Home » » Tại sao cuộc đấu tranh giai cấp VN hiện nay là cuộc tiến hành công nghiệp hóa hiện đại hóa?

Tại sao cuộc đấu tranh giai cấp VN hiện nay là cuộc tiến hành công nghiệp hóa hiện đại hóa?

Written By kinhtehoc on Thứ Tư, 1 tháng 2, 2012 | 03:09

Tư duy mới về giai cấp công nhân chính là làm rõ khả năng và yêu cầu của giai cấp công nhân hiện đại; đồng thời, khẳng định tính trí tuệ, tính hiện đại của chính đảng giai cấp công nhân. Trên cơ sở nhận thức đúng bản chất và xu thế phát triển của giai cấp công nhân Việt Nam ngày nay, Đảng có chủ trương thích hợp để tiếp tục nâng cao chất lượng giai cấp công nhân, bảo đảm cho họ xứng đáng với vai trò lãnh đạo trên con đường đi lên chủ nghĩa xã hội hiện đại.

1 - Vận dụng chủ nghĩa duy vật lịch sử vào nghiên cứu sự hình thành và phát triển của chủ nghĩa tư bản, C. Mác đã phát hiện ra vai trò lịch sử của giai cấp công nhân trong cuộc đấu tranh cách mạng xóa bỏ chế độ tư bản và xây dựng chế độ xã hội mới - xã hội xã hội chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa.Trong cuộc đấu tranh cách mạng vì sứ mệnh lịch sử đó, giai cấp công nhân chuyển từ giai cấp "tự mình" thành giai cấp "vì mình", phong trào công nhân phát triển từ tự phát đến tự giác khi tổ chức ra đội tiên phong của mình - các Đảng Cộng sản (có thể với những tên gọi khác nhau ở những nước khác nhau, đôi khi ngay trong một nước).

Thắng lợi vĩ đại của Cách mạng Tháng Mười Nga đầu thế kỷ XX đã mở ra thời đại quá độ của xã hội loài người từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản. Tiếp đó là sự hình thành hệ thống xã hội chủ nghĩa trên thế giới vào giữa thế kỷ XX. Hệ thống này đã ảnh hưởng tích cực đến đời sống nhân loại trong nhiều thập niên sau. Điều đó chứng minh cho phát hiện đúng đắn của C.Mác về vai trò lịch sử của giai cấp công nhân. Tuy nhiên, đến cuối thế kỷ XX, sự sụp đổ của chủ nghĩa xã hội ở nhiều nước và sự thoái trào của cách mạng xã hội chủ nghĩa trên thế giới đã dẫn đến việc xét lại vai trò lịch sử của giai cấp công nhân và thời đại quá độ của xã hội loài người lên chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản.

Tôi cho rằng, trong tình hình hiện nay, chúng ta cần tiếp tục khẳng định luận điểm của C.Mác về vai trò lịch sử của giai cấp công nhân, nhưng cũng cần có tư duy mới về giai cấp công nhân. Bởi vì, trong mấy trăm năm, kể từ khi giai cấp công nhân ra đời đến nay, xã hội loài người trải qua biết bao biến cố to lớn, cả những bước ngoặt có tính thời đại, như Cách mạng Tháng Mười Nga và sự phát triển của văn minh nhân loại từ văn minh công nghiệp sang văn minh trí tuệ. Chủ nghĩa tư bản không còn là chủ nghĩa tư bản cổ điển mà đã phát triển thành chủ nghĩa đế quốc, chủ nghĩa tư bản hiện đại. Giai cấp công nhân cũng thay đổi rất nhiều, khác hẳn giai cấp công nhân ở thế kỷ XIX, từng được Ph.Ăng-ghen mô tả trong tác phẩm "Tình cảnh giai cấp công nhân Anh".

Như chúng ta đã biết, những luận điểm của C. Mác về giai cấp công nhân được đưa ra trong điều kiện của văn minh công nghiệp. Những thành tựu mới của cách mạng khoa học - công nghệ hiện đại từ giữa thế kỷ XX, tiếp đó là cuộc cách mạng tin học, đã dần dần đưa nhân loại từ văn minh công nghiệp sang văn minh trí tuệ, đánh dấu bước phát triển nhảy vọt chưa từng có của lực lượng sản xuất trong lịch sử nhân loại. Do vậy, tư duy mới về giai cấp công nhân phải là tư duy về giai cấp công nhân trong điều kiện của văn minh trí tuệ.

