I.Đặt vấn đề: Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng Cộng sản Việt Nam ( 12-1986) đã đề ra đường lối đổi mới toàn diện các lĩnh vực của đời sống. Để đổi mới toàn diện các lĩnh vực của đời sống xã hội, trước hết phải đổi mới tư duy. Thực tiễn xã hội đã khách quan hóa vai trò và tầm quan trọng đặc biệt của lý luận và tư duy lý luận đối với sự phát triển của đất nước và dân tộc. Đổi mới tư duy lý luận của Đảng, là vấn đề cấp thiết với sự lãnh đạo của Đảng đồng thời là vấn đề cơ bản, có ý nghĩa chiến lược đối với cách mạng nước ta. Ở vị trí Đảng cầm quyền, có trọng trách lãnh đạo đất nước và lãnh đạo xã hội đi tới chủ nghĩa xã hội, thực hiện mục tiêu lý tưởng của chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
Con đường cách mạng của nước ta từ một nước nông nghiệp tiến lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư ban chủ nghĩa, tạo ra sự biến đổi về chất của xã hội trên tất cả các lĩnh vực là sự nghiệp khó khăn, phức tạp. Cho nên thời kỳ quá độ ở nước ta rất lâu dài với nhiều chặng đường, nhiều hình thức tổ chức kinh tế, xã hội có tính chất quá độ.
Đồng chí Nguyễn Văn Linh, Tổng bí thư đầu tiên của Đảng thời kì đổi mới nhận mạnh : nói đổi mới tư duy, điều căn bản là phải đổi mới tư duy lý luận. Đồng chí đặt vấn đề để xứng đáng là người lãnh đạo chính trị đối với xã hội, với niềm tin yêu của dân, Đảng phải không ngừng nâng cao và hoàn thiện sự lãnh đạo của mình. Công cuộc đổi mới hiện nay đòi hỏi mỗi cán bộ đảng viên phải không ngừng học tập, nếu thiếu trình độ lý luận, học vấn thì khó mà làm được. Đây là lĩnh vực đầy rẫy những cấp bách, thậm chí là cấp bách nhất phải đổi mới.
II.Quá trình hình thành và phát triển tư duy lý luận của Đảng về con đường quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta trong quá trình đổi mới:
1Vai trò của tư duy lý luận và các nhân tố thúc đẩy quá trình tư duy lý luân.
Đường lối đổi mới Đảng trước hết là một quyết định chính trị đúng đắn và kịp thời, tao cho xã hội những khả năng khắc phục sự trì trệ và khủng hoảng. Đường lối đó chứa đựng một tư tưởng sâu sắc, đó là tư tưởng giải phóng để phát triển. Giải phóng sức sản xuất và giải phóng tinh thần, đó là hai phương diện của một quá trình. Nó đem lại sinh khí mới cho xã hội ta. Đó là chỗ gặp gỡ và thống nhất tự nhiên giữa nhu cầu khách quan của sự phát triển xã hội với nhu cầu, nguyện vọng sâu xa của mỗi người trong tư cách cá nhân và công dân của nó nhằm tự biểu hiện và tự khẳng định nhưng năng lực sáng tạo để phát triển mình.
Thực tiễn đổi mới xã hội một mặt đã cung cấp những dự kiện để hình thành và phát triển lý luận đổi mới, tư duy mới về chủ nghĩa xã hội, mặt khác đã cho thấy mức độ đầy đủ hơn tình trạng lạc hậu, bất cập của lý luận so với sự phát triển năng động của thực tiễn. Đó chính là sự lạc hâu và bất cập của lý luận về chủ nghĩa xã hội và xây dựng chủ nghĩa xã hội mang tính chất giáo điều và kinh nghiệm chủ nghĩa, cứng nhắc và thô sơ trong cách hiểu và vận dụng chủ nghĩa Mác – Lênin. Hoạt động thực tiễn của con người lại đòi hỏi sự soi sáng và dẫn đường của lý luận, một lý luận phản ánh đúng bản chất của thực tiễn và phù hợp với sự phát triển của thực tiễn. Lý luận đó phải đủ sức làm sáng tỏ rằng, lựa chọn con đường xã hội chủ nghĩa là lựa chọn một hình thức hợp lý và triển vọng phát triển hơn cả đối với sự phát triển của xã hội, của thế giới ngày nay. Chính phép duy vật mácxit cung cấp một cách nhìn khoa học về bản chất của thế giới và lý tưởng giải phóng con người, giải phóng xã hội ra khỏi trật tự xã hội cũ bất công, tàn bạo, bóc lột và nô dịch để xây dựng một trật tự thế giới mới tự do, công bằng, nhân đạo,... Chủ nghĩa Mác - Lê Nin là một lý luận như thế. Đó là lý luận về phát triễn xã hội và giải phóng con người, kết hợp hữu cơ giữa chủ nghĩa duy lý ( về mặt khoa học ) và chủ nghĩa nhân đạo ( về mặt tư tưởng ) ở trình độ hiện đại. Chủ nghĩa Mác – Lê Nin đặt vấn đề phát triển tự do và toàn diện của con người là mục đích tự thân của lịch sử, chủ nghĩa xã hội là hình thức tổ chức xã hội mà thực tiễn phát triển của lịch sử đặt ra và tư duy khoa học nhận thức được để đi tới mục tiêu.
2. Lý luận về thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội theo quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lê Nin.
Quá độ bỏ qua giai đoạn phát triển đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa của nhiều nước vốn từ nước nông nghiệp lạc hậu lên chủ nghĩa xã hội. Đó là một kiểu quá độ “ đặc biệt của đặc biệt “ ( tất nhiên phải trải qua nhiều giai đoạn khó khăn, phức tạp, lâu dài, chủ yếu vì chưa qua trường học dân chủ tư sản và chưa có cơ sở vật chất – kỹ thuật hiện đại ). Nhưng trong thời đại đế quốc chủ nghĩa, thời đại của cách mạng xã hội chủ nghĩa trên thế giới thì hàng trăm nước đó vẫn có thể thực hiện kiểu quá độ “ đặc biệt của đặc biệt “ đó.
Những nước thuộc các kiểu quá độ bỏ qua, đương nhiên phải có Đảng Cộng sản lãnh đạo nhân dân giành chính quyền, có đường lối xây dựng và bảo vệ đất nước theo mục tiêu xã hội chủ nghĩa, tận dụng những thành quả của cách mạng xã hội chủ nghĩa, của chủ nghĩa tư bản và của cả nhân loại để quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Theo Lê Nin ở các nước này cần khắc phục những biểu hiện của tính tiểu tư sản, tiểu nông trong Đảng Cộng sản, trong quần chúng; chống mọi kẻ thù phá hoại,… để từng bước quá độ lên chủ nghĩa xã hội phải trải qua rất nhiều “ những bước quá độ nhỏ “ , những hình thức trung gian quá độ “ đan xen giữa các thành phần và các mảnh của chủ nghĩa tư bản lẫn chủ nghĩa xã hội,… Do đó, “ các nước quá độ bỏ qua “ dù là quá độ rút ngắn thì cũng không thể nóng vội đốt cháy giai đoạn mà phải vận dụng đúng những quy luật khách quan, những tiên đề và những điều kiện cụ thể để giành thắng lợi từng bước, trên tất cả các lĩnh vực của xã hội.
Quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
3Quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH năm 1991 đã phác họa mô hình CNXH mà nhân dân ta xây dựng với sáu đặc trưng. Đại hội lần thứ X bổ sung, phát triển, làm cho mô hình CNXH đang được xây dựng ở nước ta toàn diện hơn, hoàn chỉnh hơn. Đó là: "Xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng là một xã hội dân giàu, nước mạnh, công bằng, dân chủ, văn minh; do nhân dân làm chủ; có nền kinh tế phát triển cao, dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất; có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; con người được giải phóng khỏi áp bức, bất công, có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, phát triển toàn diện; các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tương trợ và giúp đỡ nhau cùng tiến bộ; có nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản; có quan hệ hữu nghị và hợp tác với nhân dân các nước trên thế giới".
