VĂN
CHƯƠNG KITÔ GIÁO Ở ÐÔNG PHƯƠNG
VÀO
KHÚC QUANH CỦA THẾ KỶ IV
Về
phương diện Giáo Phụ học, thời kỳ kéo dài từ lúc thánh Cyprien qua đời (258) cho
tới khi khởi đầu cuộc tranh luận Ariô (khoảng năm 320) có thể coi là một thời kỳ
chuyển tiếp không phong phú bằng những thời kỳ khác xét về nhân vật và tác phẩm
nổi bật. Phía Latinh, chúng ta đã nêu lên khuôn mặt và tác phẩm của Lactance,
phía Hylạp, chúng ta có thể kể ra nhiều tên tuổi, nhưng công trình quan trọng
duy nhất còn truyèn đến chúng ta là công trình của Eusèbe thành
Césarée.
Tuy
nhiên, 40 năm cuối của thế kỷ III (từ 260 đến 302) là những năm may mắn cho Giáo
Hội. Khi đó, trên thực tế Giáo Hội được hưởng sự khoan dung của chính quyền đế
quốc, và có thể công khai phát triển. Nhưng như người ta nói, các dân tộc sung
sướng thì không có lịch sử, cũng thế chúng ta được biết rất ít về đời sống Giáo
Hội trong thời kỳ này. Trên bình diện tư tưởng, người ta còn giữ được dấu vết
của nhiều cuộc tranh luận : tranh luận về Paul de Samosate, kẻ đã dùng mưu mô
lên ngôi Giám Mục Antioche, bị một hội nghị lên án năm 268 vì đã đụng chạm đến
thần tính của Ðức Kitô, tranh luận giữa Giám Mục Denys dAlexandrie và Giáo Hoàng
Denys de Rome (259 -268) liên quan đến định thức đức tin Ba Ngôi : ở Roma, người
ta lầm tưởng rằng, sau Origène, có thể nói đến ba "hypostases" thần linh, một từ ngữ được
dịch là "substances" (dịch theo
ngữ nguyên : hypo - stasis - sub - stantia) : đây là sự khai mào cho những hiểu
lầm dai dẳng giữa người Latinh và người Hylạp về thuật ngữ Ba Ngôi và Kitô học.
Ở trên, chúng ta đã lưu ý đến cuộc tranh luận sôi nổi chung quanh một số luận đề
của Origène vài thập kỷ sau khi ông mất : Méthode (Giám Mục ?) thành Olympe nổi
bật trong cuộc tranh luận do lập trường "chống Origène" của ngài, thực ra từ ngữ
này chỉ có nghĩa tương đối, vì ngoài những điểm bị bác bỏ trong các tác phẩm của
Origène, ngài không hề từ khước việc dựa vào các tác phẩm đó. Người ta còn giữ
được của ngài một tác phẩm tu đức bàn về đức trinh khiết Kitô giáo, nhan đề
"Bữa tiệc" (le Banquet) hiển
nhiên ám chỉ tới tác phẩm "Bữa tiệc"
(Le Banquet) nổi tiếng của Platon.
Ðột
nhiên vào năm 302, hoàng đế Dioclétien lại khơi dậy việc bách hại đạo, một cuộc
bách hại dữ dội nhất mà Giáo Hội cổ thời phải chịu, và chỉ tàn lụi năm 313 ở
Ðông Phương. Ðây là một sự thức tỉnh khủng khiếp và hàng Giám Mục lại phải đương
đầu với những vấn đề nội bộ gay gắt : vấn đề "lapsi" và nhiều nhóm ly khai theo chủ
trương nghiêm ngặt. Sự hiệp nhất của Giáo Hội Aicập bị phá vỡ trong nhiều thập
kỷ mặc dầu có hoạt động của thánh Giám Mục Pierre dAlexandrie, tử đạo năm 311.
Phía Giáo Hội Bắc Phi thì bị ly giáo Donat làm rách nát trong hơn một thế kỷ.