Quan điểm xuất phát nêu trên có căn cứ khoa học từ chủ nghĩa Mác hay thuộc loại quan điểm tư sản "duy lực lượng sản xuất"? Ai cũng biết, luận điểm của C. Mác về sự gắn bó giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất khác hẳn luận điểm còn phiến diện trước đó chỉ thấy hoặc nhấn mạnh một chiều vai trò của lực lượng sản xuất. C.Mác luôn luôn khẳng định vai trò quyết định của lực lượng sản xuất trong mối quan hệ với quan hệ sản xuất. Ông cho rằng, sự chuyển biến từ hình thái kinh tế - xã hội này sang hình thái kinh tế - xã hội khác nhất thiết phải trải qua đấu tranh cách mạng của những giai cấp cách mạng, nhưng nhân tố quyết định nhất vẫn là bước nhảy vọt mới về chất của lực lượng sản xuất. Ông từng nói đại ý: máy hơi nước đẻ ra nhà tư bản. Nhân đây tôi muốn nói thêm, sự sụp đổ của chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và các nước Đông Âu là do nhiều nguyên nhân trực tiếp, nhưng nguồn gốc sâu xa là sự lạc hậu, bất cập của chủ nghĩa xã hội mô hình cũ và của ban lãnh đạo ở các nước này trước sự phát triển mới của văn minh nhân loại.

2 - Những thành tựu của chủ nghĩa tư bản, nhất là của chủ nghĩa tư bản hiện đại, gắn liền với sự phát triển của lực lượng sản xuất từ văn minh nông nghiệp sang văn minh công nghiệp, rồi từ văn minh công nghiệp sang văn minh trí tuệ. Đến nay, những thành tựu đó đã làm thay đổi rất nhiều chế độ tư bản, giai cấp tư sản, giai cấp công nhân và các tầng lớp dân cư trong hầu hết các quốc gia - dân tộc.

Sự phát triển của lực lượng sản xuất từ văn minh công nghiệp sang văn minh trí tuệ dần dần làm thay đổi căn bản cơ cấu các ngành nghề kinh tế - kỹ thuật, và từ đó, hình thành dần một giai cấp công nhân mới, rõ nhất là ở các nước tư bản phát triển. Cơ cấu GDP của các nước tư bản phát triển không còn như trước đây, mà đã thay đổi hẳn theo hướng: ngành dịch vụ chiếm tỉ trọng ngày càng lớn, đến 60%, ngành công nghiệp chế tạo chiếm khoảng 30% - 40%, ngành nông nghiệp chỉ chiếm 2%. Về cơ cấu giai cấp công nhân, từ năm 1961 đến năm 1968, ở Anh, công nhân công nghiệp giảm 44%, ở Pháp giảm 30%, ở Thụy Sĩ giảm 24%, ở Cộng hòa liên bang Đức giảm 18% (1).

Nói đến giai cấp công nhân trước đây, chúng ta thường nghĩ nhiều đến những người lao động chân tay hơn là những người lao động trí óc; chủ yếu nói đến công nhân "áo xanh", ít nói đến công nhân "áo vàng" (kỹ thuật viên); còn công nhân "áo trắng" hay "công nhân cổ cồn" (kỹ sư) thì cho rằng, họ thuộc tầng lớp công nhân quý tộc, gắn bó chặt chẽ với giai cấp tư sản và là cơ sở xã hội của chủ nghĩa cải lương trong phong trào công nhân. Ngày nay, đã xuất hiện và phát triển ngày càng nhiều lực lượng công nhân được trí thức hóa, những công nhân "áo vàng" và công nhân "áo trắng", trong khi lực lượng công nhân "áo xanh" ngày càng giảm dần, như ở Mỹ, năm 2000 chỉ còn 10%. ở một số nước, công nhân có trình độ đại học chiếm đến 80%.

Ngày nay, những thành tựu của cách mạng tin học - tin học hóa đã mở rộng ra phạm vi toàn cầu và dẫn đến sự ra đời của "internet hóa". Điều quan trọng là, những thành tựu của cách mạng tin học ngày càng xâm nhập sâu vào mọi hoạt động của đời sống xã hội, nhất là trong sản xuất, kinh doanh, làm hình thành dần kinh tế tri thức. Những thành tựu đó đánh dấu một giai đoạn mới của cách mạng tin học và bắt đầu mở ra kỷ nguyên thông tin. Vai trò của khoa học - công nghệ, của lao động trí óc đối với phát triển kinh tế, xã hội ngày càng tăng; khoa học - công nghệ đã và đang trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp, đúng như tiên đoán của C.Mác.

