Tranh luận văn nghệ thế kỷ XX: Một thời sôi động
| ||
Tuy mới là bước đầu nhưng các tác giả đã có những đánh giá các hiện tượng văn hoá, các nhân vật văn hoá có quan hệ đến cuộc tranh luận một cách khoa học, cởi mở, có tính đến quan điểm lịch sử cụ thể, bởi đó là cơ sở của ý kiến đánh giá. Không thể đánh giá một cách khách quan, có sức thuyết phục những đóng góp của trào lưu Thơ Mới, những ý kiến khả quan về quốc ngữ, về văn chương quốc ngữ... nếu người soạn không nhớ tới lời dặn của Lênin: "Khi xét công lao lịch sử, người ta không căn cứ vào chỗ các nhà hoạt động lịch sử đã không cống hiến được gì so với nhu cầu của thời đại chúng ta, mà căn cứ vào chỗ, các nhà hoạt động lịch sử đã cống hiến được gì so với các bậc tiền bối của họ". Luận điểm này giúp chúng ta có sự đánh giá công bằng đối với những nhà văn hoá có thế giới quan phức tạp, trong một bối cảnh lịch sử đầy biến động. Cấu trúc của công trình gồm: lời giới thiệu và nội dung 6 cuộc tranh luận. Nội dung của mỗi cuộc tranh luận chiếm khoảng trên dưới 300 trang, gồm các tiểu mục: tiểu dẫn, thư mục về các bài tham gia tranh luận, văn tuyền tranh luận, thư mục nghiên cứu. Công trình tranh luận văn nghệ nửa đầu thế kỷ XX có giá trị lý luận bởi người viết đã nhìn hiện tượng văn chương, tác giả văn học, các khuynh hướng nghệ thuật trên cơ sở triết mỹ Mácxít, từ góc nhìn văn hoá cởi mở: văn hoá không đồng nhất với hệ tư tưởng, thậm chí rộng hơn ý thức hệ. Phương pháp tiếp cận của công trình là lấy ý thức dân tộc làm quan điểm chỉ đạo. Chúng ta biết rằng, ý thức dân tộc, chủ nghĩa dân tộc là nội dung hàm chứa nhiều giá trị, là phương lược lớn để hoạt động cách mạng, chiêu tập hiền tài, là hạt nhân của chính sách đại đoàn kết của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Chủ nghĩa dân tộc là động lực lớn của Lý luận phê bình văn nghệ đầu thế kỷ XX. Tinh thần dân tộc, ý thức dân tộc có thể coi là điểm quy tâm của nhiều yếu tố tích cực của các tác giả, các khuynh hướng, dù đó là tri thức hay phương pháp, luận điểm hay văn phong. Không thể đánh giá công bằng những đóng góp của Vũ Ngọc Phan Nhà văn hiện đại, của Hoài Thanh với Thi Nhân Việt Nam, những phương pháp nghiên cứu của Dương Quảng Hàm, Phan Khôi v.v… nếu như công trình chỉ dừng lại quy chiếu bằng những tiêu chí của Mỹ học cách mạng. Lời của Thiếu Sơn được công trình nhắc lại: “Dẫu nhận là nước ta có quốc học hay không có quốc học, thì những nhà đã dự vào cuộc tranh luận đó cũng đều đã vì quốc học mà phát ngôn, có quan tâm với sự tiến hoá của quốc gia, xã hội vậy”. Đối với Phạm Quỳnh, Phan Khôi và một số vị khác là những học giả có thể giới quan phức tạp, các tác giả cũng có những đánh giá thoả đang, vận dụng khéo léo”kinh nghiệm phủ định” của Lênin khi nói đến mặt hạn chế của nhà văn hoá, tức là phê phán không phải là mục đích, mà là phương tiện để đạt tới mục đích khác cao hơn… (tập I, trang 7). Cuộc tranh luận duy tâm hay duy vật không chỉ dừng lại ở khái niệm, ở nhận thức, mà là ở cuộc tranh luận tư tưởng, triết học, có ý nghĩa cực kỳ quan trọng trong việc đặt nền tảng quan điểm triết học Mác xít