Home » » SÀI GÒN TẠP PÍN LÙ-P14

SÀI GÒN TẠP PÍN LÙ-P14

Written By kinhtehoc on Thứ Năm, 16 tháng 2, 2012 | 00:41

(tt B)
Tôi xin mượn chuyện nầy làm kết luận. Phàm một cái nhà cất theo sức mình, cột kèo cũ, đã có từ đời ông Trương Vĩnh Ký, vôi hồ xi măng thì nhín mót mua mới được, nay dựng lên ở đã ba bốn đời người, từ không con, hoá có thằng Bảo, rồi nuôi con Mai, nó sanh con Phượng, kế luôn mình, là đã bốn thế hệ, riêng quyển Sài gòn năm xưa lần đầu do “Cơ sở báo chí và xuất bản Tự Do của Phạm Việt Tuyền, in năm 1960, đã bán rốc, tiền nhuận bút 10.000 cũng không còn; lần kế, ông bạn Nguyễn Hùng Trương, chủ nhà sách lớn Khai Trí, in lại năm 1969, tiền nhuận bút cũng tiêu hoá từ lâu; lượt thứ ba, nghe đâu có người chạy qua Mỹ, in lại và bán khắp nơi mà mình vẫn chưa thấy mặt mấy đứa con hoang, chớ đừng nói chi lễ mễ cho mình ươn già buổi nầy, nay có người trách “sách viết thiếu khoa học, sắp xếp không ngăn nắp và nên viết lại”.

Tôi lạy cha, có giỏi thì làm lấy, chớ nhà dầu cũ, che mưa che nắng được là xong, tôi còn sống bao lăm nữa mà hòng dỡ đi cất lại? Thôi thì, có nói lắm, tôi thêm một căn nhỏ, chứa những gl đọc muộn trong sách ông J. Bouchot, goki bổ túc, tưởng như vậy là đủ rồi. Tôi thanh minh không phải nhà khảo cứu và tôi viết tôi chơi, không có ý làm văn để đời. Ai kia lấy của tôi in lại, tôi cũng không phiền, cứ hiếu bởi con mình còn duyên nên mới có người bồng ẵm. Nếu biết điều gởi cho thì hoà cả đôi, không đòi mà cũng chẳng cám ơn. (Ngày 25-9-1983).

Và tôi xin thêm, xin biết cho, “văn của tôi là văn kể chuyện”, phải nhại đi nhại lại cho dễ nhớ, báo tôi xếp thứ tự, là tôi mất tự nhiên; sớ dĩ tôi lập lại, một phần nào là có lý đó. Sển.

Nhơn đọc Histoire de Vichy của Robert Abon viết, lại biết vào năm 1941 (mars), trong vùng bị chiếm đóng, các thanh niên (adultes) Pháp vẫn nhận được:

240 giam bánh mì mỗi ngày;

250 giam thịt và 75 gr. pho mát mỗi tuần:

550 gr. chất béo, mỗi tháng;

500 gr. đường

200 gr. gạo

250 gr. bột ăn (pâtes alimentaires), mỗi tháng;

2 gói thuốc vấn mỗi 10 ngày và 1 lít rượu vang. (trang 35).

Như vậy mà sở y tế còn khuyên nên bỏ tập thể dục, vì ăn không đủ bổ (thiếu ăn).

Trang 285 viết thêm: vào mùa đông 1943-1944, dân thành Paris, chỉ nhận trung bình là 200 gr. chất béo, 300 gr. thịt mỗi tháng, rốt còn lại dân Paris được lãnh những gì sở cung cấp phát ra, tính lại những gì lãnh một tháng, chỉ ăn 5 hay 6 ngày là hết.

Trang 286 cho biết: Từ thu năm 1940 đến tháng février 1944, giá sinh hoạt tăng 166 và phần thực mỗi người dân mỗi ngày chỉ còn 850 calories.

Trang 287 nói “tháng 3-1944, bày hòm giả tạo không đựng thây ma mà đựng thịt tươi hoặc thịt muối và qua 8-1944, xe nhà băng không chở vàng bạc, lại chở đường”.

1 ký đường giá 150 fr.

1 ký thịt giá từ 300 đến 400 fr.

1 ký bơ giá từ 600 đến 800 fr.

Rượu vang, 300 fr. mỗi chai, rượu sâm banh giá 600 fr. mỗi chai.

Và sách nói muốn biết giá trị đồng franc (quan Pháp), thì nên nhơn cho 15, tiền năm 1954.

Những tài liệu trên đây là kết quả những ngày dài tôi đọc “hầm bà lằng”, gặp sách nào cũng đọc và nay chép lại đây xà ngầu như trong giỏ đựng vật phế thải, vụn vằn, không nên trách việc làm vô trật tự, vì cốt ý là tôi chép tôi chơi, không dám gọi thuộc tài liệu nghiên cứu. Tuy vậy, đối với người nào biết dùng, thì đó cũng chưa là vô bổ ích.

Xét cho cùng, tưởng không nên kỳ thị chủng tộc Những gì làm cho nhiều người hiệp nhau lại để trở nên một dân tộc, thì đó chẳng qua là những kỷ niệm đại khái đại thể, để chung nhau làm từ trước với ý chí còn chung nhau làm ra sau nầy. Gẫm như gương Pol Pot, hành động bạo tàn đã qua trên đất Nam Vang, hiểu theo nhà Phật đất Chùa Tháp, phải chăng đó là kết quả quá hấp tấp của một đứa con xứ ông Tà Á Rặc, nay bỏ chùa chiền, được sang học bên Pháp, nuốt không trôi triết lý của mấy ông giáo sư Tây dạy môn “xã hội học” ở Sorbonne dành cho con cháu dòng dõi Descartes, Rousseau, Molière, rồi ôm những món khó tiêu về áp dụng sai lầm bên xứ Thổ, ngày nay đều phải khóc, thì tiếng khóc than cũng không đủ chứng minh cho ai, bằng phải bật cười thì tiếng cười vô nghĩa lý ấy lại e gây thêm nợ, chi cho bằng đừng khóc đừng cười và hãy lấy trò đùa u-mặc (humour) để lây lất sự đời, và môn “mua sách về đọc ở nhà”, đóng cửa kết bạn nối khố với tư tưởng người xưa, hoạ chăng đó là thang thuốc mà tôi cho là thần diệu đế bớt buồn có chút vui chờ ngày theo ông theo bà cho mãn kiếp (viết 6-12-1983).

Pol Pot là người, hay là thú? Tưởng voi dữ sút xiềng, sư tử, cọp beo thoát rừng cũng chưa ác độc hơn. Theo một sách từng đọc, chàng ta sanh tại Kompong- Thom, năm 1928. Vốn con nhà săn dã, đã biết cuốc đất trồng khoai, theo học chữ học đạo suốt sáu năm trường dưới mái nhà chùa, rồi được cho học trường trung học kỹ nghệ tại Phnom penh, và được cấp học bổng cho qua Pari năm 1949 học ngành radio điện tử (radio électronique). Như vậy là anh tốt phước lắm rồi. Nhưng nào biết thân. Chàng ta thi rớt trọn ba keo về chuyên nghiệp, hỏi duyên cớ, chàng lạnh lùng đáp: “Mảng chăm chỉ lo học làm cách mạng hơn học nghề”. Khi trở về xứ được dạy môn “sử địa” nơi một trường tư ở Nam Vang, gia nhập đảng Pracheachon và trở nên một tay viết báo có tiếng tăm thiên về tả. Năm 1962, được đảng đưa lên chức “tổng bí thư phó” (secrétaire général adjoint), và năm 1963, rút về rừng núi, vì biết rừng lời dụ của ông Sìhanouk mời ba mươi bốn người tá đảng nhập chánh phủ, chẳng qua là bẫy cặp để bắt cho trọn gói. Pol Pot tích oán từ bao giờ? Giận ai mà đè mấy triệu dân Miên, phe nào bất luận, đều làm cỏ sạch, tiếng oan hồn còn theo gió riu rít kêu gào? Tôi không nói về hành động tàn ác của chàng, sẽ có người khác viết rành hơn, tôi chỉ muôn hói chàng: học giống gì bên Pháp mà khi cầm quyền, chàng vụt thủ tiêu, bỏ sạch “giấy bạc lưu hành tiêu biểu cho văn minh, và thụt lùi trở lại đời dã man u tối “đổi chác”?



Ngày xưa lấy đá lửa đổi với muối hột, nhưng nay đã có quạt máy và đồ gia vị đủ thứ kia mà? Phải có chợ bán buôn, có xã hội, trờ lại người rừng mà hạnh phúc thấy đâu? Tỷ dụ: Nhà ông có thừa bò, ông dắt một bò cái, tìm người đổi bốn con dê, hoặc mớ ngói lợp nhà, v.v...; ông dắt bò đi mãn một đời ông, cũng chưa gặp nơi xứng ý vừa lòng, bằng dẫn bò ra chợ? Và người có thừa dê, vẫn cần món khác và chê bò của ông, duy có vàng bạc là đổi mua được tất cả vật cần dùng cho mỗi một ai, Pol Pot hiểu chưa, hỡi chàng “có học” “không hành”, ma vương, quý sứ? Nhưng Pol Pot có biết chăng? Tiếng Việt có câu “thời suy quy lộng”? Ngày trước không xa, bên Nga đã áp dụng luật đổi chác rồi. Trước khi sụp đổ nạn lạm phát bên Nga: không kể việc cũ, năm 1914, có 1,7 tỷ (milliard) tiền giấy phát hành tháng janvier; qua janvier 1915, lên 3 milliards, rồi 10 milliards tháng mars 1917, sụp đổ dòng vua, leo 19 milliards lúc cách mạng khởi dậy. Tiền nặng giấu mất, không đủ tiền giấy cho dân dụng, phải dùng con tem nhà thơ (timbre postal) thay thế, cố vấn quân sư của Nga hậu là Raspoutine xuất hiện, ngai vua càng mau sụp đổ, đời Trosky lên, một đôi giày giá đáng ba tháng lương thợ, và một cuốc xe trượt (traineau) giá 2 roubles nay phải trả 100. Nạn lạm phát đổi diện: không phải giá định tuỳ theo món hàng, nhưng kỳ thật là giá kéo món hàng theo luật cung cầu định đoạt (trang 207 “Orze monnaies plus deux” Ren Sédillot). Qua tháng 8 năm 1918, tiền tệ bị bỏ. Năm 1920 áp dụng luật đổi chác bắt buộc (le troc obligatoìre): tỷ dụ như xứ Don, định một cây phàng, lưỡi liềm (fux) đổi 3 pouds lúa mì (49 kilos), một điếu thuốc lá đổi 110 gram lúa mì: 40 unités-poids thịt heo đổi 200 unité-poids bắp (mais), hoặc đổi 15 unités-poids khoai tây. Nhưng khi thực hành, mới thấy có nhiều trở ngại, vì các việc định như trên đều là chuyên chế (arbitraire), không có gì làm căn bản, và rốt cuộc bên Nga cũng phải chịu bỏ luật đổi chác ép buộc, tanh pis pour la doctrine, thành ngữ trong sách Pháp nơi trương 207 nầy, phải dịch “thây kệ, mặc kệ chú nghĩa” hoặc muốn cho mạnh hơn nữa, phái dịch “thây kệ cha...”, Pol Pot hiểu và thấy chưa?