Trong số những nạn nhân của cuộc bách hại, có những nhà trí thức như thánh
Pamphile thành Césarée, một nhà thông thái tiếp nối Origène tại Palestine, tử
đạo năm 309 hoặc 310 ; thánh Lucien thành Antioche, cũng là người thông thạo
Thánh Kinh và là nhà thần học, được coi là người khởi xướng "Trường phái" chú giải và Kitô học
Antioche, tử đạo năm 312. Về tác phẩm của Pamphile, chúng ta chỉ còn giữ được
những mảnh nhỏ, còn tác phẩm của Lucien thì không còn
gì.
Tiếp
đến, những năm 312 - 313 đánh dấu một khúc quanh quyết định đối với Giáo Hội :
chiếm được quyền hành, Constantin và đồng sự là Lucinius chấm dứt cuộc bách hại
Kitô giáo trong đế quốc Roma, thiết lập chính sách khoan dung đối với Kitô giáo.
Constantin tiến đần đến đức tin Kitô giáo và tích cực ủng hộ Giáo Hội. Sự bảo
trợ này của nhà vua tất nhiên sớm cho thấy tính hàm hồ của nó và các Giám Mục sẽ
phải bảo vệ sự độc lập của mình, đôi khi phải trả giá đắt. Dầu vậy, sự đão ngược
tình trạng của Giáo Hội không dám ngờ tới này sẽ cho phép sinh lực của Giáo Hội
triển nở cách đặc biệt trong mọi lãnh vực. Các thế kỷ IV và V là thời kỳ vĩ đại
của các Giáo Phụ từ thánh Athanase đến thánh Cyrille thánh Alexandrie, từ thánh
Augustin đến thánh Léon. Thoát khỏi thái độ thù nghịch của chính quyền, ngoại
trừ dưới triều đại xen kẽ ngắn ngủi của Julien "Kẻ bội giáo" (Julien lApostat) (361-363),
Giáo Hội tuy vậy vẫn không thoát khỏi những vấn đề nội bộ. Trong lịch sử Giáo
Hội, các cuộc tranh luận lớn về giáo lý, tuy không phải là tất cả lịch sử này,
nhưng lại là những gì sẽ chiếm lĩnh mặt trước sân khấu. Giáo Hội thời Athanase
và Augustin là một Giáo Hội đang giữa thời triển nở và đồng thời lâm vào khủng
hoảng. Ðó là hai khía cạnh kích thích và làm cho tư tưởng Kitô giáo phát triển ;
các Giáo Phụ và các Công Ðồng sẽ kiến tạo nên những nền tảng thần học và tín lý
mà đức tin luôn luôn dựa vào. Trong lúc đó, các tôn giáo cổ của dân ngoại tàn
lụi dần, còn nền văn hóa cổ, nhờ các Giáo Phụ đảm nhận, không những sẽ tiếp tục
tồn tại mà còn tìm được chất men đổi mới và hướng tới những thời đại
mới.
KHÚC
QUANH CỦA THẾ KỶ IV
CÁC
HOÀNG ÐẾ
-
260 - 268 Gallien
-
270 - 275 Aurélien
-
284 - 305 Dioclétin
-
305 Galère và Maximin Daia ở Ðông Phương.
-
306 Constantin ở Gaule. Maxence ở Phi Châu và Ý
-
308 Licinius ở Bắc Ý.
-
311 Galère chết
-
312 Constantin chiến thắng Maxcene.
-
313 Lucinius chiến thắng Maximin Daia
-
324 Chiến tranh giữa Constantine và Lucinius. Constantine chiến thắng và từ đây
là hoàng đế duy nhất
-
337 Constantin băng hà.
-
Sau 268, sách của Porphyre "chống các Kitô hữu"
-
269 Plotin chết
-
302 khởi đầu cuộc đại bách hại
-
306 chấm dứt bách hại đạo ở Tây phương.
-
311 sắc chỉ tha đạo của Galère trước khi mất.
Maximin
Daia bách hại trở lại ở Ðông Phương.
