Thượng Đế thì Cười
Đó là ngày lạnh nhất kể từ khi tôi đặt chân đến Melbourne. Gió lùa qua cánh tay áo lạnh tê tái. Màu mây đùng đục, gợn những đường vân queo quắt và nhàn nhạt như khói thuốc. Con đường dẫn đến trường vắng hoe, vì buồn, vì lạnh, vì như thể nếu không có đôi thì sẽ chẳng ai muốn ra đường để một mình chống chọi với cái rét. Tôi thổi hơi ấm vào giữa hai bàn tay. Đã lâu rồi không nhận được tin tức của em. Những kỉ niệm ngày xưa chợt ùa về. Nói thế nào được nhỉ? Tự nhiên tôi lại nhớ đến một chuyện vui, cứ cười tủm tỉm. Chắc em cũng hiểu là chuyện gì. Thời tiết thế này mà cứ thế thì lạnh hết cả miệng.
Tôi mặc bên ngoài độc một chiếc áo khoác mỏng dài tay, kéo mũ che kín hai vành tai để đỡ lạnh. Mới năm giờ mà chiều đã buông màn ủ rũ. William hẹn tôi trước cổng trường để đưa tôi đến buổi họp mặt hàng tuần của những người công giáo. Tất nhiên tôi là người ngoại đạo, cả nghĩa đen lẫn nghĩa bóng. Tôi quen William một cách rất tình cờ. Cách đó vài tháng tôi có mặt trong một seminar về kinh thánh của anh, “The secret of happiness”. Thực ra khi ấy tôi vừa đến Melbourne đúng một tuần, và tôi tham dự phần vì tò mò, phần vì chẳng biết làm gì trong những ngày đầu vô định. Và hôm nay cũng thế, cứ ngồi mãi ở nhà khiến tôi hay nghĩ miên man.
“Lần này chắc cũng thú vị đây!” Tôi nghĩ thầm như thế khi được William mời đến buổi họp mặt. Thứ nhất là sẽ có một màn văn nghệ nho nhỏ, mà mấy bạn hay sinh hoạt ở nhà thờ về khoản này thì thôi rồi, đàn cực đỉnh và hát thì ngất ngây. Và điều thứ hai không quan trọng lắm, nói ra thì hơi ngại, là có free dinner. Ngoài ra còn có thảo luận về kinh thánh, hy vọng là không quá chán. William bảo tôi: “Chúa đã đưa cậu đến siminar của tôi, và Chúa lại đưa cậu đến buổi họp mặt lần này.” Tôi thì [khi ấy] chẳng tin vào Chúa, nhưng tôi tin vào sự tình cờ; mà những điều tình cờ thì, như tôi từng nói với ai ấy nhỉ, thường mang đến những điều đẹp đẽ.
Chúng tôi đi bộ qua một con đường dài. Trời chưa hẳn tối nhưng mọi thứ đã vật vờ như muốn lẩn mình khỏi cái giá rét. Những cành cây trơ trọi. Cảnh vật đầu đông đượm một điều gì đơn côi buồn bã. Bước trên những xác lá xào xạc, tôi thấy mình thật nhỏ nhoi và cô độc. Khoảng thời gian vui vẻ với bạn bè đã trôi qua nhanh chóng. Một người bạn vừa trở về Adelaide, còn hai người bạn khác cũng vừa về Sydney. Họ nói Melbourne thật đẹp và thơ mộng, nhưng chẳng có gì để níu kéo họ lại, kể cả tôi. Nhiều người nói Melbourne đẹp như tranh vẽ. Tôi cũng thấy thế thật, chỉ mỗi tội buồn, Mèo-buồn mà. Và mọi thứ lại trở về với vẻ vốn có của nó: gọn gẽ, trơ trọi và lạnh lẽo trong gam màu nóng như tranh Levitan. Ôi, Melbourne của tôi, mèo con của tôi, nỗi buồn của tôi!
Phải, tôi đã trải qua rất nhiều những suy nghĩ kiểu như thế, và lần này thì tôi đã đến nơi cần đến tự lúc nào. Đó là căn phòng bằng gỗ rộng và ấm cúng. Ở góc phòng có một lò sưởi kiểu châu Âu, bên cạnh pho tượng gỗ mà tôi không nghĩ ra nó giống một nhân vật nào trong lịch sử, hoặc có lẽ là giống một cầu thủ bóng đá của Hà Lan hơn cả. Chính giữa phòng có một chiếc bàn dài và lớn hình chữ nhật, giống như trong bức tranh có Chúa và các môn đồ ngồi xung quanh. Những người đến trước đang chuẩn bị món ăn. Còn tôi giúp mọi người sắp xếp nhạc cụ và chọn bài hát. Những bài nhạc thánh thường có âm hưởng vui và tiết tấu nhanh. Nhưng chẳng hiểu sao tôi lại chợt nhớ đến bản nhạc buồn bất hủ của Elvis Phương: “Bài thánh ca đó còn nhớ không em? Noel năm nào chúng mình có nhau…” Nhớ Sài Gòn năm ấy với con đường hoa rực rỡ. Nhớ cả mùi hương vương trên tóc em. Nhớ mãi!