Nghĩ cho tiền của dân Miên, góp làm thuế má, chính phú Miên hoàng cho ông đi học phương xa, trở về ông ăn không tiêu và thực hành không nhằm lối, hại dân hơn là lợi cho nước, ông là người đắc tội với đồng bào Miên, mà chừng nào mới đền tội đây? Nhưng việc bên Nga chưa hết, tói xin kể tiếp: và chuyện nầy còn kéo dài mãi, không biết chừng nào mới chấm dứt và biết nói làm sao cho đầy đú, nhứt là trong bài nầy, nói về quyển sách “Hấp hối của Đông Dương” do ông Navarra viết đế biện minh cuộc bại trận của đội binh viễn chinh Pháp nơi Điện Biên Phủ?

9. Vấn đề tiền tệ bên Nga, từ Nga hoàng bị hạ bệ.

Vào thuở có cách mạng lâm thời Kérensli, muốn mua một đôi giày hay một đôi dép cao su, người xi vinh phái trình giấy thông hành, còn người nhà binh phải trình giấy đặc biệt cho phép. Việc mua giày dép năm sau 1917, chánh phủ chưa nói tới. Khoai, cà rốt, củ cải đỏ, mỗi thị xã phải làm giấy kê khai từ khóm nhà. Mua đường phải có cát, và cát nầy không dễ gì xin cấp phát. Bánh mì đã phát từng góc tư cân (par quart de livre). Trong khi ấy, bọn đầu cơ, bọn tích trữ, bọn giàu mới, phát tài và no nứt trứng...

Về đồng rouble trong thời kỳ cách mạng. Xô viết lên nắm chánh quyền ( trang 206)... Những gì hạn chế từ trước, đều tiêu tùng, hoác trở nên như bỡn cợt trong buổi phong ba nầy. Như đã nói nơi đoạn trước, nay nhắc lại, giá một đôi giày cao bằng ba tháng lương thầy thợ, cuộc xe từ 2 lên 100 rouble, dàng trời. Chủ nghĩa mới lên án, không dùng vàng và tiền bạc. Nước U.R.S.S trở lại thời kỳ người Incan (dân tộc da đỏ Nam Mỹ), không biết tiền bạc; dùng sự đổi chác và phân phát theo nhu cầu (troc ét système de répartiion). Năm 1918, bỏ dùng tiền tệ (monnaie). Năm 1920, dùng phép đổi chác ép buộc (troc obligatoire) (xem trở lại đoạn đổi phãng, thuốc hút nơi đoạn trước). Nhưng, trong lúc ấy, dân vẫn lén làm theo ý dân. Lạm phát vẫn tung hoành, bất chấp chủ nghĩa vĩ đại của nhà nước. Vàng là bạc, tuy đã trốn giấu, một mặt chánh phủ tuyên bố là món hàng “khinh bỉ” (marchandises méprisables), một mặt chính phủ vẫn tuyên bố đó là độc quyền, chỉ có nhà nước (Etat) mới có quyền làm chủ. Tháng 12 năm 1917, chánh phủ ra chỉ thị khai mở hết các tủ sắt tư chứa quý kim dưới bất cứ hình thức nào và thảy đều bị tịch thu (un décret de décembre 1917 ordonne l ouverture des coffres privés et la confiscation des métaux précieux, sous toutes formes). Một sắc lệnh khác tháng juillet 1918 lên án tù khổ sai cho bất cứ kẻ nào còn chứa, mua và giấu bạch kim (platine), bạc và vàng nguyên khối chất, hoặc làm ra nén, đính, hay ra tiền tệ. Tháng juillet 1920, sắc lệnh ban ra và xuống đến nữ trang nào nặng hơn 77 grams (về vàng và 1 ký 200 (về bạc). Về ngoại tệ, thì chỉ thị cấm đã ban ra từ octobre 1918. Các nhà băng đều xã hội hoá (socilisé); các động sản giá khoán (valeur nobilières) đều gom lại và đốt ra tro.

10. Lạm phát điệu tẩu mã (linnation galopante)

Nhà nước Xô viết tuy tóm thu quý kim và chỉ tệ (bạc giấy) và thủ tiêu giấy khoán (giấy nợ) và động sản giá khoán, nhưng vẫn giữ lại (của nhóm tư bản) bản khắc đế in giấy bạc (planche à billet). Lạm phát đó càng lên cao hơn cũ: octobre 1917, có 19 milliards giấy rouble lưu hành. Một năm sau, leo lên 51 tỷ, rồi lên 147 tỷ vào octobre 1920, qua tháng octobre 1921 là 4 trillions rưỡi, rồi 17 trillions đầu năm 1922 qua hơn 2 quadrillions đầu 1923, lên 225 đầu 1924, và 810 vào tháng mars 1924. (Trillion là một triệu triệu; quadrillions là nghìn lần trillion, những số nầy quá sức tưởng tượng của tôi, và nước Việt “Phú hữu tứ hải” của đời xưa, ngày nay dân tân thời Việt, nghe mà chưa tưởng tượng hình dáng số tiền nầy nổi). Đây là chưa kế đến số giấy bạc phát hành của những địa phương riêng, in ra. Nay thống kê những giấy ấy có đến 2.000 nơi xuất phát: nào 42 ở Ukraine, 325 ở Bắc Caucase, 217 ở Transcaucasie, 235 ở Asie centrale, và 547 ở Sibérie orientale... Trên vài thứ giấy bạc nầy, có in câu “Ce billet est garanti par la tête de celui qui le refusera” (giấy nầy có sự đảm bảo bằng thủ cấp kẻ nào từ chối không nhận dùng). Chánh phủ, nhà nước trung ương, vẫn nhắm mắt để làm, một phải chăng vì vô hiệu lực, hai nữa là sự lạm phát phụ trội nầy vẫn ở trong lằn mức của mình muốn có (soit par impuissance, soit parce qu après tout cette inflation supplémentaire sert ses desseins de subversion).

Sự kiện thấy rõ ràng là Moscou muốn cho cuộc tan rã vấn đề tiền tệ lối cũ, sẽ là vừa một phương pháp làm tàn mạt bọn koulaks chuyên làm giàu phi pháp và giỏi chôn dấu bạc giấy cũ trong ve chai, (lời của Lénine), và cũng vừa làm tiêu tan nhóm trưởng giả chuyên ky cóp dành dụm. Thật là vẫn không bứt rứt lương tâm cũng không chút tiếc hối khi chánh phủ nhà nước phát hành giấy bạc, và còn thêm rằng; “Mỗi năm sẽ thêm một con số zéro vào số giấy bạc đã in năm rồi, và làm sao cho một đồng rouble năm nay sẽ hoá ra 10, năm kế, rồi 100, rồi 1.000 và tiếp tục như vậy mãi mãi, tức là nhà nước có quyền muốn thêm mấy con zéro theo ý muốn cũng xong, và không có gì cấm cán nhà nước in trên tờ giấy bạc, hoặc 10 roubles, 10 triệu roubles, để rồi dùng 10 triệu roubles ấy mua tỷ như một cân củ hành Tây hoặc mua một đôi giây cột giày nơi thị trường tự do. Đối với chánh phủ xã hội chủ nghĩa, việc như vậy chẳng có chi là tai hại, thảm hoạ gì cả”

(Il est clair, en effet, que Moscou voit dans la décomposition du système monétaire le moyen, non seulement de ruiner “les koulaks qui se sont enrichis et qui ont enterré des boutailles remplies de billets” (Lénine), mais aussi d anéantir toute la bourgeoisie épargnante. C est sans remords et sans regrets, à des fins d épuration sociale, que l Etat envisage d émettre du papier et d ajouter “chaque année un zéro et plus à la valeur nominale des billets émis, afin que ce qui coûts aujourd hui un rouble, en vaille dix l an prochain, puis cent, puis mille et ainsi de suite... Le gouvernement pourra ajouter sans inconvénients autant de zéros qu il voudra. Bien ne, s oppose à ce qu on inscrive sur les billets de six roubles, dix millions, et qu on donne ces dix millions pour avoir une livre d oignons ou une paire de lacets sur le marché libre. Il n y a rien là-debans de catastrophique pour l Etat socialiste.” (La révolution sociale et les finances). (Trích trương 208 sách Onze monnaies plus deux của R. Sédillot).

Tuy vậy, nào ngờ với cái lối đùa nhỏ nhặt ấy, chánh phú Xô viết đã bị nước ăn lơ bờ. Tưởng rằng có sẵn khuôn giấy bạc, cứ in lún xác xài cho phí sức và tự mình làm chủ cuộc khiêu vũ ăn mừng (mener la danse), ngờ đâu in không kịp với vật giá leo thang (viết ngày 7-12-1983). Mạnh và bạo như Nga Xô viết, lật đổ Nga hoàng cái một, mà không làm sao được với vấn đề tiền tệ trong nước. Tôi không dám nói rằng giải quyết chưa xong, vì nào có qua bên xứ họ mà biết, duy cứ theo sách ghi lại, vả lại sách cũng đã xưa, không theo dõi vấn đề hiện tại, sách của Ren Sédillot đã dẫn, thuật tiếp như sau: (trang 209)

Dân chạy mặt bạc giấy in ra nhưng cái sợ của dân lại mạnh hơn cái máy in giấy rouble. Máy móc đã thua tâm lý, chánh phủ đã không cầm cương nổi và đã ngậm hàm thiếc vào mồm, như con ngựa chứng phải phục thiện? Năm 1918, vật giá leo thang 2 hoặc 3 lần cao hơn sự phát hành; Năm 1919, hơn 3,5; năm 1920, hơn 4 lần. Nếu định chừng số giấy in ra và sức mua sắm của những giấy nầy, tỷ dụ bằng con số 100, thì năm 1916, con số ấy là 170, để rồi tuột xuống năm 1917, là số 131, kế sụt xuống năm 1918, số 55, qua năm 1919, còn 16, rồi năm 1920, dưới 4, qua năm 1921, dưới số 3 và năm 1924, chỉ còn 0,6.

Tính theo roubles davant-guerre (tiền chiến), thì 1 triệu (ùn million de roubles) giá trị đầu mỗi năm, là: 40.000 (năm 1917); 48.000 (năm 1918); 6.000 (năm 1919); 413 (năm 1920; 60 (năm 1921); 3,5 (năm 1922); 0,05 (năm 1923) và ngày 10 mars 1924, chỉ còn đáng 2 millièmes de kopeck.

Sự lạm phát tấu mã ấy kéo dài suốt bảy năm trường. Câu nầy tôi đề y nguyên văn:

L innation galopante a duré sept années. Elle a multiplié les moyens de paiement par 50 millions. Elle a effectivement dépossédé féodaux et bourgeois - tous ceux qui ont pas émigré vers Paris et Londres, en emportant ce qui leur resie de joyaux. Elle a réalisé le plus grand bouleversement de fortunes de l histoire du monde” (trang 209). Nhưng tôi mâu thuẫn lấy tôi và nay tôi dịch cho các bạn không đọc được chữ Tây: “Sự lạm phát chạy đua ấy đã nhơn lên 50 triệu lần, lối, phương pháp tra tiền. Lạm phát nầy làm cho bọn phong kiến và bọn trưởng giả, đứa nào không khéo sớm biết tiên liệu ẵm nhành thầu, ngọc ngà châu báu, chạy trốn qua Paris hay Londres, thảy đều sạch sành sanh (trụi lủi, không còn một sợi lông, câu nầy tuy tục nhưng mạnh hơn) đó quả là một xáo trộn vĩ đại về tài sản chưa từng thấy trong lịch sử thế giới!