Mô hình CNXH nêu trên thể hiện quan điểm Mác - Lê-nin về CNXH. Một mặt, lấy phục vụ con người làm mục đích, tức là "tất cả vì con người". Mặt khác, lấy việc phát huy sức mạnh của con người làm động lực chủ yếu để xây dựng thành công CNXH, tức là "tất cả do con người". Đồng thời, mô hình trên cũng thể hiện sự quán triệt sâu sắc tư tưởng Hồ Chí Minh về CNXH. Mô hình ấy biểu hiện như một kết cấu tổng thể, ổn định tương đối, nó không phải là một mô hình khép kín và cứng nhắc. Mô hình CNXH thời kỳ đổi mới ở nước ta chứa đựng khả năng mở rộng nội hàm, tiếp tục bổ sung những nét mới là kết quả của việc không ngừng nâng cao trình độ lý luận và tổng kết thực tiễn phong phú, đa dạng. Nó là kết quả của sự kết hợp hài hòa cái phổ biến và cái đặc thù, cái chung và cái riêng để tạo nên một mô hình có tên gọi: mô hình CNXH Việt Nam. Nó thể hiện xu hướng gắn kết hợp lý tiến trình phát triển của CNXH với sự vận động không ngừng của nhân loại đi lên phía trước, kế thừa những thành tựu tiến bộ của loài người để xây dựng thành công CNXH.
Thực tế 24 năm qua đã chứng minh, với mô hình này, chúng ta đã thu được những thành tựu, to lớn, có ý nghĩa lịch sử. Thời điểm hiện nay đã có yêu cầu bức thiết và những điều kiện cơ bản đã chín muồi cho việc bổ sung phát triển Cương lĩnh trong đó có mô hình CNXH của nước ta.
Lãnh đạo công cuộc đổi mới, nhận thức của Đảng về con đường quá độ lên CNXH của nước ta có những đổi mới sâu sắc. Nếu trước đây thường nói, nước ta quá độ lên CNXH "bỏ qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa", thì từ Đại hội lần thứ IX trong các văn kiện chính thức của Đảng, Nhà nước diễn đạt là: Nước ta quá độ lên CNXH "bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa".
Việc "bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa" được giải thích rõ về hai phương diện: Thứ nhất, bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa (TBCN) là "bỏ qua việc xác lập vị trí thống trị của quan hệ sản xuất và kiến trúc thượng tầng tư bản chủ nghĩa". Thứ hai, trong khi bỏ qua những mặt đó, cần "tiếp thu, kế thừa những thành tựu mà nhân loại đã đạt được dưới chế độ tư bản chủ nghĩa, đặc biệt về khoa học-công nghệ để phát triển nhanh lực lượng sản xuất, xây dựng nền kinh tế hiện đại".
Nhận thức trên đây là kết quả của sự đổi mới tư duy về CNXH, về mối quan hệ giữa CNXH và CNTB. Tư duy "cũ" hiểu sự ra đời của CNXH là kết quả của sự phủ định triệt để CNTB, từ đó có nơi có lúc cho rằng cái gì càng xa với CNTB thì càng gần với CNXH. Tư duy mới phân biệt sự khác nhau về chất giữa CNXH và CNTB, nhưng đặt CNXH và CNTB vào lịch trình chung của sự tiến hóa nhân loại qua năm hình thái kinh tế - xã hội để xác định vị trí của CNTB như là một giai đoạn phát triển cao của văn minh nhân loại và là nấc thang cận kề để loài người từ đó bước sang nấc thang cao hơn là CNXH.
Trong thời đại ngày nay, trên phạm vi thế giới, sự nghiệp giải phóng những người lao động bị áp bức, bóc lột, sự nghiệp giải phóng xã hội khỏi tình trạng bế tắc đòi hỏi thay thế CNTB bằng một chế độ xã hội tiến bộ hơn. Sự phủ định CNTB là một tất yếu lịch sử và đã thành hiện thực từ Cách mạng XHCN Tháng Mười Nga (1917). Dù hiện nay CNXH thế giới đang lâm vào khủng hoảng, xu hướng đó không hề thay đổi.
Ở nước ta tiến trình của cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân kéo dài 30 năm đã đem lại những thành tựu to lớn, tạo nên những tiền đề để nước ta bước vào thời kỳ quá độ lên CNXH. Những thành tựu và những tiền đề đó (nhất là những thành tựu trong lĩnh vực xây dựng kiến trúc thượng tầng và những tiền đề về chính trị, xã hội), không dung nạp sự thống trị của quan hệ sản xuất và kiến trúc thượng tầng TBCN. Thậm chí, những thành tựu đó sẽ bị hủy hoại, những tiền đề đó sẽ bị phủ định, nếu đất nước đi theo con đường TBCN.
Nước ta cần "tiếp thu, kế thừa những thành tựu mà nhân loại đã đạt được dưới chế độ tư bản" bởi vì:
Một là, "bỏ qua" chế độ TBCN nhưng nước ta vẫn phải tôn trọng quá trình lịch sử - tự nhiên của sự chuyển biến từ hình thái kinh tế - xã hội này sang hình thái kinh tế - xã hội khác, đặc biệt, phải tôn trọng quá trình lịch sử tự nhiên của lực lượng sản xuất, của các nhân tố kinh tế - kỹ thuật mà xét đến cùng là những nhân tố quyết định sự ra đời, tồn tại và phát triển của chế độ mới.
Hai là, từ một nước chậm phát triển, bằng "con đường rút ngắn" đi lên CNXH, tất yếu nước ta phải trải qua một thời kỳ quá độ lâu dài trong đó có sự xen kẽ "những mảnh của chủ nghĩa xã hội" với "những mảnh của CNTB" (Lê-nin). Trạng thái xen kẽ ấy làm cho các yếu tố của CNXH và các yếu tố của CNTB vừa đấu tranh với nhau, vừa "chung sống hòa bình", vừa bài trừ, vừa nương tựa, thâm nhập vào nhau.
Ba là, nước ta "bỏ qua" chế độ TBCN nhưng không thể bỏ qua quá trình phát triển có tính quy luật từ sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn mà CNTB đã từng trải qua: sản xuất hàng hóa; tiến hành cách mạng kỹ thuật - theo nhu cầu phát triển biện chứng của kỹ thuật trong hiệp tác giản đơn, công trường thủ công, đại công nghiệp cơ khí - để chuyển lao động thủ công thành lao động sử dụng máy móc; mở rộng giao lưu trong nước và giao lưu quốc tế, khắc phục tâm lý sản xuất nhỏ và tư tưởng phong kiến...
Bốn là, "bỏ qua" chế độ TBCN nhưng phải kế thừa những thành tựu tiến bộ mà loài người tạo ra trong chế độ CNTB. Sau khi "bỏ qua" phần lạc hậu của CNTB (địa vị thống trị của quan hệ sản xuất và kiến trúc thượng tầng TBCN), chúng ta cần tiếp thu những thành tựu của CNTB và sử dụng chúng vào mục tiêu xây dựng CNXH. "Bỏ qua" chế độ TBCN, nhưng đồng thời sử dụng những thành quả văn minh trong CNTB một cách chủ động và tự giác, chọn lọc kỹ lưỡng trong điều kiện mới - điều kiện có nhà nước XHCN và với chủ thể mới là nhân dân lao động.
Nhận thức mới của Đảng ta về mô hình CNXH và con đường đi lên CNXH đã được thể hiện nhất quán. Sự nhất quán đó sẽ tạo nên một nền tảng vững chắc cho hệ thống quan điểm lý luận về CNXH và con đường đi lên CNXH ở nước ta đã bắt đầu hình thành và sẽ từng bước được bổ sung, hoàn thiện.
Thành tựu đó có ý nghĩa lớn nhưng vẫn là bước đầu.Vì, một mặt, nó cần được nâng lên trình độ cao hơn về lý luận để trở thành một triết lý, hay nói cách khác - một bộ phận chủ đạo trong chủ thuyết chung của công cuộc xây dựng CNXH ở nước ta; mặt khác, nó phải được mở rộng sang mọi phương diện và các lĩnh vực quan trọng của công cuộc xây dựng CNXH mà Nghị quyết của các Đại hội Đảng đã nêu thành nhiệm vụ trực tiếp và đang được quan tâm sâu sắc. Thí dụ: vấn đề xây dựng quan hệ sản xuất XHCN chủ yếu dựa trên chế độ công hữu từ một nền kinh tế đa thành phần, đa sở hữu hiện nay; vấn đề công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong bối cảnh của thời kỳ khoa học-công nghệ bùng nổ và xuất hiện kinh tế tri thức, đặc biệt là công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp và nông thôn theo con đường xã hội chủ nghĩa; vấn đề xây dựng và phát triển nền dân chủ XHCN, trong đó mấu chốt là xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN, đi liền với tiến bộ và công bằng xã hội, kết hợp những giá trị dân tộc truyền thống với những tinh hoa của nền văn minh hiện đại; vấn đề xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ trong bối cảnh hội nhập và phải đối mặt với những thách thức từ nhiều phía...