Trong buổi tối hôm đó có một cô bạn đến sớm khiến tôi để ý. Em không xinh như những người con gái tôi đã từng gặp ở Melbourne nhưng gương mặt em ánh lên sự thông minh, đài các và thêm một điều nữa đánh thức tôi trong vô thức, em có nét giống với người con gái mà tôi chưa thể quên. Điều đó khiến tôi cảm thấy hơi bối rối. Biết tôi là người mới đến, em hỏi han trò chuyện với tôi một hồi lâu, mặc dù tôi vẫn cảm thấy điều gì đó thiếu tự nhiên sâu trong mắt em, trong khuôn mặt và nụ cười của em. Thỉnh thoảng tôi lại trộm nhìn em như cố níu kéo một hình bóng tưởng chừng đã đánh mất. Mái tóc ấy, đôi môi ấy, cặp mắt kính ấy, làm sao tôi có thể quên?
Tôi ngạc nhiên khi biết em là người Đông Timor. Tôi cứ nghĩ Đông Timor chắc là nghèo lắm, mà lại nằm gần với Inđô thì lấy đâu ra gái xinh. Hóa ra mình lạc hậu và thành kiến quá rồi. (Tất nhiên là chỉ nhủ thầm thế thôi chứ chẳng dại gì mà trợn tròn mắt lên hỏi: “Cái gì? Đông Timor á!”.) Em tên là Kofi. Cái tên làm tôi liên tưởng đến từ “coffee”. Tự nhiên tôi thấy nhớ đám bạn thân ở Việt Nam quá. Từ khi qua đây, tôi chẳng có ai để rủ rê đi uống cà phê cùng và cũng chẳng có quán nào thích hợp để ngồi nhâm nhi cả. Mọi thứ đều take-away, dịch sang tiếng mình là “làm xong phắn”. Hơn nữa, phài cần có thời gian mới quen được cà phê ở đây: không đắng, không đường, chan chát nơi chót lưỡi và làm xong phắn. Nhưng nói gì thì nói, Sài Gòn, Melbourne hay Đông Timor cũng thế thôi. Cà phê luôn đậm đà và dư âm. Cà phê khiến ta mất ngủ và nhất là, cà phê gây nghiện.
Tôi thừa nhận là trong suốt buổi tối hôm đó, suy nghĩ về em choán hết tâm trí tôi. Em xinh một cách mộc mạc và giản dị khi không trang điểm. Đôi bàn tay ửng hồng vì lạnh. Ánh mắt suy tư và tâm trạng ẩn sau cặp mắt kính. Nụ cười nửa xã giao nửa như không cười. Tôi nhớ là trong khi thảo luận, em cũng có phát biểu một số lời nhưng dường như lấy lệ vì với một giọng rất nhỏ và trầm. Khi buổi họp mặt gần kết thúc, mọi người để lại thông tin cá nhân. Tôi liếc vội. Thật khó tin là em hơn tôi đến nhiều tuổi, mặc dù trông bề ngoài em còn rất trẻ. Tự nhiên tôi thấy tất cả những điều này, cuộc đời tôi, cuộc đời em và chuyện chúng ta gặp nhau, thật là hài hước. Mọi thứ sắp đặt tưởng chừng như hoàn hảo. Mọi thứ như cứ ngỡ mà lại không phải thế. Phải, con người ta thì suy nghĩ, còn Thượng đế thì cười.
Chúng tôi kết thúc trễ, mỗi người mỗi ngả. Tôi đi cùng Kofi, rảo bước thật chậm và trò chuyện với em một lúc. Tôi gặng hỏi về tâm trạng thiếu tự nhiên của em hôm nay: “Em đang lo lắng chuyện gì thì phải?”. Em nhìn tôi gật đầu, nói là cách đây một tháng em vừa thi CPA, một chứng chỉ rất quan trọng và kết quả sẽ có vào ngày mai. Tôi bảo rằng có một người bạn vừa thi đậu CPA mặc dù cô ta không phải tuýp người thông minh lắm. Chỉ cần nỗ lực và có niềm tin vào bản thân mình là đủ – đại ý thế. “Mọi thứ rồi sẽ ổn thôi!”, tôi cố động viên em mặc dù thật ra tôi chẳng có người bạn nào thi CPA cả. Em nhìn tôi cười: “Anh cũng hay thật. Làm sao anh đoán được tâm trạng của em?” Tôi chẳng biết giải thích thế nào, đơn giản đó là linh cảm.
Thoáng chốc đã đưa em về đến nhà. Chúng tôi chào tạm biệt. Và rồi tôi lại đứng một mình trong đêm đông giá buốt, mãi miên man với hoài niệm về quá khứ và những nỗi buồn vô định trong hiện tại. Tôi chợt nghĩ đến những ngôi sao xa xăm, tưởng chừng rất gần mà không thể với tới. Ngày qua ngày, ta vẫn dõi theo ngôi sao ấy giữa khoảng không vô định. Nhưng rồi bất chợt, ngôi sao ấy chợt lóe sáng giữa bầu trời đêm để rồi sau đó, mất hút trong vô cực.