11. Monnaies de remplacement (Tiền tệ để thay thế)

- Bài nầy lẽ đáng, không nên viết làm chi, vì nói làm sao cho đầy đú nổi, - nhưng xét lại, mặc dầu không cạn tàu ráo máng, cũng nên ghi lại phòng hờ sách của tôi một ngày kia sẽ có chưn biết chạy:

“Trong khi đồng rouble mất giá, người Nga đã nghiên cứu vấn đề tìm một thứ gì để thay thế là: valeurs-relùges, đối với tiết kiệm, và monnaies de secours, đối với tiền trả cho nhau (pour les règlements). Ban đầu, họ nghĩ ra và lấy hàng hoá thông thường làm bản vị, để đối với nạn hút kém càng tăng. Như ở Moscou, vào năm 1920, muối ăn (sel) thay thế cho tiền. Đứng hàng nhì, hàng ba, sau muối, là bột mì, bánh mì, thịt cả, khoai Tây. Miệt đồng quê nhứt là ở Ukraine, năm 1922, lấy seigle (lúa mạch) làm căn bản thế tiền gọi “Rouble-seigle”, chính các công ty của chánh phủ, như ký nghệ gỗ, cũng dùng roubles-seigle trong bút toán.

Nơi các chỗ khác, thì lựa dầu hoá, dầu bông quỷ (huile de tournesol), vải bông thay cho tiền. Vấn đề đổi chác (troc) của người Nga muốn áp dụng không được thành công, và trớ lại hình thức kinh tế thời kỳ sơ khai (économie primitive). Trong lúc ấy và chạy theo song song là mấy đồng tiền vàng xưa (veilles pièces d or) lại ló mặt và phục hồi giá trị cũ. Theo nguyên tắc thì đã bị huỷ bỏ hoặc bị trưng thu, nhưng sự thật, người dân Nga nhà quê vẫn trọng và quý và gìn giữ cấn thân đồng tiền cũ của Nga hoàng, vì họ xem nó có giá trị hơn tờ bạc giấy của Xô viết. Đồng tiền vàng vẫn đem ra dùng nơi các bến tàu, nơi xứ Transcaucasie, nơi hóc bà tó Tây Nga (confins occidentaux de la Russie), và vùng Đông Á (Extrême-asie). Nơi một hãng kỹ nghệ lớn ở Moscou, thấy thợ nài trả bằng vàng. Nhiều cơ sở của chánh phủ bắt đầu dùng tiền trở lại. Nếu chánh phủ không ngăn và cứ để cho làm, thì ắt đồng tiền bằng kim khí sẽ hồi sanh lấy nó. Rồi, những ngoại tệ, theo nguyên tắc là cấm, cũng nhảy ào vào thị trường. Ai lại chẳng ưa và có ai lại từ chối không nhận đồng đô la Mỹ, đồng sterling của Ăng Lê, nơi các tỉnh ngoại biên Nga, như Ba Lan, Thổ Nhĩ Kỳ, A Phú Hãn, Trung Quốc, Nhựt Bản, thảy đều thích xài tiền của họ hơn là tiền rouble của Nga.

Moscou bèn phản ứng, nhưng ỉngầm nhìn nhận chưa bỏ tiền tệ được (Il est impossible dabolir la monnaie). Năm 1921, Uỷ ban nhơn dân bày “étalon travail”, để theo đúng phương pháp Karl Max. Chọn troud là “một ngày nhơn công” làm bản vị, tiêu chuẩn, nhưng mặc dầu quyền lực của lao động vô sản giai cấp, tiền nầy không được dân chúng thích, nên lại dẹp. Thành thử, phải nghĩ ra cách thức, và thay cho đồng rouble, đã xuất hiện ra, nào là:

- Rouble-marchandise, của nhà băng chính phủ (Gosbank) năm 1921;

- Tchervonetz, (có nghĩa là “sáng” - brillant), năm 1922, trị giá 10 rouble-or, tức 7,74 gram vàng y, hoặc tương đương 5,15 dollards. Từ lối năm 1923, nước Nga có hai thứ tiền tranh nhau: đồng rouble do ngân khố chính phủ phát hành và tchervonetz do nhà băng Gosban của chính phủ phát hành, cho đến tháng fevrier 1924, ngân khố cho ra rouble “dixième de tchervonetz”.

Năm 1923, tháng mars, đồng rouble mới (dixième de tchervonetz) trở nên monnaie légale (tiền chính thức công nhận), giá trị ăn 1 đồng mới nầy ăn 50.000 rouble cũ của năm 1923, tức 5 millions rúp 1922, và bằng 50 milliards rúp xưa (1921) vân vân. Luật lệ phát hành trở lại gần y của một nước tư bản, đến đây tôi xin tạm ngừng vì nói thêm nữa chỉ rộn trí người đọc mà chẳng tới đâu vì việc biến đổi hiện thời bên Nga, tôi nào biết chút gì, duy rõ lại, lúc ban sơ chê vàng, không dùng, nay thi đua tìm và khai thác mỏ vàng ở Sibérie, thêm nhiều việc biến chuyển trong nước, nào binh Đức quốc xã của Hiler xâm lăng, xáo trộn một lúc, kết cuộc vẫn trong vòng lẩn quẩn, theo tôi là chưa có lối thoát, chung quy, phải đọc nguyên văn sách ngoại quốc, hoạ may hiểu chút ít về vấn đẻ tiền tệ ngày nay của các nước, và đừng đọc những gì tôi viết chẳng qua “ếch nằm đáy giếng, toan nói chuyện trên trời”. Vàng, bạc, tiền đồng, nữ trang, quý kim các loại, không khác “người quân tử” hất hủi, đày đoạ, rồi độc quyền tàng trữ trong tay kẻ mạnh, chắt mót, dành dụm, an ủi, ghét cũng mi, mà thương nhớ cũng mi, vàng bạc kim cương platine, đúng là “inutile” (vô ích) nhưng cũng “irremplacable” (không gì thay thế), làm tội người ta không ít. Bài nầy quá dài và gần lạc đề, nên dành thì giờ đọc và hiểu trở lại về Agonie de l’indochine cua H. Navarre, có lẽ thú hơn (viết 8-12-1983).

12. Trở lại đọc sách cũ, và về cuốn “l’agome de l’indochine” của tướng H. Navarre

Tôi có tật lớn, hay nói lê thê dông dài, không biết bao giờ dứt, vì đây là tôi nói tôi viết cho tôi đỡ buồn, không khác mấy chị đi gánh nước mướn, vừa gánh gánh trên vai, nhơn thì chạy, miệng vẫn lầm bầm, người bàn cây đề đã xổ, người than nhà đã hết gạo, chồng thì bỏ nhà đi biệt, con lại ốm đau, lại mấy sao đâu? Phải nói cho đỡ...

“Ngồi buồn khuấy nước giỡn trăng, nước xao trăng lặn buồn chăng hỡi buồn!”. (khuấy hay quấy, vọc hay chọc, xao hay dao, cũng không quan hệ, miễn nhớ cho buồn vẫn là buồn), ông Navarre nầy cũng vậy. Ông được cử qua đây cầm đầu đạo binh viễn chinh, đánh cầm cự đã hơn bảy tám năm, đánh cù nhầy không thấy thắng nổi, nay về tay ông chấp chướng, thì chẳng bao lâu xảy ra trận bại chiến lớn nơi Điện Biên Phủ, thôi rồi công lao hạng mã bấy lâu, chỉ còn lại danh “tướng bại trận”..., viết đến đây khiến tôi nhớ “bắt quàng, qua bài thơ tương truyền là của phò mã Trị, đời Tây Sơn làm khi thua trận, bài thơ ấy tôi đã có kể rồi nay xin lặp lại nơi đây:

Miệng sành thơ

Sa cơ một chút hoá tan tành,

Thiên hạ đều kêu cái miếng sành.

Sắc lém như gươm người gớm mặt,

Rán sao ra mỡ chúng hay danh.

Ghe phen sắp cật nằm trên cát,

Có thuở làm chông đứng vách thành.

Chuông khánh dầu ai không dám sánh,

Gõ chơi cũng có tiếng canh canh!


Độc giả nên xem lại lời chú thích trong quyển 3 bộ Hiếu cổ đặc san, trang 41, ở đây tôi chỉ cần nêu thêm tâm sự ông Navarre nầy không khác, cũng như việc gần đây, tôi xin nói luôn, để so sánh: Vừa rồi, ngày 2-12-1983 mới đây, sáng sớm, tôi còn ngồi nơi sân sau nhấp chén trà buổi thanh tâm, bỗng có một người đến nơi cổng sân, tần ngần ngó ngay mặt tôi, nửa cười nửa như quen thân lắm, xưng “Đại tá Tư”, tôi nhìn không ra, lật đật mời vào, rót trà mời (nhưng khách đi rồi, chén trà vẫn còn nguyên), khách hỏi tôi “đồ xưa ắt làm gì xài cho hết?”, tôi cẩn thận đính chính “xưa nay, đó là vật sưu tập cùng và nưng niu như vợ bé”, chưa từng bán chao hay gá đợ một cục yêu nào”, tôi tình thật hỏi, khách nói cho một hơi không ngừng: “Đi cải tạo ngót bảy tám năm, năm tháng chỗ nầy, mấy tháng chỗ nọ, vân vân và vân vân hại thay tôi vẫn bơ phờ không nhớ rõ đã từng gặp hay quen ông nầy nơi nào, khách hói thêm một câu: “Đã ghé nhà bà Phước Mỹ, nhưng bà đã từ trần”, nói xong khách từ giã cho biết sẽ ghé quê là Cà Mau, nhưng cũng chưa biết nhà cửa còn chăng, và khi ra khỏi cổng, khách nói với: “Nếu mà không còn, thì còn nhà bà con thân quyến”... khách đã ra về mất dạng, tôi vờ vẫn mấy ngày rừng đào óc tìm không ra danh tánh ông nầy, mãi đến chúa nhựt 4-12, có người cho tôi rõ, thì đó là cựu tỉnh trưởng Gia Định trước đây, một nhơn vật chầu gần đây đồng cánh ngộ phò mã Tây Sơn và ông tướng Pháp thua trận Điện Biên Phủ, có lẽ anh hùng lỡ vận lại rủi gặp thằng chơi đồ xưa vận lỡ! (viết 9-12-1983).