Điều kiện tiên quyết cho sự thành công của việc đồng thời thực hiện hai nhiệm vụ nói trên là: Kiên định nền tảng tư tưởng của Đảng, tiếp tục kế thừa và phát triển những kết quả nhận thức về mô hình và con đường đi lên CNXH ở nước ta và luôn bám sát thực tiễn, coi trọng việc tổng kết thực tiễn đổi mới của đất nước trong bối cảnh thế giới luôn có những thay đổi.
4Tư duy của Đảng về thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội trước thời kỳ đổi mới.
Trước đổi mới, quan điểm về chủ nghĩa xã hội và con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta, chịu ảnh hưởng sâu sắc về nhiều mặt các quan điểm của Liên Xô, Trung Quốc, phổ biến và rõ nét nhất là chịu ảnh hưởng của mô hình Xôviết. Đây cũng là tình hình chung trong tất cả các nước thuộc hệ thống xã hội chủ nghĩa.
Để thấy được sự phát triển tư duy lý luận của Đảng về chủ nghĩa xã hội, không chỉ nhìn nhận những quan niệm trước đây, mà còn phải tìm thấy những nguyên nhân dẫn đến nhận thức đó, đánh giá nó trên những quan điểm thực tiễn, lịch sử cụ thể.
Thứ nhất, cần phải đánh giá đúng những tính đặc thù lịch sử của Việt Nam trong quan hệ với tính phổ biến của chủ nghĩa xã hội hiện thực thế giới. Quá độ lên chủ nghĩa với điểm xuất phát thấp, từ xã hội nông nghiệp truyền thống, từ chế độ thực dân nửa phong kiến, bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa tới chủ nghĩa xã hội; bước quá độ tới chủ nghĩa xã hội lại không đồng nhất ở mỗi miền do hoàn cảnh đất nước bị chia cắt làm hai miền với chế độ chính trị khác nhau. Trong lịch sử chủ nghĩa xã hội hiện thực, Việt Nam dường như là một hiện tượng đặc thù tiêu biểu nhất, một ngoại lệ khác hẳn với hoàn cảnh và thông lệ của nhiều nước xã hội chủ nghĩa.
Thứ hai, sau giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc, vào lúc mà Việt Nam có điều kiện triển khai các nhiệm vụ cách mạng xã hội chủ nghĩa trên cả nước thì lại liên tiếp xảy ra hai cuộc chiến tranh cục bộ ở hai đầu biên giới ( Tây Nam – 1978, phía Bắc – 1979 ) trong khi hậu quả chiến tranh chưa được khắc phục.
Trong khoảng 10 năm đầu trước đổi mới ( 1975 – 1985 ), Việt Nam đứng trước những tác động phức tạp của tình hình quốc tế.
-Quan hệ Việt Nam – Campuchia và quan hệ Việt Nam – Trung Quốc căng thẳng kéo dài.
-Mỹ phát động chiến lược bao vây cấm vận nhằm cô lập Việt Nam, đẩy tình hình kinh tế – xã hội nước ta vốn khó khăn tới những khó khăn lớn hơn, gay gắt hơn.
-Các nước xã hội chủ nghĩa, kể cả Liên Xô đang trong thời kỳ trì trệ và khủng khoảng, sự giúp đỡ và chi viện cho Việt Nam không còn như trước.
-Các nước tư bản chủ nghĩa tranh thủ thành tựu của khoa học – công nghệ, đẩy nhanh tốc độ phát triển, có ưu thế về tiềm lực kinh tế và tiềm lực khoa học – công nghệ, tạo nên những thách thức đối với chủ nghĩa xã hội.
Vào lúc này, thực tiễn đã hối thúc mạnh mẽ những cải cách, đổi mới chủ nghĩa xã hội. Trong khi ở Việt Nam vẫn bị những cản của mô hình, cơ chế đã tồn tại từ lâu kìm hãm. Những biểu hiện chủ quan, duy ý chí, coi thường quy luật khách quan đã tác động tiêu cực và ảnh hưởng nặng nề vào các quyết định đường lối, chính sách. Sự phát triển đơn tuyến, khép kín trong phạm vi, khuôn khổ của hệ thống chủ nghĩa xã hội đã làm cho chủ nghĩa xã hội không tiếp cận được với văn minh hiện đại của phương Tây. Sự lạc hậu, tụt hậu trong phát triển là sự yếu kém phổ biến của chủ nghĩa xã hội. Việt Nam cũng nằm trong tầm ảnh hưởng đó, thậm chí căn bệnh chủ quan duy ý chí, tả khuynh còn nặng nề hơn bởi những đánh giá thái quá về chủ quan sau giải phóng miền Nam.
Thứ ba, do đặc điểm của cơ sở xã hội – lịch sử và những hạn chế cảu phát triển không qua tư bản chủ nghĩa, ở nước ta khuynh hướng giáo điều và chủ quan duy ý chí mặc dù đã được phát hiện và nhận thức để quyết tâm đi vào đổi mới, nhưng căn bệnh này dẫn dễ tái sinh và không loại trừ khả năng mắc phải sai lầm cũ trong hình thức mới. Do vậy, đổi mới là một cuộc đấu tranh giữa những cái mới, cái tiến bộ với cái cũ, cái lạc hậu, lỗi thời; giữa thái độ tích cực đổi mới và sự níu kéo của trì trệ, bảo thủ.
Đổi mới không chỉ là quan điểm mà còn là vấn đề phương pháp, không chỉ là động cơ và còn là trình độ, không chỉ là ý thức mà còn là bản lĩnh.
Bước vào đổi mới, Đảng ta nhấn mạnh trước hết phải đổi mới tư duy, nhất là tư duy kinh tế. Đây là tiền đề nhận thức để đổi mới trong thực tiễn, từ đổi mới tổ chức đến cơ chế, chính sách, đến con người.
Có không ít vấn đề cả phê phán và khắc phục những cái cũ quá thời, lạc hậu lẫn khẳng định những cái mới tiến bộ thuộc về xu hướng của phát triển mà chúng ta thường vấp phải nhưng chưa giải quyết thấu đáo, triệt để, chưa đưa ra kết luận tường minh. Điều đó chỉ có thể giải thích với hai căn cứ: hoặc là thực tiễn chưa phát triển đầy đủ, giúp ta phân biệt đúng – sai, khẳng định và phủ định, đó là xét về quan hệ thực tiễn – lý luận. Hoặc là lý luận chưa vượt ra khỏi tình trạng lạc hậu, giáo điều, sự lạc hậu so với thực tiễn, đi sau thực tiễn, lý luận chưa đủ sức dự báo, soi đường cho thực tiễn, hướng dẫn thực tiễn phát triển.
Một ví dụ: vấn đề đảng viên có được làm kinh tế tư nhân hay không, lien quan tới quan niệm bóc lột trong điều kiện nền kinh tế thị trường,… Đây là vấn đề thường ra đặt ra từ nhiều Đại hội, phải trải qua hơn hai mươi năm đổi mới, mới bắt đầu được nhận thức mới tuy chưa phải đầy đủ, thấu đáo.
5Tư duy lý luận của Đảng về thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội trong thời kỳ đổi mới.
Đại hội VI đặt cơ sở cho sự hình thành lý luận đổi mới mà con xây dựng nhận thức về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta thông qua đổi mới như một cuộc cách mạng lâu dài, toàn diện và triệt để, có kế thừa và có phát triển.
Đại hội VII, trên cơ sở tổng kết thực tiễn 5 năm đầu của đổi mới từ Đại hội VI thông qua Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
Lần đầu tiên đã đề cập một cách có hệ thống dưới hình thức luận đề, xác định 6 đặc trưng của chủ nghĩa xã hội.