Tình hình đó khiến cho một số nhà tư tưởng tư sản vội đưa ra luận điểm "quyền lực thuộc về trí tuệ" để che đậy bản chất của vấn đề. Thực chất, quyền lực vẫn thuộc về tư bản. Vì vậy, cần nhắc lại: nói đổi mới tư duy về giai cấp công nhân, nói về giai cấp công nhân trong điều kiện của văn minh trí tuệ, chính là nhằm làm rõ khả năng và yêu cầu của giai cấp công nhân hiện đại trong sứ mệnh lịch sử xóa bỏ và vượt qua chủ nghĩa tư bản hiện đại, thiết lập chủ nghĩa xã hội hiện đại. Như vậy, tư duy mới về giai cấp công nhân hiện đại gắn liền với tư duy mới về chủ nghĩa xã hội hiện đại.

Nói về giai cấp công nhân trong điều kiện của văn minh trí tuệ chính là làm rõ khả năng và yêu cầu của giai cấp công nhân hiện đại trong sứ mệnh lịch sử xóa bỏ và vượt qua chủ nghĩa tư bản hiện đại, thiết lập chủ nghĩa xã hội hiện đại. Trong thời đại ngày nay, bản chất giai cấp của Đảng Cộng sản vẫn chỉ có thể là bản chất giai cấp của giai cấp công nhân; cơ sở chính trị - xã hội của Đảng Cộng sản phải là giai cấp công nhân trong quá trình phát triển từ văn minh công nghiệp sang văn minh trí tuệ; tư duy mới về giai cấp công nhân phải gắn liền với tư duy mới về chủ nghĩa xã hội hiện đại.

Đương nhiên, vẫn có sự phát triển không đều giữa các nền kinh tế của các nước. Xét về tổng thể, loài người vẫn đang quá độ từ văn minh công nghiệp sang văn minh trí tuệ, nghĩa là quá trình công nghiệp hóa còn đang diễn ra. Ở các nước phát triển, đã kết thúc giai đoạn công nghiệp hóa cổ điển, chuyển sang giai đoạn công nghiệp hóa hiện đại và tiếp cận ngày càng sâu văn minh trí tuệ (có thể hay không coi quá trình kết thúc của công nghiệp hóa hiện đại cũng là sự khởi đầu của văn minh trí tuệ). Còn ở những nước chậm và đang phát triển, quá trình công nghiệp hóa diễn ra có phần còn trong giai đoạn công nghiệp hóa cổ điển, đồng thời tiếp cận dần giai đoạn công nghiệp hóa hiện đại và một số thành tựu của kỷ nguyên tin học, của văn minh trí tuệ. Tất nhiên, cơ cấu các ngành nghề kinh tế - kỹ thuật và tình hình giai cấp công nhân ở những nước này không giống ở những nước phát triển.

Ở nước ta, sau thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945, qua mấy chục năm xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, tiến hành chiến tranh giành độc lập hoàn toàn, thống nhất đất nước và tiến lên chủ nghĩa xã hội trên cả nước, nền kinh tế căn bản vẫn là một nền kinh tế nông nghiệp, nhiều phần lạc hậu, cơ sở vật chất - kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội có được xây dựng bước đầu nhưng chưa được bao nhiêu. Trong sự nghiệp đổi mới, sau khi thoát khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội, nước ta bước vào giai đoạn đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, gắn với phát triển kinh tế tri thức. Theo chủ trương của Đảng, đến năm 2020, nước ta mới căn bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại.

