Xã
hội (Social Sciences)
|
11,5
|
Kỹ sư và Kỹ
thuật (Engineering & Technical Sciences)
|
10,3
|
Sinh vật học
(Biological Sciences)
|
9,3
|
Giáo dục
(Education)
|
8,3
|
Khoa học Tự
nhiên (Physical Sciences)
|
3,2
|
Những ngành
học khác
|
7,0
|
Không biết
chọn ngành nào
|
6,2
|
Tuy chọn lựa
ngành học như vậy nhưng trong học trình 4 đến 5 năm của chương trình Cử nhân,
sinh viên Mỹ thay đổi ngành học trung bình từ 4 đến 5 lần. Cũng cần lưu ý là bản
phúc trình cho thấy cứ 100 sinh viên đang học năm thứ nhất thì có đến 6 bạn
không hay chưa quyết định được là sẽ chọn ngành học nào.
Sinh viên Mỹ
và những yếu tố thành công trong việc
học
Các chuyên viên giáo dục ở Mỹ đã đúc kết
những phương pháp mà họ cho rằng sẽ giúp người sinh viên thành công trong việc
học. Bản phúc trình đưa ra kết quả cuộc khảo sát cho thấy sinh viên Mỹ đã tự
đánh giá chính mình trong việc thực hiện một số những phương pháp đưa đến thành
công như được tóm tắt trong bảng dưới đây:
PHƯƠNG PHÁP
ĐƯA ĐẾN THÀNH CÔNG
|
%
TẤT
CẢ
|
%
|
%
NỮ
|
Luôn ghi chép
bài trong lớp
|
65,8
|
51,0
|
78,0
|
Dùng luận cứ
hợp lý để hỗ trợ ý kiến của mình
|
57,9
|
60,7
|
55,6
|
Luôn đặt câu
hỏi cho thầy cô trong lớp
|
53,9
|
49,9
|
57,2
|
Tìm lời giải
đáp rồi giải thích lại cho bạn hiểu
|
51,7
|
50,9
|
52,3
|
Coi lầm lỗi
như một phần của tiến trình học hỏi
|
51,6
|
50,3
|
52,7
|
Tìm những
phản hồi trong việc học
|
47,7
|
41,1
|
53,2
|
Tập viết
nhiều lần để cải thiện các bài luận văn
|
46,6
|
36,9
|
54,7
|
Tìm nhiều
giải pháp khác nhau cho cùng một vấn đề
|
44,3
|
45,7
|
43,1
|
Luôn đánh giá
chất lượng hay mức độ đáng tin cậy của bất cứ thông tin nào nhận được (chứ không
chấp nhận ngay)
|
37,0
|
36,9
|
37,1
|
Tự khám phá
thêm dù thầy cô không bắt buộc
|
31,4
|
34,8
|
28,5
|
Tự kiếm thêm
các bài khảo cứu khoa học và các nguồn thông tin khác
|
22,1
|
24,0
|
20,6
|
Sinh viên Mỹ
nghĩ về chính mình
Ngoài những phương pháp đưa đến thành công trong việc
học, cuộc khảo sát cũng nhằm tìm hiểu người sinh viên nghĩ như thế nào về những
thuộc tính xa hơn và sâu hơn về vai trò của một sinh viên muốn thành công trong
đại học, những thuộc tính bao quát bản chất của một con người. Dưới đây là bản
tóm tắt một số thuộc tính chính mà sinh viên Mỹ năm thứ nhất tự cho là mình có
khả năng hoặc có ý muốn mạnh nhất:
%
SINH
VIÊN
|
…cho là mình có KHẢ NĂNG RẤT
CAO
hay Ý MUỐN RẤT MẠNH về…
|
75,2
|
Sự thôi thúc để đạt
mục tiêu của mình
|
73,7
|
Hợp tác hay liên hệ
với người khác
|
69,5
|
Học
giỏi
|
67,2
|
Thông cảm với người
chung quanh
|
61,8
|
Lãnh
đạo
|
60,7
|
Khả năng trí thức
của chính mình
|
56,8
|
Sáng
tạo
|
55,8
|
Sức khỏe thể
chất
|
54,5
|
Quân bằng về tình
cảm
|
52,5
|
Sự tự tin khi liên
hệ với người khác
|
47,5
|
Luận
văn
|
44,9
|
Toán