Sáu đặc trưng đó chính là những dấu hiệu ( đặc điểm, tiêu chí ) nhận biết bản chất – mục tiêu – động lực của chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam do Đảng nêu ra, xuất phát từ thực tiễn đổi mới.
Nhận thức được 6 đặc trưng này trươc hết nhận thức được những thuộc tính bản chất của chủ nghĩa xã hội. Bản chất ấy cũng đồng thời nói lên tính hướng đích, tức là những mục tiêu mà chủ nghĩa xã hội vươn tới. Xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội cũng như toàn bộ tiến trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta là từng bước đạt đến cái bản chất và mục tiêu ấy của chủ nghĩa xã hội. Động lực và các nhân tố động lực thúc đẩy sự hình thành và phát triển chủ nghĩa xã hội ở nước ta cũng thể hiện thông qua 6 đặc trưng ấy hoặc trực tiếp hoặc gián tiếp.
Như vậy, quan hệ giữa bản chất – mục tiêu và động lực của chủ nghĩa xã hội là quan hệ thống nhất, trùng hợp và tác động lẫn nhau theo quy luật nhân – quả và tương tác biện chứng giữa khả năng và hiện thực, giữa kinh tế – chính trị – văn hóa và xã hội, giữa dân tộc và quốc tế, giữa chủ thể con người và khách thể xã hội.
Sáu đặc trưng của xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng là một xã hội :
-Do nhân lao động làm chủ.
-Có một nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và chế độ công hữu về các tư liệu sản xuất chủ yếu.
-Có một nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.
-Con người được giải phóng khỏi áp bức, bóc lột, bất công, làm theo năng lực, hưởng theo lao động, có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện cá nhân.
-Các dân tộc trong nước bình đẳng, đoàn kết và giúp đỡ lẫn nhau cùng tiến bộ.
-Có quan hệ hữu nghị và hợp tác với nhân dân các nước trên thế giới.
Đại hội VII, IX, X tiếp tục bổ sung quan niệm về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Tính đúng đắn từ 6 đặc trưng xã hội chủ nghĩa được hiểu trên các mặt như :
Thứ nhất, đã xác định chủ thể xã hội chủ nghĩa là nhân dân lao động, hơn nữa, chủ thể đó không chỉ có vị thế của người chủ xã hội mà còn là năng lực để làm chủ xã hội.
Chủ thể ấy không phải là cá nhân, của số ít, của một nhóm thiểu số mà là đông đảo quần chúng nhân. Nội dung những đặc trưng cho thấy bản chất của chủ nghĩa xã hội trong quan niệm của Đảng ta là thống nhất, trùng hợp với quan niệm của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Đó là độc lập cho Tổ quốc, tự do cho dân tộc va hạnh phúc cho đồng bào.
Thứ hai, bản chất kinh tế của chủ nghĩa xã hội là một nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và chế độ công hữu về tư liệu sản xuất chủ yếu
Ở đặc trưng này, tư duy lý luận của Đảng trong đổi mới đã hướng theo yêu cầu chính xác hóa, khoa học hóa, thể hiện thái độ tôn trọng quy luật khách quan trong phát triển mà quy luật lớn nhất, phổ biến nhất là quy luật là sự phù hợp về quan hệ sản xuất với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất.
Chú trọng tới tiêu chí “ nền kinh tế phát triển cao “ đã trở thành định hướng để dứt khoát xóa bỏ cơ chế tập trung quan liêu bao cấp, đi vào kinh tế hàng hóa, phát triển sản xuất hàng hóa, áp dụng cơ chế thị trường, chấp nhận cạnh tranh, phân hóa, vượt trội để tạo động lực phát triển.
Đại hội VI của Đảng đưa ra kết luận mới sản xuất hàng hóa không đối lập với chủ nghĩa xã hội, mà là thành tựu phát triển của nhân loại, tồn tại khách quan, cần thiết cho công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội. Tuy nhiên từ Đại hội VI, qua Đại hội VII, đến Đại hội VIII vấn đề nến kinh tế nước ta hiện nay và lâu dài chưa có câu trả lời xác định
Đến Đại hội IX đã chỉ rõ : thị trường không chỉ là cơ chế vận hành mà còn là thuộc tính nội tại của nền kinh tế trong thời kỳ quá độ, cả trong chủ nghĩa xã hội. Nhưng ở trình độ, tính chất phát triển của nước ta hiện nay, thời kỳ quá độ mới chỉ đi qua chặng đường đầu, nền kinh tế mới chuyển đổi, còn đang là một nền kinh tế chuyển đổi, thì một nền kinh tế thị trường phát triển, thành thục vẫn chưa có ở nước ta. Đó mới chỉ là kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Nó chứng minh cho đột phá lý luận kinh tế của Đảng ta từ mô hình kinh tế. Đây là mô hình kinh tế tổng quát trong suốt thời kỳ quá độ ở nước ta.
Thứ ba, bản chất – mục tiêu – động lực của chủ nghĩa xã hội thể hiện qua 6 đặc trưng xã hội chủ nghĩa mà Đảng đã nêu lên trong cương lĩnh là chỉnh thể kinh tế – chính trị – văn hóa – xã hội nhằm vào mục đích phục vụ cuộc sống nhân lao động.
Tư tưởng về xây dựng nên văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc được ghi trong Cương lĩnh từ Đại hội VI được cụ thể hóa và phát triển trong nghị quyết Trương ương 5 khóa VIII, được tổng kết và đánh giá trong Hội nghị Trung ương 10 khóa IX. Thực chất sâu xa của xây dựng văn hóa là xây dựng con người, đạo đức, lối sống. Văn hóa đổi mới và đổi mới là một sự nghiệp xây dựng và phát triển văn hóa.
Quá trình đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa ngày nay không đơn thuần là một quá trình kinh tế – kĩ thuật – công nghệ mà còn là một quá trình văn hóa, đặc biệt là giữ gìn và phát huy bản sắc dân tộc. Đât nước đã mở cửa với thế giới bên ngoài, đòi hỏi phải phát huy nội lực từ văn hóa, từ bản sắc và bản lĩnh văn hóa dân tộc.
Điều đó được thể hiện sự nhận thức và vận dụng tư tưởng chiến lược của Chủ tích Hồ Chí Minh “ Văn hóa không ở bên ngoài mà ở trong kinh tế và chính trị “ , phải đem văn hóa soi đường cho quốc dân đi, dùng văn hóa và đạo đức để sửa chữa tệ quan lieu và thói phù hoa xa xỉ.
Thứ tư, Đảng ta đặc biệt chú trọng tới sự phát triển của dân tộc, phát huy động lực quan trọng và mạnh mẽ nhất là đoàn kết dân tộc, có chính sách dân tộc bình đẳng, đoàn kết, giúp đỡ, tương trợ lẫn nhau trong phát triển ở quốc gia đa dân tộc như ở Việt Nam. Một trong những nét nổi bật trong tư duy là, Đảng khẳng định đường lối đối ngoại hòa bình, hữu nghị, hợp tác. Việt Nam mong muốn làm bạn của tất cả các nước, sẵn sàng hợp tác song phương và đa phương.
Từ Đại hội VI đến Đại hội IX Đảng ta xác định và không ngừng bổ sung, hoàn thiện với các tiêu chí : dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Đây là mục tiêu của đổi mới cũng là bản chất – mục tiêu – động lực của chủ nghĩa xã hội.