Theo chỗ tôi nhận xét, tướng võ H. Navarre có một giọng văn rất sạch, đanh thép rất “kẻ cả”, tỷ như khi luận về ông tướng Hinh ở Việt Nam (trang 139), rõ là giọng đàn anh, và trọn cuốn sách - ông bị chê là tướng bại trận, nay phải biện minh việc làm của mình, ông dùng toàn lời thanh và giải bày tường tận, không phải dành cho độc giá tầm thường, mà ý ông là nhắn gởi vào chính trị gia, nghị viên và nguyên lão nghị viên, tuy giỏi về “chinh chị chính em”, nhưng việc binh pháp đánh giặc, chẳng hiểu mô tê gì cả đã làm cho nước nhà hao binh và thua trận Điện Biên, lại trút tội cho ông, giọng của ông, theo tôi là giọng phò mã Trị, rủi tay một phút hoá ra miệng sành, nhưng gõ chơi cũng có tiếng canh canh. Trong sách có nhiều danh từ chuyên môn, tôi không hiếu hết thì làm sao dám đặt bút phê bình, - tóm tắt phải đọc trang 48 so sánh binh Tây và lính Cộng, trang 72 nội các ở Paris muốn thâu gọn chi giữ Cochinchine, trang 100 nói về sự dụ dỗ lính Tây qua đây đánh giặc, cho gởi tiền về xứ, 1$ gởi đi qua Pháp lãnh 1$ ăn 17 quan, đến nơi trả theo thị trường 1$ ăn 10 quan, bọn lái bạc thừa nước đục thả câu làm giàu trong nhấp nháy, trang 18, ông tự hỏr “biết khó thắng, sao không từ chức” - và ông tự trả lời mình là con nhà tướng, lịnh trận sai đi đâu thì dầu chết cũng không giờ từ nan, trang 220 tả cuộc chiến Điện Biên Phủ, trang 229 về nhà báo nói xấu quân đội mà chánh phủ làm ngơ, trang 272, lịnh Paris dạy ông nên đánh cho địch thủ biết lợi hại dường bao mà không cần “đánh thắng”, tôi nói ông thanh nhã, vì tỷ dụ trong quyển sách, ông không giờ quy tội “đánh thua” cho ông Pinay, vì nể ông nầy lúc “làm thủ tướng”, nhưng vì sau đó ông nầy viết sách toan trút tội cho “tướng cầm binh” (tức chính ông H. Navarre), nên ông thẳng tay trả lời đính chính từng ly từng chi tiết nhó (xem bài “Pépolsa à Mie Présiden A. Pinay”, nơi mấy trang chót từ trang 307 và nhứt là nơi trang 320: ông nói thật ra hết: nước Pháp thua, vì chánh phủ không giữ vững lập trường, nói đúng ra là “thiếu lập trường”, suốt tám năm “sai qua đây chống đánh với quân phiến loạn”, 1) Từ đầu chí cuối, không có tôn chí hoặc có mà không chịu nói rõ ra cho người cầm binh rõ biết, 2) chánh phủ không dám nói cho dân chúng Pháp biết là có chiến tranh ở Đông Dương, 3) chánh phủ không biết cắt nghĩa và khuyên dân hết lòng giúp chánh phủ tẩy trừ giặc loạn, và sau đó, chánh phủ không biết giải quyết vấn đề “cầu hoà”, 4) Chánh phủ không đủ nghị lực để đưa một đường lối cho các “quốc gia liên hiệp” hay cộng lực với mình, phải ráng chịu đựng trong chiến tranh và 5) chỉ biết ngày theo ngày, giải quyết lần hồi “việc quốc gia đại sự” bằng phương pháp tạm bợ và vẫn không theo kịp sự biến chuyển của thời cuộc, 6) chánh phủ không can đảm, miệng nói bôi bỏ vấn đề “thuộc địa” mà bề trong muốn thuộc địa còn tồn tại như xưa, 7) Chánh phủ không trung tín và giữ lời với liên bang Đông Dương, tính thế nước Pháp là nhà đã sạch tiền, dân chúng thua Đức vẫn chưa lại nghỉn (đau mới mình), vết tích chưa lành, mà toan cướp nước của dân bị trị xưa để làm thuộc địa như cũ hứa với Lào - Miên - Việt bằng cách “cho ăn bánh vẽ”, đưa tay cầu cứu xin tiền xin máy bay đạn dược của Mỹ mà vẫn sợ Mỹ đoạt cái núm vú béo bổ ở Đông Dương, thiên thời (không có máy bay), địa lợi (không phục thuỷ thổ và không biết rành địa thế), nhơn hoà (không có, vì dân Đông Dương đã chán cảnh làm mọi ngày xưa), trong quyển sách, tướng Navarre than câu đau đớn: “Quyển dạy về binh thơ chiến lược “de la Guerre” của Carl von Clausewitz người Việt Minh từng đọc và thuộc làu hơn các ông trong Nội các ở Paris, giỏi tài đổ thừa, ông đã xin đủ binh đủ khí cụ, đã làm ngơ hay cho đã quá trễ, nay nhà sụp đổ là tại nhà thầu cung cấp thiếu xi măng, không nên trách kiến trúc sư kém tài xây dựng! Thuở nay đang giao chiến mà Nội các mở hội nghị nào ở Berlin, nào ở Genève, làm ngả lòng quân binh, không bại trận sao được?

Tôi đây “hơn nửa đời” làm mọi cho Tây mà vẫn bị đè đầu không cho trồi lên, tôi không biết nịnh hót, và nếu trong bài nầy, tôi có ý cũng chê mà cũng có đề cao người chủ cũ, là ý tôi hiểu mình “thắng được họ ở Điện Biên Phủ là đúng với câu của Tú Xương: Xưa nay em vẫn chịu ngài, và càng khen mấy ông thầy dạy nghề võ mà bị mớ học trò cũ và tay ngang cho đo ván, mới phải điệu người ăn ngay nói thật (viết ngày 11-12-1983).

Bên Pháp, nội các thay liền liền như thay áo, chánh phủ là bè phái phe đảng thay nhau lên cầm quyền, việc bọn họ thì rối như tơ, tiền không có mà muốn giữ mãi thuộc địa! D’Argenlieu thì muốn cho còn đạo Gia-tô, các tướng khác qua đây, đánh giặc mà binh không đủ dùng, binh khí, máy bay, xe tăng, tàu chiến phải chờ xin Mỹ, mượn Anh, vân vân, mãi chần chờ mà con hổ trong rừng thêm nanh thêm vuốt, làm sao thắng nổi? Valluy và Morlière, thì bất hoà nhau, quen hầm hừ mà con mồi chạy vuột. Salan, từng dẫn đạo Bác Hồ qua Pháp, từng đóng vai phó tướng cho Leclerc, de Lattre, Fly, v.v..., già kinh nghiệm, biết nhiều về Đông Dương, vì lấy tin tức, cơ mật bên địch là vẫn chung quanh bàn đèn, như ở nhà lão thầy rùa Marius Chevanieux, hoặc do mấy ông cố đạo nhờ con chiên mách lối: Gomez, Drapier ngoài Bắc, còn trong Nam thì lợi dụng tôn giáo, nào Hoà Hảo, nào Cao Đài, một chạy máy tàu mà đưa lên làm soái là Năm Lửa, không ngần ngại dùng luôn dao búa, du côn Bảy Viễn, Bình Xuyên, trông mong gì thắng người bên kia, lúc đầu một mảy của dân không phạm, làm như “hành chánh đạo”, “cứu quốc”, “đem độc lập về non sông tổ quốc”, trước đuổi Tây sau rượt Mẽo, dân theo rầm rầm. Trong khi ấy bên Pháp, hết Lon Blum, đến Ramadier, rồi nào Robert Schuman, kể không xiết một nội các, ngày 5 juin tuyên bố nhìn nhận Bảo Đại, rồi qua ngày 8 juin, cũng nội các ấy đem ván bài Bảo Đại ra bàn cãi lại, thảo nào? Trương 151, hồi ký Salan hạ câu: “c est à n y rien comprendre” tôi xin dịch “Có ông Trời mà biết”? Trương 136, báo tin Nguyễn Bình, có lịnh đòi gấp về Bắc, trong khi lội đường rừng, tới rú Srepok, bị một viên đạn lạc của một tên lính quèn Đàn Thổ mà chấm dứt cuộc đời phong ba oanh liệt. Số vua Bảo Đại chinh chông đã đành, số tướng Salan cũng không hơn. Ông tướng nầy mãi xin viện trợ hoài hoài mà làm phật lòng Paris, nên Paris bèn sai Blaizot qua thay, - việc quốc gia đại sự mà giải quyết “như bọt xà bong”. Bên võ như vậy mà bên văn cũng thế ấy: cặp Bollaert/Salan rút về, cặp Pignon/Blaizot qua thay, và vẫn “trống đánh xuôi, kèn thổi ngược”. Năm 1946 lúc còn trên đất Ấn, thì Blaizot là chủ, Pignon thuộc dưới quyền, qua năm 1949, ở Đông Dương thì Blaizot lại đặt dưới quyền Pignon, cho nên không thể nào thuận thảo nhau được. Paris sai tướng Revars sang một vòng xem xét tình hình, chuyến về Paris, vẫn đòi gấp rút cấp thêm lính và thêm binh khí cho Đông dương, y một kẻ của Sa lan, nhưng lấy đâu mà cấp vì bên ấy vẫn thiếu người thiếu của, tình hình sau trận chiến 1939-1945, Pháp vẫn như người đau mới mạnh. Thiên “chuyện cũ kể lại” nầy không dám dài dòng, nhại lại các sách khác đầy đủ và hấp dẫn hơn nhiều, tóm tắt lại: Pháp muốn duy trì thuộc địa để có chỗ cho con cháu “làm ăn”, còn ta thì một một hai hai, quyệt trừ dứt nạn “làm tôi cho nước khác”, chung cuộc: các con cờ hay, Pháp đều đem ra dùng: một nhà tu “hạ san” khoát áo nhà binh chỉ làm chết một bác sĩ bỏ nghề ra làm chánh trị, d’Argenlieu làm sao tu cho thành? Kết quả cho thấy, hai tướng có thành tích lớn: Leclerc và de Lattre đều bỏ mình, và hai con dòng dõi “gạo cội” vẫn bỏ thây chiến trường: Bernard de Lattre chết ngày 30-5-1951, Henri Leclerc de Hauteclocque, ngày 3-1-1952, và theo một sách tôi đã đọc, nhớ chính tướng de Lattre, lúc sắp tắt hơi, câu trên môi “Bernard, attends moi” (Bernard, chờ cha đi với) cây nầy khiến tôi tự hỏi “phải đúng con người có linh hồn rõ ràng và đây là hồn cha nhớ con quyết theo con”.

13. Luận chơi về Hàn Tín

Đến đây tôi chợt nghĩ viễn vông chuyện bên Tàu chuyện xưa đời Hớn, vả xin viết lại để quên buồn. Vua Cao tổ Lưu Bang, có nàng phi là Thích phu nhơn, có con trai là Như Ý, tước là triệu Vương, hai mẹ con vẫn không toàn tánh mạng, và đều chết trong tay Lữ hậu, (cho nên tôi tin là có số mạng: số mạng Hàn Tín, thắng được người danh nhứt đời ấy là Hạng Võ, nhưng chết vì tay một đàn bà yếu đuối là Lữ Hậu (cũng như việc triều nhà Nguyễn, biết phòng xa, không phong Hoàng hậu (sợ đàn bà chuyên quyền), không lấy Trạng nguyên, không phong Tể tướng (sợ bầy tôi làm lớn chuyên quyền, nhưng buổi loạn, mọc ra Nguyễn Văn Tường và Tôn Thất Thuyết giết gần trọn dòng Nguyễn Phúc, nào biết mà ngờ trước được)? Nhắc lại Thích phu nhơn, nhơn hầu Cao đế, đem con là Như Ý ký thác cho vua. Cao đế nghĩ ngợi hàng nửa ngày không nói lời nào, chỉ thở dài rồi bảo phu nhơn gõ sênh để vua hát giải sầu. Đến khi Trương Lương mời được bốn ông già có cao danh về giúp Thái tử (con bà Lữ hậu), Cao đế mới trả lời Thích phu nhơn rằng: “Trẫm muốn thay đổi, nhưng nó (phe Lữ hậu) có vây cánh quá mạnh, không làm gì được nữa”. (Gẫm lại đã làm vua mà vẫn còn sợ vợ, vì vua lúc ấy đã quá già, và binh quyền vẫn ở trong tay “không phải của vua nữa”, không khéo, vua cũng bị hại, chớ đừng mong giúp đứa con người vợ bé). Thích phu nhơn mũi lòng, khóc... Cao đế rằng: “Khanh múa lối Sở, trẫm hát giọng Sở, bài hát như sau:

“Hồng hộc cao phi hề, nhất cử thiên lý,

Vũ dực dĩ thành hề, hoành tuyệt tứ hải.

Hoành tuyệt tứ hải hề đương khải nại hà?

Tuy hữu tăng trước hề, thượng an sở thi”.
Dịch:

“Con hồng hộc ba cao vậy, cất một cái cao ngàn dặm,

Nó đã mọc vây cánh vậy, ngang dọc bốn bể.

“Ngang dọc bốn vậy làm sao bây giờ

“Dẫu có tên có dây vậy, cũng phải chịu thôi!