trong quá trình đấu tranh tư tưởng – văn hoá hàng chục năm về sau do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo. Nhà lý luận Mácxít trẻ tuổi Hải Triều đã giương cao ngọn cờ đầu và giành thắng lợi vang dội ngay từ hiệp đầu. Những quan điểm duy tâm, mơ hồ bị đẩy lùi, mở đường cho những tư tưởng tiến bộ, kiên định trong nhiều tầng lớp xã hội, nhất là trong tri thức, giúp họ tham gia tích cực vào công cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc. Từ những năm 40 trở đi, sau khi các cuộc tranh luận lắng dịu, một số nhà nghiên cứu đã kịp thời tiếp tục làm sáng tỏ con đường đi lên của văn học Việt Nam, bàn bạc thêm những vấn đề có liên quan đến quốc học, quốc văn đã được nêu ra trong các cuộc tranh luận.--PageBreak-- Năm 1941, Vũ Ngọc Phan đã viết tiểu luận sơ kết cuộc tranh luận giữa Lê Dư, Phan Khôi và Nguyễn Trọng Thuật về quốc học vốn tranh cãi kéo dài từ năm 1924 cho đến năm 1939. Ông đã tìm ra một điểm chung thống nhất của họ là tầm quan trọng và vai trò nền tảng của quốc học ở mỗi quốc gia, những tố chất dân tộc độc đáo và tiến độ phát triển của nền quốc học nước ta. Hoài Thanh (cùng với Hoài Chân) viết Thi nhân Việt Sau đó vài ba năm, Đề cương văn hoá Việt Trong bối cảnh lịch sử đó, nhà văn Đặng Thai Mai xuấthiện là một hiện tượng văn hoá đặc sắc. Với tri thức uyên bác, với lập trường Mácxít kiên định, được thể hiện bằng phong cách uyển chuyển, ông đã viết văn học khái luận (đăng trên tạp chí văn mới) để tiếp tục khẳng định quan điểm văn nghệ gắn bó với đời sống, với quyền lợi của nhân dân lao động, hướng công chúng vươn tới những lý tưởng cao đẹp Chân – Thiện – Mỹ của con người. Đôi điều bất cập Công trình Tranh luận văn nghệ thế kỷ XX có một số điểm bất cập. Cuộc tranh luận dâm hay không dâm trong tiểu thuyết của Vũ Trọng Phụng cả về quy mô, thời gian, tác động xã hội… không lớn, không dài bằng 5 cuộc tranh luận trước, vì vậy không nêu nên thành một chủ điểm học thuật lớn. Đây chỉ là một biện pháp miêu tả của nhà văn, không thành một hiện tượng văn hoá, nó không có cơ sở triết học nào để ràng buộc, nó cũng không phải là một hằng số trong lối sống như thần tượng và mốt chẳng hạn. Chính tác giả công trình cũng thừa nhận: “Cuộc tranh luận kéo dài từ năm 1936 đến năm 1939 không có quy mô rầm rộ và cũng “không thu hút nhiều cây bút đương thời” nếu so với những cuộc tranh luận cũng diễn ra vào thời gian này. Còn “vấn đề tình dục” trong văn học, đứng từ hôm nay nhìn lại ta có thể nhận ra một vài điểm “chông chênh” trong lập luận của Vũ Trọng Phụng (Tập 2, tr1096; 1097). Hầu hết các cuộc tranh luận văn nghệ đầu thế kỷ XX đều xảy ra trên địa bàn miền Bắc, đặc biệt là ở Hà Nội nghìn năm văn vật. Nhưng ảnh hưởng của chúng thì lại không ở địa bàn Hà Thành. Những diễn tiến phong trào học thuật, nghiên cứu, phê bình báo chí ở Huế và ở các đô thị miền Mặc dù còn một vài hạn chế, công trình: Tranh luận văn nghệ thế kỷ XX vẫn xứng đáng là bộ sách tư liệu quý giá, đáng tin cậy của giới văn hoá học, ngữ văn học và bạn đọc cả nước |
Home »
TRANH LUẬN HỌC THUẬT
» Tranh luận văn nghệ thế kỷ XX: Một thời sôi động