Tuy nhiên, quá trình đổi mới tư duy lý luận của Đảng về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta còn một số hạn chế :
a.Chưa làm rõ các đặc điểm ở nước ta trong bước quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa cũng như chưa làm rõ vần đề phân kỳ trong thời kỳ quá độ.
b.Lý luận về kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta mới chỉ bắt đầu được nghiên cứu trong những năm gần đây và còn nhiều điểm chưa rõ.
c.Lý luận về Đảng Cộng sản cầm quyền và xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân, những bảo đảm dân chủ và phát huy quyền làm chủ của nhân dân trong điều kiện một Đảng Cộng sản cầm quyền mới chỉ dừng lại ở hệ thống quan điểm, nguyên tắc và phương hướng chỉ đạo.
d.Mặc dù nhận thức được vai trò quốc sách hàng đầu của khoa học – công nghệ và giáo dục – đào tạo, đã thấy rõ văn hóa là động lực phát triển kinh tế xã hội, là nền tảng tinh thần của xã hội, song chúng ta vẫn chưa có được những chính sách và giải pháp đột phá để thúc đẩy phát triển khoa học – công nghệ, đặc biệt là lý luận và khoa học xã hội – nhân văn; chưa ngăn chặn được tình trạng suy thoái ngày càng nghiêm trọng của đạo đức xã hội
Con đường cách mạng của nước ta từ một nước nông nghiệp tiến lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư ban chủ nghĩa, tạo ra sự biến đổi về chất của xã hội trên tất cả các lĩnh vực là sự nghiệp khó khăn, phức tạp. Cho nên thời kỳ quá độ ở nước ta rất lâu dài với nhiều chặng đường, nhiều hình thức tổ chức kinh tế, xã hội có tính chất quá độ.
Đồng chí Nguyễn Văn Linh, Tổng bí thư đầu tiên của Đảng thời kì đổi mới nhận mạnh : nói đổi mới tư duy, điều căn bản là phải đổi mới tư duy lý luận. Đồng chí đặt vấn đề để xứng đáng là người lãnh đạo chính trị đối với xã hội, với niềm tin yêu của dân, Đảng phải không ngừng nâng cao và hoàn thiện sự lãnh đạo của mình. Công cuộc đổi mới hiện nay đòi hỏi mỗi cán bộ đảng viên phải không ngừng học tập, nếu thiếu trình độ lý luận, học vấn thì khó mà làm được. Đây là lĩnh vực đầy rẫy những cấp bách, thậm chí là cấp bách nhất phải đổi mới.
II.Quá trình hình thành và phát triển tư duy lý luận của Đảng về con đường quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta trong quá trình đổi mới:
1Vai trò của tư duy lý luận và các nhân tố thúc đẩy quá trình tư duy lý luân.
Đường lối đổi mới Đảng trước hết là một quyết định chính trị đúng đắn và kịp thời, tao cho xã hội những khả năng khắc phục sự trì trệ và khủng hoảng. Đường lối đó chứa đựng một tư tưởng sâu sắc, đó là tư tưởng giải phóng để phát triển. Giải phóng sức sản xuất và giải phóng tinh thần, đó là hai phương diện của một quá trình. Nó đem lại sinh khí mới cho xã hội ta. Đó là chỗ gặp gỡ và thống nhất tự nhiên giữa nhu cầu khách quan của sự phát triển xã hội với nhu cầu, nguyện vọng sâu xa của mỗi người trong tư cách cá nhân và công dân của nó nhằm tự biểu hiện và tự khẳng định nhưng năng lực sáng tạo để phát triển mình.
Thực tiễn đổi mới xã hội một mặt đã cung cấp những dự kiện để hình thành và phát triển lý luận đổi mới, tư duy mới về chủ nghĩa xã hội, mặt khác đã cho thấy mức độ đầy đủ hơn tình trạng lạc hậu, bất cập của lý luận so với sự phát triển năng động của thực tiễn. Đó chính là sự lạc hâu và bất cập của lý luận về chủ nghĩa xã hội và xây dựng chủ nghĩa xã hội mang tính chất giáo điều và kinh nghiệm chủ nghĩa, cứng nhắc và thô sơ trong cách hiểu và vận dụng chủ nghĩa Mác – Lênin. Hoạt động thực tiễn của con người lại đòi hỏi sự soi sáng và dẫn đường của lý luận, một lý luận phản ánh đúng bản chất của thực tiễn và phù hợp với sự phát triển của thực tiễn. Lý luận đó phải đủ sức làm sáng tỏ rằng, lựa chọn con đường xã hội chủ nghĩa là lựa chọn một hình thức hợp lý và triển vọng phát triển hơn cả đối với sự phát triển của xã hội, của thế giới ngày nay. Chính phép duy vật mácxit cung cấp một cách nhìn khoa học về bản chất của thế giới và lý tưởng giải phóng con người, giải phóng xã hội ra khỏi trật tự xã hội cũ bất công, tàn bạo, bóc lột và nô dịch để xây dựng một trật tự thế giới mới tự do, công bằng, nhân đạo,... Chủ nghĩa Mác - Lê Nin là một lý luận như thế. Đó là lý luận về phát triễn xã hội và giải phóng con người, kết hợp hữu cơ giữa chủ nghĩa duy lý ( về mặt khoa học ) và chủ nghĩa nhân đạo ( về mặt tư tưởng ) ở trình độ hiện đại. Chủ nghĩa Mác – Lê Nin đặt vấn đề phát triển tự do và toàn diện của con người là mục đích tự thân của lịch sử, chủ nghĩa xã hội là hình thức tổ chức xã hội mà thực tiễn phát triển của lịch sử đặt ra và tư duy khoa học nhận thức được để đi tới mục tiêu.
2. Lý luận về thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội theo quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lê Nin.
Quá độ bỏ qua giai đoạn phát triển đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa của nhiều nước vốn từ nước nông nghiệp lạc hậu lên chủ nghĩa xã hội. Đó là một kiểu quá độ “ đặc biệt của đặc biệt “ ( tất nhiên phải trải qua nhiều giai đoạn khó khăn, phức tạp, lâu dài, chủ yếu vì chưa qua trường học dân chủ tư sản và chưa có cơ sở vật chất – kỹ thuật hiện đại ). Nhưng trong thời đại đế quốc chủ nghĩa, thời đại của cách mạng xã hội chủ nghĩa trên thế giới thì hàng trăm nước đó vẫn có thể thực hiện kiểu quá độ “ đặc biệt của đặc biệt “ đó.
Những nước thuộc các kiểu quá độ bỏ qua, đương nhiên phải có Đảng Cộng sản lãnh đạo nhân dân giành chính quyền, có đường lối xây dựng và bảo vệ đất nước theo mục tiêu xã hội chủ nghĩa, tận dụng những thành quả của cách mạng xã hội chủ nghĩa, của chủ nghĩa tư bản và của cả nhân loại để quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Theo Lê Nin ở các nước này cần khắc phục những biểu hiện của tính tiểu tư sản, tiểu nông trong Đảng Cộng sản, trong quần chúng; chống mọi kẻ thù phá hoại,… để từng bước quá độ lên chủ nghĩa xã hội phải trải qua rất nhiều “ những bước quá độ nhỏ “ , những hình thức trung gian quá độ “ đan xen giữa các thành phần và các mảnh của chủ nghĩa tư bản lẫn chủ nghĩa xã hội,… Do đó, “ các nước quá độ bỏ qua “ dù là quá độ rút ngắn thì cũng không thể nóng vội đốt cháy giai đoạn mà phải vận dụng đúng những quy luật khách quan, những tiên đề và những điều kiện cụ thể để giành thắng lợi từng bước, trên tất cả các lĩnh vực của xã hội.
Quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
3Quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH năm 1991 đã phác họa mô hình CNXH mà nhân dân ta xây dựng với sáu đặc trưng. Đại hội lần thứ X bổ sung, phát triển, làm cho mô hình CNXH đang được xây dựng ở nước ta toàn diện hơn, hoàn chỉnh hơn. Đó là: "Xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng là một xã hội dân giàu, nước mạnh, công bằng, dân chủ, văn minh; do nhân dân làm chủ; có nền kinh tế phát triển cao, dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất; có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; con người được giải phóng khỏi áp bức, bất công, có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, phát triển toàn diện; các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tương trợ và giúp đỡ nhau cùng tiến bộ; có nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản; có quan hệ hữu nghị và hợp tác với nhân dân các nước trên thế giới".