(theo bản dịch “Nguyễn Quang Oánh, Tình sử, in năm 1931, trang 173)

Tôi thuở nay ngu dốt, nhưng vẫn thích thơ có ý nghĩa và nhớ trong sách nào để khi có việc lấy ra xét đời. Chuyện kể tiếp, khi Cao đế mất rồi, Lữ hậu sai bắt Thích cơ gọt đầu và giam vào ngục, cho mặc áo tù và bắt giã gạo. Thích phu nhơn vừa giã gạo vừa hát bài như sau:

Tử vi vương,

Mẫu vi tù.

Chung nhật thung bạc mộ,

Thường dữ tử vi ngũ.

Tương ly tam bách lý,

Đương sử thuỳ cáo chữa

Dịch:

Con làm vua, mẹ ở tù.

Suốt ngày phải giã gạo,

Cùng với lũ phải tội chết.

Mẹ con xa cách nhau ba trăm dặm,

Khiến ai báo tin cho con hay”

(Trang 174 bản đã dẫn).
Đã thân trong tù mà không biết nhịn, lại sính làm thơ. Mình tự giết lấy mình. Lữ hậu đã ghét ghen sẵn, hay được, giận lắm, bèn sai đòi Triệu vương Như Ý về, đánh thuốc độc cho chết, rồi chặt cụt hai chơn Thích phu nhơn, lúc sắp chết, Thích phu nhơn thề rằng: “Cầu xin cho Lữ hậu kiếp sau làm chuột, thiếp làm con mèo, đời đời kiếp kiếp, ăn thịt mi mới đã”.

Lời bàn: Đời ấy, mỗi mỗi đều có người học lại. Lữ hậu nghe nhưng giả điếc, khi Cao đế khóc than với nàng Thích thị, đến phiên Thích thị làm thơ than khóc, thì như lửa chế thêm dầu. Ngày xưa không có luật nhơn đạo, để cho xuất ngoại, và mỗi việc đều chém rơi đầu gọi trừ căn rễ, xét ra quá độc, quá ác.

Hàn Tín liệu việc đều hơn người, mà thua trí đàn bà. Cao đế hèn nhát, giả việc đi săn lánh mặt để cho Lữ hậu gạt Hàn Tín vào cung sát hại, Tín chết rồi, Cao đế tiếc và nhỏ mấy giọt nước mắt cá sấu, thật là giả dối đáng ghét. Hàn Tín khi Cao đế hỏi, đã không xuống nước, lại còn giữ tật cũ, khoe tài: (đoạn nầy, truyện dịch rất khéo, tôi xin viết lại đây giải buồn: “Tướng với tướng hại lẫn nhau: “Tuỳ Hà chạy sớ, kẻ vạch với Cao đế việc Hàn Tín, từ đặng phong đất Sở, đoạt ruộng của dân, nuôi binh mã và giấu tướng giặc là Chung ly Mụi, là ý không lành. (Tôi với tôi kẻ nhau).

Cao đế hỏi kế, quần thần đều hăm hở xin đi đánh, Trần Bình rằng Tín trí mưu không ai lường được, binh không đánh nổi, và bày kế vua giả đi chơi nơi đầm Vân mộng, chờ Tín tay không đến yết kiến, sẽ bắt dễ hơn. (Tôi với tôi ganh tài, hại nhau, bạn với bạn, hạ nhau để lập công). Tín được chiếu chỉ, vào nói với Chung ly Mụi, Mụi đáp: “Xin chớ lầm, hôm nay giết tôi, chẳng mấy ngày sau Cao đế sẽ luôn tay giết tướng quân”, Tín không nghe, rằng như vậy Hớn đế phụ ta, chớ nay ta quyết tỏ lòng ta không bội phản Hớn đế! Mụi rút dao tự vận, Tín nạp đầu bạn cho vua nơi Vân mộng, Cao đế sai bắt trói, buộc tội oa trữ tôi giặc, nay lỡ cơ chớ thiệt không lòng giết Mụi, và tội mang lòng phản khó chối. Tín kêu oan, Cao đế bắt tội: tội đoạt ruộng của dân, tội dàn dá binh đao lúc thái bình, tội giấu đảng nghịch làm nha trảo. Tín thưa: Xưa hàn vi rất vi khuẩn, nay đặng phong vương, phải làm hiển tôn cha mẹ, ấy là hiếu, không phải tôn trọng; nay trần binh là vì phe đảng của Sở hãy còn, phải thị oai cho thiên hạ biết mà tránh, là củng cố oai vua, không phải tội, còn như Chung ly Mụi, vốn là cựu giao, xưa Mụi cứu khỏi chết, nay muốn ơn đáp nghĩa đền, Mụi là tướng có tài, định đem ra tâu lên để vua dùng, ân xá tội kia, tỏ ra biết thâu dụng hiền tài, không ngờ vì lời gièm siểm nên phải ra tay cho bệ hạ khỏi nghi, chớ không lòng nào phản nghịch.

Cao đế hỏi: “Xưa đi đánh Tề, sao chẳng đoái công Lịch sanh dụ hàng, lại kiểu chiếu giết đi, đặt mình làm Tề vương giả, phái chăng ý đã muốn soán? Tội thứ hai là khi trẫm bị binh Sở vây nơi Thành Cao, ghe phen cầu ngươi đến cứu, nhưng ngươi đành lòng ngồi chờ xem thắng bại, không có lòng cứu viện; tội thứ ba là khi trẫm phong ngươi qua Sở, ngươi trọn ngày buồn bực, có phải đã manh tâm phản phúc, nay trẫm ra tuần Vân mộng, biết ngươi sao sao cũng đến, nên bắt ngươi, để lâu sanh loạn, ngươi còn lời nào biện bạch?”

Đọc đến đây, tôi xếp sách lại, nghĩ tội nghiệp cho Hàn Tín. Khi Hạng Võ còn, Võ xin cầu hoà, “chia ba thiên hạ”, Tín không nghe, quyết giết cho được Võ, gom giang san về tay Cao đế, buổi nào còn là Tam Tề Vương, cả Hạng lẫn Lưu đều sợ và muốn làm thân, nay Hạng Võ chết rồi, Lưu Bang không nghĩ ơn, lại bắt trói và lên án đòi giết. Nơi đây Hàn Tín than một câu bất hủ: “Lời xưa nói không lầm: “Giảo thố tử, tẩu cẩu phanh; cao điểu tân, lương cung tàng; đếch quắc phá, mưa thần vong” (chồn thỏ hết, thì chó săn chết; chim rừng hết thì cung nõ dẹp; nước giặc phá, thì mưu thần mất). Nay thiên hạ đã định, thì tôi phải chết!”. Cao đế dụ dự, chưa nỡ giết, bèn thâu ấn Sở vương, trói Hàn Tín bỏ vào xe sau, giải về triều. Truyện nói khi xe giá đi ngang rừng, có kẻ tráng sĩ núp quyết giết Cao đế để trả ơn Tín, thư vậy Tín còn có người mến, sau nhờ Điền Khản tâu nài, Cao đế xét lại, tha tội chết cho Tín, phong Hoài âm hầu, để xem chừng động tịnh, một hôm nọ cho đế đòi Tín vào chầu, vua tôi tâm sự:

- Đã lâu không thảy mặt khanh, nay nì lớ nên triệu vào thăm một bữa.

- Thần, lúc phá Sở, nhiều khi hơn mười ngày chưa đặng ăn một bữa gọi no; nhơn tích trữ lâu, nay sanh bịnh, bay giờ vì ở không bịnh cũ lại phát, chớ thần cũng hằng nhớ tưởng thiên nhan, vì hiềm chẳng đặng thường thường triều kiến.

- Nếu khanh có bịnh, thì phải rước thầy điều trị, chẳng nên để lâu?

- Thần vì vô sự ở nhà không nhưng nên sanh bịnh, khi nào có việc làm thì ắt khỏi.

- Khanh là người có tài, đáng để dùng, khanh hay làm xong việc, không nên bỏ luông.

Nhơn lúc thung dung, Cao đế hỏi ý kiến Tín về các tướng tá, người nào ngăn được giặc, người nào trị được binh, nhiều ít và hay giỏi thế nào, Tín nhứt nhứt tâu bày, lời trần thiết đều hợp ý vua, vua lại hỏi:

- Như trẫm đây, trị binh được bao nhiêu?

Câu nầy là câu Cao đế hỏi dò ý Tín, nhưng rủi cho Tín quá trực ngôn, đáp:

- Bệ hạ trị binh, bất quá, tới mười muôn mà thôi!

- Còn như trẫm với khanh, thế nào?

- Muôn tâu, thần, đa đa ích biện nhỉ (Tôi thì nhiều nhiều lại càng thêm hay).

Cao đế cười lớn:

- Nhiều nhiều thêm hay, sao còn bị ta bắt?

Tín nhè nhẹ tâu nhưng đã lỡ:

- Bệ hạ không hay dùng binh nhưng có thực tài trị tướng. Vì vậy tôi mới bị bệ hạ bắt. Vả lại, bệ hạ là mạng của trời cho, chẳng có sức người nào bì kịp.

Một lời nói luỵ mát dạ vua nhưng không gỡ được mối hoài nghi của một Cao đế vừa ganh tài, vừa sợ Tín, và không muốn để một kẻ lợi hại như vậy sống chung một thời. Trực ngôn quá không nên, năm xưa tòi viết về Đỗ thập nương, tiếc cho nàng gặp chồng không xứng đáng, nay luận về Hàn Tín, quả ông không nỡ phụ vua, mà vua đã phụ người bề tôi tài quá cao, và Hàn Tín có tài thấy xa hiểu rộng mà xét lòng Cao để không thấu, và cái gì Cao đế không nỡ làm thì giả đi vắng để cho Lữ hậu ra tay, tay đàn bà dữ thật, và làm vua như Cao đế, nay đọc thấy chán cho vua chúa quá. Tuy vậy có sách để đọc cũng tiêu khiển được phần nào, và đọc qua sách Pháp tân thời lại thấy một gương na ná: (viết đến đây ngày 15-11-83).

Trong một quyển sách mua ở Chợ Trời, giá không hơn một tô phở, mà dạy khôn không ít.

Trong một quyển sách mua ở Chợ Trời, giá không hơn một tô phở, mà dạy khôn không ít L’Affaire Toukhatchevsky, của Victor Alexandrov (Robert Laffont, Paris) kể một chuyện không khác chuyện Hàn Tín cho lắm. Trận đệ nhị thế chiến 1939, ông trùm đỏ Staline sai hành quyết Thống chế Marcchal Toukhatchevsky và bao nhiêu tướng tài khác là do Hiler thi hành độc kế trừ bớt các tướng ấy trước khi ra tay quyết thâu đoạt Nga quốc. Câu chuyện tóm tắt như sau: Hai bạn chiến tranh từng cam khổ, gặp nhau, người bạn kết luận với Thống chế Toukhatchevsky: “Mầy (hai người quá thân lên xưng hô thư lúc ở chiến trường), Mầy, người ta đồn rất giống đế Napoléon 1erè, nhưng tao xem không giống chút nào - Sao vậy - Vì mầy không biết “làm đảo chánh!” – Ý, đừng nói bậy mà chết cả đám! “Nó” giỏi hơn tao - Ừ! Mầy lẫn kiêng mãi mà quên rằng “Nó” không dung tha mấy: một là mầy có thực tài hay giỏi hơn “Nó” nhiều; hai là mấy danh vọng hơn nó nhiều, mầy “công cao, đức dày” hơn Nó, và mấy chớ quên: một khi mình lấn lướt vừa về tài, vừa về quyền lực, thì “nó” khó dung tha mấy được. Và sở dĩ tao nói cho mầy để mầy tiên liệu là vì, nếu mầy bị hạ, thì tao đây “nó” cũng hạ luôn, và hỏi tao nói cho mầy lo cho mầy là tao nói cho tao và lo cho đời tao đây vậy”.