Xét về quá trình phát triển của lực lượng sản xuất, nước ta còn đang trong cuộc cách mạng công nghiệp, có phần còn ở giai đoạn công nghiệp hóa cổ điển, nhưng cố gắng "đi tắt, đón đầu", tiến vào giai đoạn công nghiệp hóa hiện đại và tiếp cận kỷ nguyên thông tin, bước đầu xây dựng kinh tế tri thức. Cơ cấu ngành nghề kinh tế - kỹ thuật dần dần có sự chuyển đổi theo hướng: tăng dần dịch vụ và công nghiệp, thu hẹp dần nông nghiệp. Hiện nay, lao động nông nghiệp đóng góp khoảng 20% GDP cả nước; đến năm 2020, có thể giảm xuống còn 10% (đương nhiên, giá trị tuyệt đối vẫn tăng), có nghĩa là khi đó dịch vụ và công nghiệp có thể lên tới 80% - 90%(2). Điểm đáng chú ý là, những thành tựu của cách mạng tin học đang xâm nhập nhiều vào hầu hết các lĩnh vực kinh tế, nhất là các lĩnh vực bưu chính - viễn thông, ngân hàng, hàng không, nông nghiệp, dịch vụ. Công nghệ thông tin đang trở thành ngành kinh tế mũi nhọn, có tốc độ tăng trưởng hằng năm vào loại cao nhất và đóng góp ngày càng nhiều vào GDP cả nước. Từ đó, dần dần hình thành một cơ cấu đội ngũ lao động và công nhân mới ở nước ta.

Nghiên cứu sự phát triển của cách mạng tin học, của lao động trí óc trong điều kiện của kỷ nguyên thông tin, của kinh tế tri thức, đã có ý kiến về sự xuất hiện những "công nhân tri thức" (knowledge labour) trong văn minh trí tuệ và phân biệt những công nhân này với những "công nhân trí thức" (intellectual labour) trong văn minh công nghiệp (3). Có lẽ nên dịch "knowledge labour" là "lao động tri thức", còn "intellectual labour" là "lao động trí óc". Sự phân biệt giữa "công nhân tri thức" và "công nhân trí thức" có thể làm rõ sự phát triển mới của công nhân trong kinh tế tri thức. Nhưng có lẽ cả "lao động tri thức", "lao động trí óc", cùng một bộ phận tầng lớp trí thức gia nhập hàng ngũ giai cấp công nhân và bộ phận lao động chân tay (còn chiếm tỷ trọng lớn, nhất là ở nông thôn) dần dần được đào tạo theo yêu cầu của công nghiệp hóa, hiện đại hóa sẽ ngày càng phát triển trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa, tiếp cận cách mạng thông tin. Tất cả các lực lượng lao động đó hợp thành một quá trình lịch sử trí thức hóa giai cấp công nhân, đưa giai cấp công nhân ở nước ta từng bước trở thành giai cấp công nhân của văn minh trí tuệ. Đó cũng là quá trình "trí thức hóa công nông" và "công nông hóa trí thức", như dự đoán thiên tài của Chủ tịch Hồ Chí Minh.

3 - Trong "Phê phán Cương lĩnh Gô-ta", C. Mác đã đưa ra luận điểm: một khi lao động được giải phóng thì tất cả mọi người đều trở thành công nhân. Chắc ai cũng hiểu, nói lao động được giải phóng ở đây, trước hết là được giải phóng khỏi áp bức, bóc lột. Nhưng tôi nghĩ, nên hiểu thêm là, được giải phóng khỏi lao động cơ bắp, nặng nhọc, chuyển dần sang lao động trí óc là chính; cả hai công cuộc giải phóng đó phải hỗ trợ và tạo điều kiện cho nhau, thống nhất với nhau. Đó chính là sự thống nhất và tác động qua lại một cách biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất mà lực lượng sản xuất là yếu tố quyết định. Như vậy cũng có nghĩa là, khi ấy giai cấp công nhân sẽ không còn tồn tại như một giai cấp riêng nữa, mà dần dần hòa mình vào dân tộc trong một hình thái kinh tế - xã hội mới thay thế chủ nghĩa tư bản hiện đại.

Quá trình giải phóng lao động, tiến tới "tất cả mọi người đều trở thành công nhân" đang diễn ra từng bước ngay trong lòng chủ nghĩa tư bản hiện đại, cuối cùng cũng phải trải qua đấu tranh cách mạng dưới hình thức này hay hình thức khác. Quá trình đó cũng đang diễn ra ở nhiều nước đang phát triển như nước ta, khi biết tiếp cận nhanh chóng những thành tựu mới nhất của khoa học - công nghệ, phát triển kinh tế tri thức trong văn minh trí tuệ, gắn liền với việc xử lý đúng đắn những vấn đề về quan hệ sản xuất, hướng tới một xã hội tốt đẹp hơn.