Mô hình CNXH nêu trên thể hiện quan điểm Mác - Lê-nin về CNXH. Một mặt, lấy phục vụ con người làm mục đích, tức là "tất cả vì con người". Mặt khác, lấy việc phát huy sức mạnh của con người làm động lực chủ yếu để xây dựng thành công CNXH, tức là "tất cả do con người". Đồng thời, mô hình trên cũng thể hiện sự quán triệt sâu sắc tư tưởng Hồ Chí Minh về CNXH. Mô hình ấy biểu hiện như một kết cấu tổng thể, ổn định tương đối, nó không phải là một mô hình khép kín và cứng nhắc. Mô hình CNXH thời kỳ đổi mới ở nước ta chứa đựng khả năng mở rộng nội hàm, tiếp tục bổ sung những nét mới là kết quả của việc không ngừng nâng cao trình độ lý luận và tổng kết thực tiễn phong phú, đa dạng. Nó là kết quả của sự kết hợp hài hòa cái phổ biến và cái đặc thù, cái chung và cái riêng để tạo nên một mô hình có tên gọi: mô hình CNXH Việt Nam. Nó thể hiện xu hướng gắn kết hợp lý tiến trình phát triển của CNXH với sự vận động không ngừng của nhân loại đi lên phía trước, kế thừa những thành tựu tiến bộ của loài người để xây dựng thành công CNXH.
Thực tế 24 năm qua đã chứng minh, với mô hình này, chúng ta đã thu được những thành tựu, to lớn, có ý nghĩa lịch sử. Thời điểm hiện nay đã có yêu cầu bức thiết và những điều kiện cơ bản đã chín muồi cho việc bổ sung phát triển Cương lĩnh trong đó có mô hình CNXH của nước ta.
Lãnh đạo công cuộc đổi mới, nhận thức của Đảng về con đường quá độ lên CNXH của nước ta có những đổi mới sâu sắc. Nếu trước đây thường nói, nước ta quá độ lên CNXH "bỏ qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa", thì từ Đại hội lần thứ IX trong các văn kiện chính thức của Đảng, Nhà nước diễn đạt là: Nước ta quá độ lên CNXH "bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa".
Việc "bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa" được giải thích rõ về hai phương diện: Thứ nhất, bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa (TBCN) là "bỏ qua việc xác lập vị trí thống trị của quan hệ sản xuất và kiến trúc thượng tầng tư bản chủ nghĩa". Thứ hai, trong khi bỏ qua những mặt đó, cần "tiếp thu, kế thừa những thành tựu mà nhân loại đã đạt được dưới chế độ tư bản chủ nghĩa, đặc biệt về khoa học-công nghệ để phát triển nhanh lực lượng sản xuất, xây dựng nền kinh tế hiện đại".
Nhận thức trên đây là kết quả của sự đổi mới tư duy về CNXH, về mối quan hệ giữa CNXH và CNTB. Tư duy "cũ" hiểu sự ra đời của CNXH là kết quả của sự phủ định triệt để CNTB, từ đó có nơi có lúc cho rằng cái gì càng xa với CNTB thì càng gần với CNXH. Tư duy mới phân biệt sự khác nhau về chất giữa CNXH và CNTB, nhưng đặt CNXH và CNTB vào lịch trình chung của sự tiến hóa nhân loại qua năm hình thái kinh tế - xã hội để xác định vị trí của CNTB như là một giai đoạn phát triển cao của văn minh nhân loại và là nấc thang cận kề để loài người từ đó bước sang nấc thang cao hơn là CNXH.
Trong thời đại ngày nay, trên phạm vi thế giới, sự nghiệp giải phóng những người lao động bị áp bức, bóc lột, sự nghiệp giải phóng xã hội khỏi tình trạng bế tắc đòi hỏi thay thế CNTB bằng một chế độ xã hội tiến bộ hơn. Sự phủ định CNTB là một tất yếu lịch sử và đã thành hiện thực từ Cách mạng XHCN Tháng Mười Nga (1917). Dù hiện nay CNXH thế giới đang lâm vào khủng hoảng, xu hướng đó không hề thay đổi.
Ở nước ta tiến trình của cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân kéo dài 30 năm đã đem lại những thành tựu to lớn, tạo nên những tiền đề để nước ta bước vào thời kỳ quá độ lên CNXH. Những thành tựu và những tiền đề đó (nhất là những thành tựu trong lĩnh vực xây dựng kiến trúc thượng tầng và những tiền đề về chính trị, xã hội), không dung nạp sự thống trị của quan hệ sản xuất và kiến trúc thượng tầng TBCN. Thậm chí, những thành tựu đó sẽ bị hủy hoại, những tiền đề đó sẽ bị phủ định, nếu đất nước đi theo con đường TBCN.
Nước ta cần "tiếp thu, kế thừa những thành tựu mà nhân loại đã đạt được dưới chế độ tư bản" bởi vì:
Một là, "bỏ qua" chế độ TBCN nhưng nước ta vẫn phải tôn trọng quá trình lịch sử - tự nhiên của sự chuyển biến từ hình thái kinh tế - xã hội này sang hình thái kinh tế - xã hội khác, đặc biệt, phải tôn trọng quá trình lịch sử tự nhiên của lực lượng sản xuất, của các nhân tố kinh tế - kỹ thuật mà xét đến cùng là những nhân tố quyết định sự ra đời, tồn tại và phát triển của chế độ mới.
Hai là, từ một nước chậm phát triển, bằng "con đường rút ngắn" đi lên CNXH, tất yếu nước ta phải trải qua một thời kỳ quá độ lâu dài trong đó có sự xen kẽ "những mảnh của chủ nghĩa xã hội" với "những mảnh của CNTB" (Lê-nin). Trạng thái xen kẽ ấy làm cho các yếu tố của CNXH và các yếu tố của CNTB vừa đấu tranh với nhau, vừa "chung sống hòa bình", vừa bài trừ, vừa nương tựa, thâm nhập vào nhau.
Ba là, nước ta "bỏ qua" chế độ TBCN nhưng không thể bỏ qua quá trình phát triển có tính quy luật từ sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn mà CNTB đã từng trải qua: sản xuất hàng hóa; tiến hành cách mạng kỹ thuật - theo nhu cầu phát triển biện chứng của kỹ thuật trong hiệp tác giản đơn, công trường thủ công, đại công nghiệp cơ khí - để chuyển lao động thủ công thành lao động sử dụng máy móc; mở rộng giao lưu trong nước và giao lưu quốc tế, khắc phục tâm lý sản xuất nhỏ và tư tưởng phong kiến...
Bốn là, "bỏ qua" chế độ TBCN nhưng phải kế thừa những thành tựu tiến bộ mà loài người tạo ra trong chế độ CNTB. Sau khi "bỏ qua" phần lạc hậu của CNTB (địa vị thống trị của quan hệ sản xuất và kiến trúc thượng tầng TBCN), chúng ta cần tiếp thu những thành tựu của CNTB và sử dụng chúng vào mục tiêu xây dựng CNXH. "Bỏ qua" chế độ TBCN, nhưng đồng thời sử dụng những thành quả văn minh trong CNTB một cách chủ động và tự giác, chọn lọc kỹ lưỡng trong điều kiện mới - điều kiện có nhà nước XHCN và với chủ thể mới là nhân dân lao động.
Nhận thức mới của Đảng ta về mô hình CNXH và con đường đi lên CNXH đã được thể hiện nhất quán. Sự nhất quán đó sẽ tạo nên một nền tảng vững chắc cho hệ thống quan điểm lý luận về CNXH và con đường đi lên CNXH ở nước ta đã bắt đầu hình thành và sẽ từng bước được bổ sung, hoàn thiện.
Thành tựu đó có ý nghĩa lớn nhưng vẫn là bước đầu.Vì, một mặt, nó cần được nâng lên trình độ cao hơn về lý luận để trở thành một triết lý, hay nói cách khác - một bộ phận chủ đạo trong chủ thuyết chung của công cuộc xây dựng CNXH ở nước ta; mặt khác, nó phải được mở rộng sang mọi phương diện và các lĩnh vực quan trọng của công cuộc xây dựng CNXH mà Nghị quyết của các Đại hội Đảng đã nêu thành nhiệm vụ trực tiếp và đang được quan tâm sâu sắc. Thí dụ: vấn đề xây dựng quan hệ sản xuất XHCN chủ yếu dựa trên chế độ công hữu từ một nền kinh tế đa thành phần, đa sở hữu hiện nay; vấn đề công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong bối cảnh của thời kỳ khoa học-công nghệ bùng nổ và xuất hiện kinh tế tri thức, đặc biệt là công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp và nông thôn theo con đường xã hội chủ nghĩa; vấn đề xây dựng và phát triển nền dân chủ XHCN, trong đó mấu chốt là xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN, đi liền với tiến bộ và công bằng xã hội, kết hợp những giá trị dân tộc truyền thống với những tinh hoa của nền văn minh hiện đại; vấn đề xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ trong bối cảnh hội nhập và phải đối mặt với những thách thức từ nhiều phía...