Và mặc dầu có người cho hay trước nhưng Toukhatchevsky do dự và rốt lại bị “nó” giết trước cho tiệt hậu hoạ, và chẳng những Toukhatchevsky bị giết mà mấy muôn tướng giỏi của Nga cũng bị hạ sát, chẳng qua là lầm kế Hitler bày phản gián kế ấy để trị bớt tướng có tài lực trước khi dấy binh đánh Nga khiến cho trận đệ nhị thế chiến ấy đã làm cho bốn chục triệu sanh linh của hoàn cầu, trong ấy có mười bảy triệu sanh linh Nga chôn vùi nơi bãi chiến trường - riêng tướng Toukhatchevsky, công trùm thiên hạ, 27 tuổi đã cực phẩm nguyên suý đến năm 1936, nước Nga đặt ra chức Thống chế (Maréchal) là để thưởng công các đại công thần phe võ thì Toukhatchevsky là Thống chế trẻ trung nhứt để rồi chết non chết yểu y hệt Hàn Tín mấy ngàn năm trước, và phải đợi kỳ đại hội 22è congrès, Khrouchtchev phanh phui việc kín ấy ra, mới phục hồi danh dự lại thì đã quá trễ tràng, nơi đây tôi không muốn lê thê dài dòng và xin mời độc giả tìm xem nguyên văn vẫn khoái trá hơn. Duy tôi xin nhắc chuyện nầy sao mà rất giống chuyện Khoái Triệt khuyên khéo Hàn Tín mà tiếc thay Tín không nghe, thật uổng, và câu chuyện tôi kể lại như vầy: Khoái Triệt, một mưu sĩ, nhơn thấy thiên hạ quyền cả đều vào tay Hàn Tín, một hôm thừa dịp vào dinh, bàn riêng với Tín rằng:

- Ngày trước, tôi có gặp một dị nhơn dạy tôi coi nghề tướng, vậy nay tôi xin xem tướng cho đại vương. Và như tướng của đại vương đây: Xem trước mặt của ngài, bất quá thì đặng phong hầu, còn xem cái lưng của ngài, thì sang chẳng biết đâu mà nói(1).

Hàn Tín giả chước không hiểu, hỏi:

- Tiên sanh nói như vậy, nghĩa là sao?

Triệt thưa:

- Xưa lúc thiên hạ mới dấy, khó mà ra sức duy lo miễn sao dứt được nhà Tần là đủ. Nay Sở, Hớn tranh hùng, làm cho thiên hạ mật gan đều thoa dưới đất, thây phơi ngoài đồng vô số kể, người nước Sở thừa dịp quét sạch năm nước, oai rúng đâu đâu, song nay Sở bị bức nơi Tây San, không bước tới đặng nữa, còn Hớn vương chiếm chỗ bền, cách trở núi sông, một ngày đánh mấy trận mà chẳng có công chi, ấy là lúc nhị vương đều khốn, mạng vận đều treo trong tay túc hạ, chi bằng lấy hai chỗ lợi cho mình, chia ba thiên hạ, đứng riêng một cõi, cái thế chẳng ai dám động đến, túc hạ chiếm chỗ cường là nước Tề, gồm dân nước Yên, nước Triệu, choán phía Tây thì thiên hạ ắt theo nhiều, vả lại “trời cho mà chẳng lấy thì bị tội, thời tới mà không nắm, thì ắt có ngày bị hại”, xin túc hạ hãy nghĩ xét cho chính”.

Hàn Tin dùn thẳng không quyết, lại nói:

- Hớn vương đối đãi ta rất hậu, há vì ham lợi, mà bội nghĩa hay sao?

Triệt thưa:

- Xưa Trương Nhĩ và Trần Dư kết bạn rất hậu, sau cũng vì tranh nhau việc Trương Am và Trần Trạch, mà Trương Nhĩ giết Trần Dư nơi phía Nam sông Đế Thuỷ, đầu mình phân ra hai xứ, nay túc hạ cùng Hớn vương có hậu cho bằng hai người ấy sao? Còn việc thì vẫn lớn hơn việc của Trương Am và Trần Trạch nhiều, nên tôi lo thầm cho túc hạ. Túc hạ tin chắc rằng Hớn vương chẳng hại, thì là lầm to. Phàm thú rừng tiệt thì ắt làm thịt chó săn, túc hạ phải lo xa mới đặng. Vả lại dũng lược mà rúng chúa thì ắt có ngày mình phải khốn. Công trùm thiên hạ, ấy là việc chặng thường. Túc hạ nay mang cái oai rúng chúa, cầm cái công chẳng biết sao mà thưởng, như thế mà muốn cho đặng an thân mãi hay sao?

Thật là lời lời châu ngọc, tiếc thay Hàn Tín có lẽ lúc ấy cũng đã mệt mỏi, muốn toạ hưởng và không lo xa, mãi tin nơi lòng tốt của Hớn vương nên hẹn cho mình suy nghĩ. Ít ngày sau, Triệt lại đến ra mắt, rằng: “Vả chăng “thời” là đầu mối việc, “kế”, là máy mọi việc. Hay nghe theo kế thì mình đặng an bền, việc ấy ít có lắm. Kẻ có trí thì phải quyết đoán mau lẹ, suy xét nhiều vẫn có hại. Phải biết xét cái kế nào mà máy mún, mà cái nào do số lớn trong thiên hạ thì chẳng nên bỏ qua, kẻ trí biết rồi mà chẳng dám làm, còn cái thời thì khó đặng, mà lại dễ mất. Thời ôi! Thời ôi! chẳng đến nữa? (Câu nầy bên chữ ắt là thâm thuý lắm, tiếc cho tôi chưa gặp). Hàn Tín không khác con cù lần, do dự mãi, không nỡ bội Hớn, lại nghĩ mình ghe phen lập nhiều công lớn, ắt Hớn vương không lẽ phụ mình, và cái đất Tề nầy cũng đủ mãn nguyện, miễn được lâu dài...

Khoái Triệt vừa muốn nói thêm, bỗng dưới trướng có mưu sĩ Đại phu Lục Cổ, nạt và bàn:

- Hễ muốn nói việc chi, trước phải xem cái thế, sau xem cái hình. Dầu cái thế mạnh mà cái hình yếu, thì đó chẳng phải là yếu; trái lại, cái thế thì mạnh mà cái hình thì suy, thì chưa phải là suy. Lấy theo lúc nầy mà luận, thì Sở mà thắng thì đó là cái hình thắng, còn Hớn mà yếu, thì do là cái hình yếu. Nay Nguyên soái (Hàn Tín) đứng giữa mạnh yếu thắng suy, thì còn chưa định. Nay Hớn vương tuy bất lợi, chẳng qua nhứt thời mà thôi, chớ cái thế trong thiên hạ thì đã rõ rệt đặng tám chín phần rồi, lòng người đã theo, mạng trời đã giúp dưới trướng Hớn vương vừa giúp đã có thêm Tiêu Hà đủ tài làm tể tướng mà lòng trung phong đổi, kẻ mưu kế có Trương Lương, Trần Bình, cơ biến khó lường, dõng có Anh Bố, Bành Việt, Phàn Khoái, cường có Châu Bột, Vương Lăng, Quán Anh, thảy đều là phúc đức chi tướng, ấy là cơ nghiệp muôn đời, Khoái Triệt là người gì, sao chẳng xem hình thế, lại dám lấy miệng lưỡi mà xúi điều bất chánh? Quả là vẽ hùm không nên lại hoá chó đây?

Khoái Triệt liệu nói không nghe, nên rút lui và giả điên cho khỏi hoạ.

Tôi ngu dốt, hiểu chẳng qua: đều có căn số, mấy ông mưu sĩ nói nhiều để lậu sự, và cái gương Hàn Tín là cái gương ngàn đời soi chmg, nói hoài khỏng dứt. Đàn bà có Đỗ Thập Nương lấy chồng không xứng, đàn ông xưa nay có Hàn Tín, oan ức trùm trời, bấy lâu mãi ham chức trọng quyền cao, chớ làm tôi phò vua không sướng chút nào, vì mấy ông vua, lúc hoạn nạn thì ôm vế, ngủ trên bắp đùi quan, khi sung sướng chỉ ham có vợ nhiều để sanh con bất tài và ít có vua nào được thọ, vì mãi ham tửu sắc.

Sau đây, tôi xin chép bài “Hàn Vương tôn phú” như sau, quyển sách nhỏ nầy, tôi mua năm xưa ở Hà nội gởi vô, giá 0$06 và do Xuân Lan (tức biệt hiệu của Nguyễn Văn Vĩnh), nay ít người còn giữ: nơi bìa in là “Hàn Vương tôn phú”(transcrit en quốc ngữ ét publié par XUÂN - LAN, 1ère édition, - prix 0$06, - Hà Nội, Hải Phòng, Imprimerie Văn Minh, Nguyễn Ngọc Xuân, 1913, - gồm sáu trương giấy khố 14 x 11):

Hàn vương tôn, Hàn vương tôn

Vũ phúc giáng thần, kim kê giáng thuỵ

Kinh sử năm xe chua chất, ngang trời dọc đất ấy kinh luân;

Tôn Ngô bảy quyền làu thông, đè sóng xông mây là chí khí;

Hội chiến tranh ếch đã vang tai,

Bề thao lược ngọc còn giấu vẻ;

Một cần trúc vắt ngang dòng Lệ thuỷ, Hồng xích Lưu trong

phảng phất lẫn bên thành,

Ba thước gươm cầm lại chợ Hoài Minh, Hươu Hàm Cốc tưởng

đinh ninh nằm chốc đáy.

Đồ phong vân trước mắt ngắm nhơn nhơn,

Túi thao lược bên mình đeo nhẹ nhẹ!

Mùi tư vị thiếu gỏi Tần nem Hạng, nặng vì đường tri kỷ

Bữa sâng siu (tâng tiu) nên lỡ mấy mụ già

Bước trần ai còn áo Lã cơm Hề, xem hẳn cũng kiêm (sic) nhân,

Lời nheo nhuốc sá chấp chi con trẻ.

Thông sao nơi huỷ hạ hẹp hòi,

Xá chi chít lang trung thỏ tí.

Hăm hở quyết lòng theo giúp Hán,

Hang sâu chưa kịp nức mùi lan;

Ngậm ngùi đấu trí nhớ về Đông,

Đất cũ lại thẳng dong vô ký

Ngòi Hàn Khê từ giở (sic) bạn phượng loan,

Đất Ba Thục lại dứt đường phú quí:

Đủng đỉnh lên đàn Đại tướng,

Ba quân trông mặt khiếp uy thanh,

Khoan thai lĩnh ấn Nguyên nhung

Thiên tử nghiêng mình trao tiết chế.

Chín lần bàn bạc thâm mưu,

Muôn dặm danh đường trọng ký.

Đắp thành mở đường cố đạo, tịch quyến Tam Tần,

Hậu quân dương mặt đông quan, sấm vang bốn bề.

Dưới màn hằng tư tưởng Di Ngô,

Trên ngựa những băn khoăn Bạch Khỉ

Thuyền san sát khắp bầy sông Lâm tấn,

Nguỵ quanh thành quân kéo đen sì.

Trống long tong qua ải Tỉnh hình,

Triệu bốn mặt cờ bay đỏ choé.