|
39,9
|
Các vấn đề tâm
linh
|
38,4
|
Sử dụng máy
tính
|
37,7
|
Sự hùng biện trước
công chúng
|
30,6
|
Nghệ
thuật
|
R
iêng về khuynh hướng chính trị thì cuộc khảo sát năm nay
cho thấy có tới 35,6% sinh viên Mỹ năm thứ nhất cho biết họ thường tham dự những
cuộc thảo luận chính trị. Đây là tỷ lệ cao nhất từ trước đến nay, hơn cả con số
kỷ lục (33,6%) vào năm 1968. Khuynh hướng chính trị của sinh viên Mỹ (năm thứ
nhất) được tóm tắt trong bảng dưới đây:
KHUYNH HƯỚNG
CHÍNH TRỊ
|
%
SINH
VIÊN
|
Cực Tả (Far
Left)
|
3,2
|
Tự do, phóng
khoáng, cấp tiến (Liberal)
|
31,0
|
Không Hữu mà
cũng không Tả (Middle)
|
43,3
|
Bảo thủ
(Conservative)
|
20,7
|
Cực Hữu (Far
Right)
|
1,8
|
Sinh viên và
một số vấn đề xã hội tại Mỹ
Cuối cùng,
bản phúc trình đưa ra những kết quả của cuộc khảo sát về suy nghĩ của người sinh
viên lớn lên trong xã hội Mỹ với những truyền thống, giá trị, và lịch sử cũng
như phản ứng của người sinh viên trước những vấn đề đang gây bức xúc trong xã
hội đó. Bảng dưới đây tóm tắt một vài suy nghĩ và phản ứng tiêu biểu của người
sinh viên Mỹ.
SINH
VIÊN
|
|
79,0%
|
Không tin là
Chính phủ Mỹ đã kiểm soát đầy đủ vấn nạn ô nhiễm môi
trường
|
66,2%
|
Cho rằng
những người đồng tính luyến ái có quyền lập gia đình với
nhau
|
62,2%
|
Tin tưởng sự
bất đồng ý kiến là tối cần thiết trong sinh hoạt chính
trị
|
60,4%
|
Cho là những
người giàu có phải đóng thuế nhiều hơn nữa
|
58,2%
|
Chấp nhận ý
kiến nên hợp pháp hóa chuyện phá thai
|
57,4%
|
Tin là quyền
lợi của kẻ phạm pháp đã được chú ý tới quá nhiều [so với quyền lợi của nạn
nhân]
|
41,3%
|
Cho rằng nên
hợp pháp hóa cần sa
|
34,9%
|
Nghĩ rằng cần phải bãi bỏ luật tử
hình
|
28,0%
|
Tin là cần
phải gia tăng ngân sách quốc phòng [Đây là tỷ lệ thấp nhất kể từ sau biến cố
nước Mỹ bị tấn công ngày 11/9/2001]
|
20,1%
|
Cho rằng kỳ
thị chủng tộc không còn là vấn đề chính yếu trong xã hội
Mỹ
|
78,6%
|
Chấp nhận ý
kiến rằng ai cũng có thể thành công trong xã hội Mỹ nếu cố gắng làm
việc
|
Trong thế giới thu nhỏ do xu hướng toàn cầu
hóa hiện nay, hy vọng bài lược dịch ngắn ngủi này sẽ đóng góp phần nào cho việc
mở rộng kiến thức của các bạn sinh viên Việt Nam về những người sinh viên và,
một cách gián tiếp, về một khía cạnh nào đó của nền đại học Mỹ. Và nếu bài lược
dịch này giúp cho các bạn sinh viên Việt Nam so sánh được những hoàn cảnh, suy
tư, và thái độ sống với những sinh viên cùng tuổi ở bên trời Âu Mỹ để từ đó,
hoặc nhìn nhận và sửa đổi những khuyết điểm của mình cho tốt đẹp hơn, hoặc xác
định lại và nhấn mạnh thêm những ưu điểm của mình, tiếp tục mạnh dạn tham dự một
cách tích cực hơn nữa vào những cải tổ cần thiết của nền giáo dục đại học của
quê hương thì đó đã vượt quá mong muốn của người viết.
* Irvine Valley
College