Điều kiện tiên quyết cho sự thành công của việc đồng thời thực hiện hai nhiệm vụ nói trên là: Kiên định nền tảng tư tưởng của Đảng, tiếp tục kế thừa và phát triển những kết quả nhận thức về mô hình và con đường đi lên CNXH ở nước ta và luôn bám sát thực tiễn, coi trọng việc tổng kết thực tiễn đổi mới của đất nước trong bối cảnh thế giới luôn có những thay đổi.
4Tư duy của Đảng về thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội trước thời kỳ đổi mới.
Trước đổi mới, quan điểm về chủ nghĩa xã hội và con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta, chịu ảnh hưởng sâu sắc về nhiều mặt các quan điểm của Liên Xô, Trung Quốc, phổ biến và rõ nét nhất là chịu ảnh hưởng của mô hình Xôviết. Đây cũng là tình hình chung trong tất cả các nước thuộc hệ thống xã hội chủ nghĩa.
Để thấy được sự phát triển tư duy lý luận của Đảng về chủ nghĩa xã hội, không chỉ nhìn nhận những quan niệm trước đây, mà còn phải tìm thấy những nguyên nhân dẫn đến nhận thức đó, đánh giá nó trên những quan điểm thực tiễn, lịch sử cụ thể.
Thứ nhất, cần phải đánh giá đúng những tính đặc thù lịch sử của Việt Nam trong quan hệ với tính phổ biến của chủ nghĩa xã hội hiện thực thế giới. Quá độ lên chủ nghĩa với điểm xuất phát thấp, từ xã hội nông nghiệp truyền thống, từ chế độ thực dân nửa phong kiến, bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa tới chủ nghĩa xã hội; bước quá độ tới chủ nghĩa xã hội lại không đồng nhất ở mỗi miền do hoàn cảnh đất nước bị chia cắt làm hai miền với chế độ chính trị khác nhau. Trong lịch sử chủ nghĩa xã hội hiện thực, Việt Nam dường như là một hiện tượng đặc thù tiêu biểu nhất, một ngoại lệ khác hẳn với hoàn cảnh và thông lệ của nhiều nước xã hội chủ nghĩa.
Thứ hai, sau giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc, vào lúc mà Việt Nam có điều kiện triển khai các nhiệm vụ cách mạng xã hội chủ nghĩa trên cả nước thì lại liên tiếp xảy ra hai cuộc chiến tranh cục bộ ở hai đầu biên giới ( Tây Nam – 1978, phía Bắc – 1979 ) trong khi hậu quả chiến tranh chưa được khắc phục.
Trong khoảng 10 năm đầu trước đổi mới ( 1975 – 1985 ), Việt Nam đứng trước những tác động phức tạp của tình hình quốc tế.
-Quan hệ Việt Nam – Campuchia và quan hệ Việt Nam – Trung Quốc căng thẳng kéo dài.
-Mỹ phát động chiến lược bao vây cấm vận nhằm cô lập Việt Nam, đẩy tình hình kinh tế – xã hội nước ta vốn khó khăn tới những khó khăn lớn hơn, gay gắt hơn.
-Các nước xã hội chủ nghĩa, kể cả Liên Xô đang trong thời kỳ trì trệ và khủng khoảng, sự giúp đỡ và chi viện cho Việt Nam không còn như trước.
-Các nước tư bản chủ nghĩa tranh thủ thành tựu của khoa học – công nghệ, đẩy nhanh tốc độ phát triển, có ưu thế về tiềm lực kinh tế và tiềm lực khoa học – công nghệ, tạo nên những thách thức đối với chủ nghĩa xã hội.
Vào lúc này, thực tiễn đã hối thúc mạnh mẽ những cải cách, đổi mới chủ nghĩa xã hội. Trong khi ở Việt Nam vẫn bị những cản của mô hình, cơ chế đã tồn tại từ lâu kìm hãm. Những biểu hiện chủ quan, duy ý chí, coi thường quy luật khách quan đã tác động tiêu cực và ảnh hưởng nặng nề vào các quyết định đường lối, chính sách. Sự phát triển đơn tuyến, khép kín trong phạm vi, khuôn khổ của hệ thống chủ nghĩa xã hội đã làm cho chủ nghĩa xã hội không tiếp cận được với văn minh hiện đại của phương Tây. Sự lạc hậu, tụt hậu trong phát triển là sự yếu kém phổ biến của chủ nghĩa xã hội. Việt Nam cũng nằm trong tầm ảnh hưởng đó, thậm chí căn bệnh chủ quan duy ý chí, tả khuynh còn nặng nề hơn bởi những đánh giá thái quá về chủ quan sau giải phóng miền Nam.
Thứ ba, do đặc điểm của cơ sở xã hội – lịch sử và những hạn chế cảu phát triển không qua tư bản chủ nghĩa, ở nước ta khuynh hướng giáo điều và chủ quan duy ý chí mặc dù đã được phát hiện và nhận thức để quyết tâm đi vào đổi mới, nhưng căn bệnh này dẫn dễ tái sinh và không loại trừ khả năng mắc phải sai lầm cũ trong hình thức mới. Do vậy, đổi mới là một cuộc đấu tranh giữa những cái mới, cái tiến bộ với cái cũ, cái lạc hậu, lỗi thời; giữa thái độ tích cực đổi mới và sự níu kéo của trì trệ, bảo thủ.
Đổi mới không chỉ là quan điểm mà còn là vấn đề phương pháp, không chỉ là động cơ và còn là trình độ, không chỉ là ý thức mà còn là bản lĩnh.
Bước vào đổi mới, Đảng ta nhấn mạnh trước hết phải đổi mới tư duy, nhất là tư duy kinh tế. Đây là tiền đề nhận thức để đổi mới trong thực tiễn, từ đổi mới tổ chức đến cơ chế, chính sách, đến con người.
Có không ít vấn đề cả phê phán và khắc phục những cái cũ quá thời, lạc hậu lẫn khẳng định những cái mới tiến bộ thuộc về xu hướng của phát triển mà chúng ta thường vấp phải nhưng chưa giải quyết thấu đáo, triệt để, chưa đưa ra kết luận tường minh. Điều đó chỉ có thể giải thích với hai căn cứ: hoặc là thực tiễn chưa phát triển đầy đủ, giúp ta phân biệt đúng – sai, khẳng định và phủ định, đó là xét về quan hệ thực tiễn – lý luận. Hoặc là lý luận chưa vượt ra khỏi tình trạng lạc hậu, giáo điều, sự lạc hậu so với thực tiễn, đi sau thực tiễn, lý luận chưa đủ sức dự báo, soi đường cho thực tiễn, hướng dẫn thực tiễn phát triển.
Một ví dụ: vấn đề đảng viên có được làm kinh tế tư nhân hay không, lien quan tới quan niệm bóc lột trong điều kiện nền kinh tế thị trường,… Đây là vấn đề thường ra đặt ra từ nhiều Đại hội, phải trải qua hơn hai mươi năm đổi mới, mới bắt đầu được nhận thức mới tuy chưa phải đầy đủ, thấu đáo.
5Tư duy lý luận của Đảng về thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội trong thời kỳ đổi mới.
Đại hội VI đặt cơ sở cho sự hình thành lý luận đổi mới mà con xây dựng nhận thức về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta thông qua đổi mới như một cuộc cách mạng lâu dài, toàn diện và triệt để, có kế thừa và có phát triển.
Đại hội VII, trên cơ sở tổng kết thực tiễn 5 năm đầu của đổi mới từ Đại hội VI thông qua Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
Lần đầu tiên đã đề cập một cách có hệ thống dưới hình thức luận đề, xác định 6 đặc trưng của chủ nghĩa xã hội.
Sáu đặc trưng đó chính là những dấu hiệu ( đặc điểm, tiêu chí ) nhận biết bản chất – mục tiêu – động lực của chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam do Đảng nêu ra, xuất phát từ thực tiễn đổi mới.