Áng giáp dùng bài nhu viễn,

Lấy gang tấc dấy nẹt cường bang,

Quyết nang bày trận công nhân,

Đem bảy mươi thành dâng Xích đế;

Đứa Long Thư cương rắn hết hung hăng,

Thằng Vũ Thiệp lưỡi mềm khôn thỏ thẻ.

Tước lộc trót nhờ cơm áo Hán,

Đuổi tỳ hưu mong bắt lại đền ơn;

Giàu sang bao quản nước non Tề,

Xua muông cẩu kẻo ra lòng bội nghĩa;

Gẫm kim cổ so ba tướng cỏn xa.

Sức chiến đấu đọ bách phu nào ví.

Người biết hưng vong là thiên số,

Hán tyy chưa mở mang nền bách nhị,

Song mạng trời về có đức,

Vốn ngõ then từ chém rắn hay rồng;

Ai hay thành bại cũng nhơn mưu,

Hán khi còn lững thững đất Ba Xuyên,

Mà deo mình về mái tả;

Đã vén cánh quyết đè hươu bắt khỉ,

Ỏi ác biết lòng du tử,

Vậy khi đồng Định Đào, khi quân Tu Vũ,

Ra vào then khoá chẳng ngờ,

Trung trinh giữ tiết nhơn thần,

Mà dù chơi Vân Mộng, dù được Trần Hi,

Bối rối tóc tơ dám ngại.

Há có lòng nhlt Hi, Bố chút nào,

Tiếc thẹn mặt với Phàn, Đằng một mất.

Cơn tỉnh chấn nghĩ Tề điều biến trá,

Lời tự vương so đổ tiếng trượng phu;

Lúc trần binh e Sở mới thanh bình,

Thư mưu phản khéo oan lòng quốc sĩ;

Ơn nho nhỏ cũng lấy vàng mà báo đáp,

Đỉnh chung nầy đâu có lẽ thờ ơ,

Oán rành rành còn cho tước để sinh dùng,

Giang san ấy há lại lòng ngấp nghé;

Đường phú quí có sức nào chuyển được,

Nọ kẻ trướng màn khuya sớm,

Chốn Cốc thành còn phải lánh mình đi;

Áng công danh hầu ai để giúp đâu,

Kìa người then khoá bấy lâu,

Vườn Thượng lâm cũng còn lây tiếng luỵ;

Nhà thạch thất dẫu nhạt son mòn sắt,

Danh tướng quân đành muôn kiếp còn thơm;

Nền kim đao dù nguội lửa phai vàng,

Công tướng quân dẫu ngàn năm như vẽ.


Lời kết luận:

Tôi nay:

Xem pho cựu sử,

đọc truyện nhơn thần,

Thấy câu:

“Hán đắc thiên hạ, đại để giai Tín chi công”

Chưa từng chăng:

Thâm tích Hàn vương tôn chi anh tài,

Mà thầm trách Hán Cao Hoàng chi sai ky.

(Chung) (khuyết danh tác giả).

Theo khẩu khí và lời lẽ trong bài, tác giả có lẽ cùng tình trạng với Hoài âm hầu Hàn Tín, nên lời lời như oán như than, nói nửa tiếng mà không nói hết. Hàn Tín lúc đắc thời, ít người ưa, đến khi thất thế, thật là khổ tâm: khi còn sống, các tướng đồng liêu đều tránh mặt. Hai ông bạn Tiêu Hà, lúc nào chạy ngựa tìm mời ở lại, ông Trương Lương thì bán gươm dụ hàng; lúc lâm nạn dữ, hai ông không nghe có lời can gián, tệ nhứt là Tiêu Hà, chế ra luật pháp để trói buộc bá quan, và không có câu hờ giảm bớt. Ông Nguyễn Trãi cũng chiếu luật tru di, luật đời xưa là thế (16-11-83)

Tái bút.

Trở lại cái chết của Hoài âm hầu Hàn Tín. Ngày nay có luật nhơn đạo, con ngươi thở đặng nhiều hơn người xưa. Làm việc tày trời, bán dân hại nước, động động lên máy bay chở vàng xuất ngoại, thân yên như bàn thạch. Một tên đồ tể, giết không mấy trăm ngàn, cả triệu sanh linh vô tội, phút chót, thất cơ, trốn qua thế giới khác, cũng sống ung dung trót mấy chục năm rồi mới bị bắt; lại còn phải tốn tiền chở nó về xứ, tốn cơm nuôi nó chờ ngày đưa ra toà, tức nó còn thớ lâu lâu. Không như ngày xưa, có tài kinh thiên động địa như ông nầy, đem giang san làm nên cơ nghiệp cho họ Lưu, được ban chức vụn nơi làng sinh trưởng, Hoài âm hầu, nhưng vẩn bắt ớ lỏng nơi triều, rồi thừa lúc chồng đi vắng, lập mưu với nhau trước, dối gạt Hàn Tín, lức ấy không người nha tráo, theo các quan vào chầu bà Lữ hậu, độc hại nhứt là Tiêu Hà cho các quan ra về, bãi triều, thân đưa Hàn vào cung sâu rằng để cùng bàn việc cơ mật, bỗng hai bên cửa có sẵn mấy chục võ sĩ, bắt Tín trói lại, để phục quì nơi Trường lạc điện.

- Tôi có tội chi mà nương nương trói?

- Vua phong ngươi làm đại tướng, sau phong làm Tề vương, rồi cải phong là Sở vương, ngươi định mưu phán, song nghĩ ngươi có công, không nỡ giết, rốt phong ngươi làm Hoài âm hầu, như vậy vua chưa hề phụ ngươi, sao ngươi nỡ sanh tâm mưu với Trần Hi, xúi giặc kéo về đây, ngươi ở trong làm nội ứng, tội đã đành rành còn nói chi nữa?

- Tâu nương nương, lấy chi làm thiệt?

- Đã có đứa tớ của ngươi là Tạ công Trữ cáo.

- Ấy là lời đứa tớ bất trung quyết hại chủ, xin nương lượng xét lại!

- Vì phá dinh Trần Hi, bắt được thơ, quả chữ ngươi viết, chớ hàm hồ.

Hàn Tín không trả lời, Lư hậu sai đem chém, lúc gần thác, Tín than: “Giận vì lúc nọ chẳng nghe theo kế Khoái Triệt, hôm nay chết vì tay một đàn bà”.

Ác nhứt là đã bêu đầu, lại còn sai Tiêu Hà làm văn biểu, sai Lục Cố đem thủ cấp ra Hàm Đan dâng Cao đế, vua thêm giả dối, tiếc thì đã rơi đầu: “Kỳ tài trong thiên hạ, lập được nhiều công lớn, các tướng đây không ai bằng, danh tướng đời xưa cũng không hơn, từ đây chẳng còn ai giỏi hơn nữa...”

Duy một Khoái Triệt dám khóc trước thây thi chủ cũ, vua ban tước không nhận, chỉ xin lãnh đầu Hàn Tín về chôn nơi quê Hoài âm, lập Sở vương như trước, và được giữ phần mộ, tiêu dao ngày tháng, chẳng làm quan...

Tiêu Hà rồi cũng bị tù, may được tha. Bành Việt đã bị bắt tội, bị đày còn chưa biết thân lại kêu van với Lữ hậu để mụ nầy trở về mật tâu với vua, chiếu theo Hàn Tín, chém đầu thị chúng, lại lấy thịt làm mắm gởi nhắn chư hầu, ác không chỗ nói, rồi đến lượt Anh Bố và nhiều tướng khác bị hại, duy một Phàn Khoái, là em rể cột chèo, một Trần Bình, nhờ khéo nói và xét ân tình cũ mà khỏi tội, Lữ hậu lem nhem dâm ác, khen thay Hạng Võ anh hùng lúc Hồng môn không giết Lưu Bình, vì chê như vậy là hèn, lúc bắt được cha và vợ họ Lưu, không giết cũng không dâm loạn, kỳ dư đời ấy chê Tần là bạo, nhưng khi cờ về tay, thảy đều bạo hơn hoặc cũng như Tín: Hạng Võ sát sanh linh, làm tướng đánh giặc như Hàn Tín mấy phen giết người ân: tiều phu chỉ đường, Lịch Sanh tranh công, Chung ly Mụi, bạn cũ, tránh sao khỏi tiếng ác, trách một mình Lữ hậu cũng chưa là đúng. Làm tướng đời nào cũng vậy: Annibal, Tamarlen, Attila Cengs Khen, Napoléon, Staline, Hitler, Bạch Khởi, Ngô Khởi, các danh tướng đều dùng xương máu quân nhơn xây danh vọng cho mình, giết một vài người là sát nhơn, giết vô số người là anh hùng lưu danh thiên cổ, trong quyển binh thơ người Đức (De la Guerre) của Carl Von Clausewits, há chẳng nói “Chiến tranh là phải tàn sát địch thủ; không nói có giới hạn của bạo lực” (le but de la guerre est l anéantissement de l adversaire. Il ne peut y avoir de limites à Femploi de la violence). Muốn được nhơn, đừng làm nhà buôn, tránh làm nhà binh, ngồi một chỗ cũng khó tránh đạp nhầm con kiến? Lên cũng Hà, thác cũng Tiêu Hà, oan thay cho Hàn Tín. Nay xét về tài, trong một sách Pháp có nói máy đồng hồ Hàn Tín đã biết và phép điểm binh (Hàn Tín điểm binh) sau chỉ có một Napoleon là tài tương đương. Nhưng “quốc sĩ vô song là ông Hàn Tín” không phải một mình chịu điều oan uổng, duy trách sao từ ấy đến nay, thiếu chi kẻ sĩ, mà vẫn thấy rất ít thơ về Hoài âm hầu, chỉ vì còn sợ oai vua và kẻ cầm quyền (viết ngày 17-11-1983).