4 - Giai cấp cách mạng muốn trở thành giai cấp lãnh đạo cách mạng thì, về mặt khách quan, phải đại biểu cho phương thức sản xuất mới, và về mặt chủ quan, phải tổ chức ra đội tiên phong - chính đảng, của giai cấp mình. Đội tiên phong của giai cấp phải là bộ phận trí tuệ nhất, tiêu biểu cho trí tuệ của giai cấp và thời đại. Điều đó đúng với các giai cấp cách mạng trước đây cũng như với giai cấp công nhân ngày nay. Cần lưu ý thêm, điều đó dễ dẫn đến sự ngộ nhận rằng, lãnh đạo cách mạng phải là các tầng lớp trí thức chứ không phải là các giai cấp cách mạng trong lịch sử. ở đây không nói đến động cơ chính trị của những người muốn cắm "tấm biển chỉ đường của trí tuệ" để bác bỏ vai trò lãnh đạo của giai cấp công nhân. Tuy nhiên, phủ nhận yêu cầu trí tuệ của đội tiên phong là rất sai lầm. Đội tiên phong - chính đảng của giai cấp cách mạng, là bộ phận lao động trí thức đặc biệt của giai cấp đó chứ không phải là tầng lớp trí thức nói chung trong xã hội.

Đội tiên phong của giai cấp công nhân hiện đại nhất thiết phải là bộ phận trí tuệ nhất của giai cấp, của thời đại mới. Phải tiếp cận những thành tựu mới nhất của văn minh nhân loại, kết hợp với sự phân tích khoa học, trên cơ sở của phép biện chứng mác-xít, những điều kiện của thế giới ngày nay đang chịu sự tác động của chủ nghĩa tư bản hiện đại. Từ đó, đề ra cương lĩnh, chiến lược, sách lược phù hợp với hoàn cảnh cụ thể của quốc gia - dân tộc để từng bước tìm con đường giải phóng, vượt qua chủ nghĩa tư bản hiện đại, xây dựng chủ nghĩa xã hội hiện đại.

Trong thời đại ngày nay, bản chất giai cấp của Đảng Cộng sản vẫn chỉ có thể là bản chất giai cấp của giai cấp công nhân; cơ sở chính trị - xã hội chủ yếu của Đảng Cộng sản phải là giai cấp công nhân trong quá trình phát triển từ văn minh công nghiệp sang văn minh trí tuệ; tư duy mới về giai cấp công nhân phải gắn liền với tư duy mới về chủ nghĩa xã hội hiện đại. Có thể nói, một trong những nguyên nhân chính dẫn đến sự lạc hậu, bất cập trước đây của Đảng Cộng sản ở một số nước tư bản phát triển là do không nhận thức được điều này. Bởi vậy, ở đó, Đảng Cộng sản dần dần mất cơ sở chính trị - xã hội cần có của mình, gắn liền với những cương lĩnh ngày càng xa rời cuộc sống. Giai cấp công nhân hiện đại, nhân dân lao động không thấy được con đường đi tới một xã hội tốt đẹp hơn, mà đôi khi mất phương hướng và dường như kỳ vọng vào một tương lai nào đó trong lòng chủ nghĩa tư bản hiện đại, khi ở đó xuất hiện và phát triển dần một số yếu tố của xã hội mới, nhưng đội tiên phong của giai cấp công nhân hiện đại đã không nhận ra để làm sinh sôi nảy nở.

Đảng Cộng sản Việt Nam mang bản chất giai cấp công nhân Việt Nam, là Đảng của giai cấp công nhân và của dân tộc Việt Nam. Bởi nhiều lẽ: Đảng là con đẻ của hai phong trào: phong trào công nhân và phong trào yêu nước (chứ không chỉ là con đẻ của phong trào công nhân như ở những nước tư bản). Trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng luôn giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, trong đó đặt nhiệm vụ dân tộc lên trên và lên trước, coi nhiệm vụ dân tộc là tiền đề, điều kiện tiên quyết và là cơ sở để hoàn thành nhiệm vụ giai cấp, xây dựng chủ nghĩa xã hội. Lãnh đạo cách mạng xã hội chủ nghĩa, Đảng động viên sức mạnh toàn dân tộc dưới sự lãnh đạo của giai cấp công nhân, coi cách mạng xã hội chủ nghĩa không chỉ là nhiệm vụ giai cấp mà còn là nhiệm vụ dân tộc, định hướng cho nhiệm vụ dân tộc, bảo đảm độc lập dân tộc, giải phóng dân tộc triệt để, đưa dân tộc bỏ qua thời đại dân tộc tư sản, tiến vào thời đại dân tộc xã hội chủ nghĩa.