Nhận thức được 6 đặc trưng này trươc hết nhận thức được những thuộc tính bản chất của chủ nghĩa xã hội. Bản chất ấy cũng đồng thời nói lên tính hướng đích, tức là những mục tiêu mà chủ nghĩa xã hội vươn tới. Xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội cũng như toàn bộ tiến trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta là từng bước đạt đến cái bản chất và mục tiêu ấy của chủ nghĩa xã hội. Động lực và các nhân tố động lực thúc đẩy sự hình thành và phát triển chủ nghĩa xã hội ở nước ta cũng thể hiện thông qua 6 đặc trưng ấy hoặc trực tiếp hoặc gián tiếp.
Như vậy, quan hệ giữa bản chất – mục tiêu và động lực của chủ nghĩa xã hội là quan hệ thống nhất, trùng hợp và tác động lẫn nhau theo quy luật nhân – quả và tương tác biện chứng giữa khả năng và hiện thực, giữa kinh tế – chính trị – văn hóa và xã hội, giữa dân tộc và quốc tế, giữa chủ thể con người và khách thể xã hội.
Sáu đặc trưng của xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng là một xã hội :
-Do nhân lao động làm chủ.
-Có một nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và chế độ công hữu về các tư liệu sản xuất chủ yếu.
-Có một nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.
-Con người được giải phóng khỏi áp bức, bóc lột, bất công, làm theo năng lực, hưởng theo lao động, có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện cá nhân.
-Các dân tộc trong nước bình đẳng, đoàn kết và giúp đỡ lẫn nhau cùng tiến bộ.
-Có quan hệ hữu nghị và hợp tác với nhân dân các nước trên thế giới.
Đại hội VII, IX, X tiếp tục bổ sung quan niệm về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Tính đúng đắn từ 6 đặc trưng xã hội chủ nghĩa được hiểu trên các mặt như :
Thứ nhất, đã xác định chủ thể xã hội chủ nghĩa là nhân dân lao động, hơn nữa, chủ thể đó không chỉ có vị thế của người chủ xã hội mà còn là năng lực để làm chủ xã hội.
Chủ thể ấy không phải là cá nhân, của số ít, của một nhóm thiểu số mà là đông đảo quần chúng nhân. Nội dung những đặc trưng cho thấy bản chất của chủ nghĩa xã hội trong quan niệm của Đảng ta là thống nhất, trùng hợp với quan niệm của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Đó là độc lập cho Tổ quốc, tự do cho dân tộc va hạnh phúc cho đồng bào.
Thứ hai, bản chất kinh tế của chủ nghĩa xã hội là một nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và chế độ công hữu về tư liệu sản xuất chủ yếu
Ở đặc trưng này, tư duy lý luận của Đảng trong đổi mới đã hướng theo yêu cầu chính xác hóa, khoa học hóa, thể hiện thái độ tôn trọng quy luật khách quan trong phát triển mà quy luật lớn nhất, phổ biến nhất là quy luật là sự phù hợp về quan hệ sản xuất với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất.
Chú trọng tới tiêu chí “ nền kinh tế phát triển cao “ đã trở thành định hướng để dứt khoát xóa bỏ cơ chế tập trung quan liêu bao cấp, đi vào kinh tế hàng hóa, phát triển sản xuất hàng hóa, áp dụng cơ chế thị trường, chấp nhận cạnh tranh, phân hóa, vượt trội để tạo động lực phát triển.
Đại hội VI của Đảng đưa ra kết luận mới sản xuất hàng hóa không đối lập với chủ nghĩa xã hội, mà là thành tựu phát triển của nhân loại, tồn tại khách quan, cần thiết cho công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội. Tuy nhiên từ Đại hội VI, qua Đại hội VII, đến Đại hội VIII vấn đề nến kinh tế nước ta hiện nay và lâu dài chưa có câu trả lời xác định
Đến Đại hội IX đã chỉ rõ : thị trường không chỉ là cơ chế vận hành mà còn là thuộc tính nội tại của nền kinh tế trong thời kỳ quá độ, cả trong chủ nghĩa xã hội. Nhưng ở trình độ, tính chất phát triển của nước ta hiện nay, thời kỳ quá độ mới chỉ đi qua chặng đường đầu, nền kinh tế mới chuyển đổi, còn đang là một nền kinh tế chuyển đổi, thì một nền kinh tế thị trường phát triển, thành thục vẫn chưa có ở nước ta. Đó mới chỉ là kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Nó chứng minh cho đột phá lý luận kinh tế của Đảng ta từ mô hình kinh tế. Đây là mô hình kinh tế tổng quát trong suốt thời kỳ quá độ ở nước ta.
Thứ ba, bản chất – mục tiêu – động lực của chủ nghĩa xã hội thể hiện qua 6 đặc trưng xã hội chủ nghĩa mà Đảng đã nêu lên trong cương lĩnh là chỉnh thể kinh tế – chính trị – văn hóa – xã hội nhằm vào mục đích phục vụ cuộc sống nhân lao động.
Tư tưởng về xây dựng nên văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc được ghi trong Cương lĩnh từ Đại hội VI được cụ thể hóa và phát triển trong nghị quyết Trương ương 5 khóa VIII, được tổng kết và đánh giá trong Hội nghị Trung ương 10 khóa IX. Thực chất sâu xa của xây dựng văn hóa là xây dựng con người, đạo đức, lối sống. Văn hóa đổi mới và đổi mới là một sự nghiệp xây dựng và phát triển văn hóa.
Quá trình đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa ngày nay không đơn thuần là một quá trình kinh tế – kĩ thuật – công nghệ mà còn là một quá trình văn hóa, đặc biệt là giữ gìn và phát huy bản sắc dân tộc. Đât nước đã mở cửa với thế giới bên ngoài, đòi hỏi phải phát huy nội lực từ văn hóa, từ bản sắc và bản lĩnh văn hóa dân tộc.
Điều đó được thể hiện sự nhận thức và vận dụng tư tưởng chiến lược của Chủ tích Hồ Chí Minh “ Văn hóa không ở bên ngoài mà ở trong kinh tế và chính trị “ , phải đem văn hóa soi đường cho quốc dân đi, dùng văn hóa và đạo đức để sửa chữa tệ quan lieu và thói phù hoa xa xỉ.
Thứ tư, Đảng ta đặc biệt chú trọng tới sự phát triển của dân tộc, phát huy động lực quan trọng và mạnh mẽ nhất là đoàn kết dân tộc, có chính sách dân tộc bình đẳng, đoàn kết, giúp đỡ, tương trợ lẫn nhau trong phát triển ở quốc gia đa dân tộc như ở Việt Nam. Một trong những nét nổi bật trong tư duy là, Đảng khẳng định đường lối đối ngoại hòa bình, hữu nghị, hợp tác. Việt Nam mong muốn làm bạn của tất cả các nước, sẵn sàng hợp tác song phương và đa phương.
Từ Đại hội VI đến Đại hội IX Đảng ta xác định và không ngừng bổ sung, hoàn thiện với các tiêu chí : dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Đây là mục tiêu của đổi mới cũng là bản chất – mục tiêu – động lực của chủ nghĩa xã hội.
Tuy nhiên, quá trình đổi mới tư duy lý luận của Đảng về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta còn một số hạn chế :
a.Chưa làm rõ các đặc điểm ở nước ta trong bước quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa cũng như chưa làm rõ vần đề phân kỳ trong thời kỳ quá độ.
b.Lý luận về kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta mới chỉ bắt đầu được nghiên cứu trong những năm gần đây và còn nhiều điểm chưa rõ.
c.Lý luận về Đảng Cộng sản cầm quyền và xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân, những bảo đảm dân chủ và phát huy quyền làm chủ của nhân dân trong điều kiện một Đảng Cộng sản cầm quyền mới chỉ dừng lại ở hệ thống quan điểm, nguyên tắc và phương hướng chỉ đạo.
d.Mặc dù nhận thức được vai trò quốc sách hàng đầu của khoa học – công nghệ và giáo dục – đào tạo, đã thấy rõ văn hóa là động lực phát triển kinh tế xã hội, là nền tảng tinh thần của xã hội, song chúng ta vẫn chưa có được những chính sách và giải pháp đột phá để thúc đẩy phát triển khoa học – công nghệ, đặc biệt là lý luận và khoa học xã hội – nhân văn; chưa ngăn chặn được tình trạng suy thoái ngày càng nghiêm trọng của đạo đức xã hội