-
313 sắc chỉ khoan dung về tôn giáo (gọi là sắc chỉ Milan") do Constantin và
Lucinius ban hành.
-
330 Khánh thành Contantinople
-
Khoảng 268, tranh luận giữa Denys de Rome và Denys
dAlexandrie.
-
268 một Công Ðồng ở Antioche lên án Paul de
Samosate.
-
Khoảng năm 300, tranh luận về Origène, Méthode dOlympe, Pierre Giám Mục
Alexandrie. Những tác phẩm đầu tiên của Eusèbe de
Césarée.
-
Khoảng năm 305 ly khai của Mélèce de Lycopolis ở Aicập (vấn đề các
"lapsi")
-
310 Pamphyle de Césarée tử đạo.
-
311 Pierre dAlexandrie và Méthode dOlympe tử đạo. Ly khai của Donat ở
Carthage.
-
312 Lucien dAntioche tử đạo.
-
Khoảng năm 320, Arius giảng dạy ở Alexandrie.
-
325 Cồng Ðồng Nicée (Công Ðồng chung thứ I).
-
328 Athanase, Giám Mục Alexandrie.
-
Khoảng 330 truất phế Eustache dAntioche.
-
335 Công Ðồng Tyr (Athanase bị lưu đầy lần
I).
THIÊN
CHÚA BAN CHIẾN THẮNG.
Giải
thích của người Kitô hữu về chiến thắng của Constantin trên Maxense, kẻ tiếm
quyền, tại Bắc Rome năm 312. Trình thuật của Eusèbe
:
Constantin,
vị đứng đầu trong hai hoàng đế xét về tước vị và thứ bậc, đã xót thương những
người đã gánh chịu chế độ bạo ngược tại Rome. Sau khi đã khẩn cầu với Thiên Chúa
chốn trời cao, như với người đồng minh trong lời cầu nguyện của mình, và với
Ngôi Lời của Người, Cứu Chúa của tất cả mọi người, và là chính Ðức Giêsu Kitô,
ông tiến lên cùng với cả đạo quân.
Trong
cuộc đụng độ thứ nhất, thứ hai và thứ ba với kẻ tiếm quyền, ông đã hoàn toàn
chiến thắng : ông tiến quân xuyên qua tất cả đất Ý và rồi tiến sát tới Rome. Sau
đó, để ông khỏi bị buộc phải chống lại người Rome vì cớ tên bạo chúa, Thiên Chúa
đã dùng xích sắt lôi hắn ra khỏi các cánh cửa .
Vậy
cũng như vào thời của Môsê, và của dòng giống Dothái thành tín khi xưa "Thiên
Chúa đã xô nhào xuống biển chiến xa và binh đội của ông" . cũng y như thế,
Maxence cùng bộ binh và kỵ binh chung quanh hắn "đã chìm xuống đáy sâu như một
viên đá", lúc hắn quay lưng trước sức mạnh của Thiên Chúa, Ðấng đang đứng về
phía Constantin, để băng qua dòng sông chắn trước mặt, hắn đã biến dòng sông
thành khí cụ tiêu diệt chính mình khi dùng thuyền nối hai bờ và cẩn thận bắc một
chiếc cầu ngang qua.
Cầu
bắc trên sông gãy đổ, lối đi sụp xuống, các con thuyền đầy ắp người bỗng chìm
xuống đáy sâu cùng một lúc .
Ðó
cũng chính là điều mà . như các bạn hữu của Môsê đã làm . những người, nhờ Thiên
Chúa, đã giành chiến thắng, có thể một cách nào đó hát lên và lặp lại bài hùng
ca chống bạo chúa vô đạo ngày xưa : "Hãy hát khen Chúa, vì Ngài đã được tôn vinh
hiển hách. Người đã xô nhào xuống biển chiến mã và kỵ
binh".
(Eusèbe,
Lịch sử Giáo Hội IX, 9, 2 - 8,
dịch
từ Sources Chrétiennes no. 55, p. 61 - 63