Là Đảng của giai cấp công nhân, trước hết Đảng phải hiểu giai cấp công nhân và dựa vào giai cấp công nhân. Giai cấp công nhân Việt Nam ngày nay đã thay đổi rất nhiều (như trên đã phân tích), đang phát triển nhanh cả về số lượng và chất lượng, phát triển trong sự phân hóa thường xuyên - một sự phân hóa tích cực. Đó là sự phân hóa trong cơ cấu ngành nghề kinh tế - kỹ thuật, phát triển lực lượng sản xuất; trong cơ cấu thành phần kinh tế, xây dựng quan hệ sản xuất phù hợp với lực lượng sản xuất; trong phân công lao động xã hội.

Nhận thức đúng bản chất và xu thế phát triển của giai cấp công nhân Việt Nam ngày nay, trên cơ sở đó, có chủ trương, chính sách thích hợp để tiếp tục mở rộng đội ngũ và nâng cao chất lượng giai cấp công nhân, khiến cho nó xứng đáng với vai trò lãnh đạo trên con đường đi lên chủ nghĩa xã hội hiện đại, đó là yêu cầu đầu tiên và cũng là quan trọng nhất của đội tiên phong. Chúng ta thường nói, giữ vững và tăng cường bản chất giai cấp của giai cấp công nhân. Vậy bản chất đó là gì? Nó có phải là cái gì trừu tượng và bất biến không? Hay phải có những nội dung và yêu cầu cụ thể nhằm thể hiện bản chất đó? Trong bản chất đó, cái gì không thể thay đổi và cái gì cần phải phát triển? Không thể nói giữ vững và tăng cường được bản chất của giai cấp công nhân khi không hoàn thành những nhiệm vụ chính trị, kinh tế có tính chất thực tiễn cách mạng của nó.

Là Đảng của dân tộc, Đảng phải hiểu sâu sắc dân tộc mình, từ quá khứ, hiện tại đến tương lai, cũng như lịch sử, đất nước, con người và đặc biệt là bản sắc văn hóa, bởi bản sắc văn hóa là đặc trưng quan trọng nhất của dân tộc. Đảng phải tổ chức, động viên và phát huy được sức mạnh của toàn dân tộc, của tất cả các dân tộc họp thành đại gia đình các dân tộc Việt Nam. Phải đổi mới tư duy về chủ nghĩa xã hội, tìm tòi, thể nghiệm con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, lãnh đạo xây dựng chủ nghĩa xã hội hiện đại mang bản sắc dân tộc Việt Nam. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, chủ nghĩa xã hội phải được ăn sâu, bám rễ trong lòng dân tộc, đưa dân tộc Việt Nam đi vào thời đại dân tộc xã hội chủ nghĩa. Đồng thời, Đảng phải giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa dân tộc và giai cấp, quốc gia và quốc tế trong điều kiện nền kinh tế thế giới ngày càng đi sâu vào toàn cầu hóa tư bản chủ nghĩa.
Là Đảng cầm quyền, Đảng phải giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý và nhân dân làm chủ, nhằm xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và bảo đảm mọi quyền lực đều thuộc về nhân dân.

(1). Dẫn theo: TS Hồ Châu: “Bước thoái trào của phong trào công nhân ở các nước tư bản phát triển - nguyên nhân và bài học”, Tạp chí Lịch sử Đảng, số 9-2004
(2). Xem thêm: Đỗ Quốc Sam: “Về công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam”, Tạp chí Cộng sản, số 11, tháng 6-2006, tr 13
(3). Văn Tạo: “Đảng tạo mọi điều kiện để công nhân Việt Nam tiến nhanh trong nền kinh tế tri thức”, Tạp chí Lịch sử Đảng, số 5-2006
Share this article :
 
Support : Creating Website | phuctriethoc | NGUYỄN VĂN PHÚC
Copyright © 2013. NGUYỄN VĂN PHÚC - All Rights Reserved
By Creating Website Published by KINH TẾ HỌC
Proudly powered by NGUYỄN VĂN PHÚC
NGUYỄN VĂN PHÚC : Website | Liên hệ | phuctriethoc@gmail.com
Proudly powered by Triết học kinh tế
Copyright © 2013. NGUYỄN VĂN PHÚC - All Rights Reserved