Chương kết

Nhắc ông Salan, sau qua đất Bắc Phi, xuýt chết dữ cũng vì chỏi với De Gaulle trì vì. Nghìn xưa gọi làm phản, ngày nay gọi làm cách mạng, danh từ đổi khác nhưng hành động vẫn như nhau. Salan lúc ở Đông Dương, qua đây từ 1924, rút về từ 5-1953, quả là một con cáo già, kinh nghiệm có thừa, biết ăn và rất sành cơm Việt, chơi với chúa xứ Mèo là Đèo Văn Long thì phải quen nhiều với Phù dung tiên nâu, từng nếm cơm canh và làm bạn với khắp nơi, ngồi máy bay viếng mặt trận không đếm xiết mấy ngàn giờ, lúc ban sơ được mời làm võ sư dạy chiến lược nhưng sau đánh không lại người tay ngang chưa học trường võ bị nào nhưng quân sĩ thảy thảy dũng cảm gan lì da sắt, quyết chí đuổi diệt quân ngoại bang về xứ, công bất thành, danh lỡ dở, thời cơm ngự với vua Bảo Đại bữa tiệc nhắp rượu đế có măng non mây giả măng tây (jeunes pousses de ro tin facon asperges), của Phan Thiết nấu với nấm, gà xáo măng, xà lách củ hủ cau(1), la sét có ổi, trái vải (lệ chi), măng cụt mà ông khen là ngon tuyệt cõi Á Đông (mangotstans si renommés, à la pulpe blanche et savoureuse, le meilleur fruit de 1 Extrême Orient pour les connaisseurs), công chiến mã gồm bao nhiêu ấy à, hoặc giả nên kể luôn bữa cơm từ giã vua xứ Lào, ông ghi lại bằng câu Pháp văn (IL.S.M. Roi de Louang Prabang me fait la surprise d un plat typiquement laotien, le Khao Boun, riz de fête qui faisait mon régal..., un riz légèrement fermenté que les femmes pilent puis transforment en un vermicelle un peu épais que l on fait bouillir dans de l eau... Dans une grande marmite en cuivre elles font mijoter, avec beaucoup de sauce, du poulet coupé menu, du poissoii, des oeufs de Pa Beuk, sorte de caviar, race, et des morceaux de cochon. Letout se cuit longuement avec des herbes connues des grand mères seules et le fumet en est très odorant. Dans les bols placés devant nous, on sert le vermicelle qu on recouvre du mélange fumant issu de la marmite en cuivre. Sur un plateau sont disposés de nonbreux bols contenant de la mang-ue en gelée, des cacahuètes, du soja, des piments rouges grillés et une sauce à base de gingembre, chacun arrose son bol suivant ses goûts, soit qu il préfère le doux ou la piquant.) (trang 389). Ông tướng xuất thân trường võ bị Santt Cyr nầy, thật là lão luyện món ăn địa phương từng các cõi Đông Dương và cả món “quốc tuý” Lào, tui xin dịch là để kết thúc bài nầy, khiến bắt nhớ các món “bún bò Huế”, “bún nêrn pra-hok Cao Miên, và đây là dịch thoát mấy câu của tướng: “Hoàng thượng, đức vua Louang- Prabang tình cờ cho tôi cùng nếm món Khao-boun, đặc biệt đất Lào, và quả tôi được nếm một món ăn cô cùng hứng thú. Đó là món bún sợi dẻo nhẹo làm bằng gạo ngâm nước lâu, giã vào cối, bún ấy trụng trong nước thật nóng, và chan trong chén với nước sốt ngọt, có đủ thịt gà xắt miếng nhỏ, thịt nạc heo, cá tươi (rút xương) và trứng cá Pa Beuk đỏ dạ, thêm rau thơm mùi ngào ngạt ngon lành. Khi chan nước sốt múc trong nồi đồng nóng hổi xong rồi thì nêm thêm gia vị, nào xoài chua, nào đậu phộng đâm nhỏ, nào đậu nành, một chút gừng chua và tuỳ sở thích nêm thêm ớt đỏ phơi khô và rang lại cho thêm thơm, thêm khoái khẩu. (Tôi dịch không theo sát nguyên văn, vì muốn độc giả thấy đây là một bữa bún nước lèo muốn gọi đó là quốc tuý Miên- Lào-Việt-Thái, đâu được cả) (ngày 17-11-83).

Việc chiến tranh đại sự mà một bên là ta, cơm lưng buộc bụng, ba ngày đường ròng rã vẫn cơm khô muối hột, muối vừng đã là sang, trái lại Tây trước Mẽo sau, vẫn sáng lên xe hay máy bay, lót dạ bằng tô cà phê nóng, đánh giặc đếm giờ, trưa về gà quay thịt nướng bánh mì trắng phau, thay phiên nhau tắm biển, nghỉ về quê thăm vợ con, và bắt tôi nhớ lại thời kỳ có mặt ông tại đây là thời kỳ vàng son “phở mát” năm đồng chêm nửa ổ bánh mì giòn, và tô phở Turc, của anh Ba, thịt lớn miếng xắt thật to thật giá hời, vì đều là thịt nhà binh, thịt nhảy dù bán lén, thảo nào của tiền tuôn như túi không đáy, Paris rên là phải, và rốt cuộc xin hoà rút lui, đã đành!

Trên tám mươi năm tiếng là “bảo hộ” mà khi giặc Nhựt đến bên đít, muốn có một chiếc xe cứu thương, phải quyên tiền dân, nhưng khi Nhựt bại trận, bọn mũi lõ trở về đây, vẫn là lão tào cáo Tây đoan đi tìm bắt đứa nghèo lấy mùng màn áo rách của lão lúc bỏ chạy, hoặc tên cò tên lính thù vơ oán chạ, trả thù bắn giết kẻ vô cố muốn an thân xin giấy hồi cư, thảo nào chẳng có việc như hôm nay mắt thấy.

(Nghĩ thám thương cho Hàn Tín, lúc cuối cùng, liệu việc không thông. Lúc Hán đế hỏi là để dò bụng dạ, nếu biết cáo bịnh mà từ chối, rằng mình không có chi dùng đặng nữa, thì hoạ may vua còn không nghi, đàng nầy lại lấy câu “đa đa ích biện” mà đáp, lại nói nếu mình có việc làm thì lành bịnh ngay, và khi luận tài chư tướng, lại phô trương muốn vua dùng trở lại, chớ chẳng biết vua đang nghi kỵ, nói chi chẳng một ai đánh lại, quả vì một lời nói mà mình hại lấy mình. Lúc vua nghi tin Tín phản, thì không tra hỏi nữa, giao cho Lữ hậu định đoạt. Sao không nhớ đường đi xưa của Phạm Lãi? Trương Lương mượn cớ giả đau, tìm đường tu thân, càng thấy vua Cao đế lúc phùng thời, ai nói nào nghe, và nói nữa chỉ nhàm tai người đọc) (17-11)

Thay lời bạt: (chuyện cặp ghế Hồng lâu mộng, Thái sư ỷ).

Từ 27-3-1984, tôi đã nghỉ xả hơi, không viết; vì viết mãi, ba lăng nhăng, mình thẹn lấy mình, chữ nghĩa bao nhiêu mà viết hoài không thôi, khi hết chuyện nói, lại lôi việc không đáng nói ra, chỉ làm tội cho tai và mắt độc giả...

Hôm nay, 12-4-84, tôi lại phá lệ, và tiếp tục viết mấy hàng nầy, có lẽ vì nghiệp chướng còn nhiều, không viết lại ngứa ngáy, vả lại viết mà không nghĩ việc xuất bản, viết để cho quên, thì tội gì mà không viết. Và rõ lại đâu có độc giả mà hòng sợ. Một điều nhận xét riêng, là tôi không thể viết trên giấy nháp trước được Mỗi khi tôi muốn gò gẫm, viết trước trên giấy nào, thì tôi bôi bôi xé xé, viết không thành câu, và tôi chỉ quen viết luôn trên máy chữ, cứ để cho mạch buồn sầu tuôn, “nghĩ sao viết vậy”, và như vậy mà có thể vơi vơi mạch sầu, và câu viết được tự nhiên như giọng nói của tôi ngày thường, tuy vẫn nhìn nhận, còn nhiều lợn cợn, hột sượng nhủn nhẳn, khi rút trang giấy từ trong máy ra, tự không bằng lòng, bụng vẫn muốn viết lại, sửa chữa lại, nhưng rốt cuộc thì vẫn đâu vào đó, trang giấy được thu xếp vào tập, đến khi dày cộm thì đóng lại thành tập, hoá ra tập nầy tập kia, bao nhiêu tập đều dồn vào tủ, chờ con mối con mọt xơi, hoặc giả chờ ngày nhắm mắt sẽ làm kén bó liệm đem theo, vả lại việc nầy càng thêm thấy tôi nay ngớ ngẩn, chớ độ nầy, “chết không đất chôn”, vẫn hoả táng là may, dễ gì có hòm có mồ hay mả? Lại lẩn thẩn nữa, lại nói đi nói lại nữa, chán quá, nhưng biết làm sao bây giờ? Sở dĩ tôi viết là để ghi lại đây mối tình muộn màng chứng tỏ mặc dầu số tuổi 83, tôi vẫn còn thèm còn muốn. Viết đến đây bỗng có khách đến nhà, đành bỏ dở, khi khách ra về thì cơn hứng đã đi qua, ngồi viết lại vẫn lợn cợn sượng chai, đời tôi, văn của tôi, ô hay, nó đứt nối bời rời, cơm nếp nết và hạt đâu sượng làm gương, cũng không phiền không trách. Lần hồi tôi rõ lại, viết gọn và hay là văn của Nhất Linh, là người tôi hằng mến phục và tôn làm thày, thế mà cũng vẫn sửa đi sửa lại luôn khi, và hỏi anh ấy, ảnh vẫn tự thú nhận cùng đồng một bệnh, và xét cho cùng, chỉ tỷ dụ là xong, ai đâu tôi không rõ, chớ chính tôi, tôi chẳng bao giờ dám sính tài viết văn mà bòng tranh giải về tứ chương bóng bảy.

Tôi nói nãy giờ mà vẫn chra vào đề, đủ thấy sự lượt bướt của tôi sự lòng thòng lễn mễn khó tránh của nghề viết, và gẫm lại, tôi tự cười lấy mình, vì biết bao người hay giỏi hơn mình nhiều mà vẫn lầm vấp và phạm vào lỗi quá ham nói cho đầy đủ chi tiết, một sợi lông không bỏ, gương văn hào Pháp Guy de Maupassant là một và nơi đây, nhơn đọc lại táp “Chân dung Nhất Linh: (Văn xuất bản số 6-66) lại thấy con khóc cha, văn luộm thuộm cà kê thi lại mấy! Cha uống thuốc độc nằm nhà, không lo chạy về lo phương cứu chữa, để đứng đụt mưa dưới mái hiên họ và ghi chép tỉ mỉ cử chỉ vô tích sự một cô gái cùng cùng đứng dưới mái để tránh mưa như mình, cho hay quả thật: “Ai như nấy, chuyện người thì đáng, chuyện mình thì quáng là thường lề và thường lề hơn nữa là “ham chỉ trích người mà quên xét lỗi mình”, và “bắt lỗi người thì được, và ai thử bắt lỗi mình” lại giận là giận làm sao? (là giận cái nỗi gì?).

Tháng giêng năm nay, nhơn đến chơi nhà một bạn nhỏ chuyện nghề mua đi bán lại đồ ngoạn hảo, tôi bỗng thấy một cặp ghế trường kỷ chạm trổ rất khéo, toàn bằng gỗ trắc màu cánh kiễng đỏ au, đúng với đanh từ “hồng mộc” (hung mu) của người Trung Hoa và đặc biệt hơn nữa là nơi chỗ dựa, có cẩn đá hoa rất đẹp. Người ấy khoe mua giá 37.000 đồng, tôi lấy tình thiệt khen hai vật nầy hiếm có và giá như vậy rất đáng.

Nag không hiểu làm sao, khi về đến nhà tôi vẫn vờ vờ vẫn vẫn nhớ mãi cặp ghế, khó quên. Ngồi ăn cũng nhớ, nằm ngủ cũng không quên, nhớ và bâng khuâng bứt rứt, tưởng còn nặng hơn nhớ tình nhân bằng xương bằng thịt. Mà đã 83 rồi tuổi gần đất xa trời, còn bao nhiêu lâu nữa mà đèo bòng, hưởng thụ được bao lăm nữa, vả lại nhà văn không tiền... Thế rồi tối lại tìm cách xuống chơi nhà bạn, để có dịp nhìn lại hai món vật, thử xem “còn thương hay đã dứt”. Nhưng càng thấy càng thêm mê, sau rốt tôi liệu cách, thú thật với bạn “mua thì không tiền mua nổi”, nhưng còn cách “đổi với nhau đồ vật” và “chung cuộc”, y lựa và lấy của tôi chín món sứ nhỏ, đựng không đầy một hộp giấy con con, vả ngày 19-2-1984 y chở lại nhà cặp ghế, nhưng than ôi, cả hai đều gãy lọi một chơn, và mãi đến ngày 2-4-84, tôi mới nhờ thợ giỏi rước từ quê nhà ở Sốc Trăng lên sửa chữa từ 7-3 đến 2-4 mới thành khoảnh hết què hết lọi. Nhưng giá không phải 37.000 mà là “một cây nguyên” tức 70.000 đồng, mẹ ôi, sao mắc quá vậy, ban đầu nói 37.000 mà, và dạ thưa, 37.000 là giá khi mua, cũng khá lâu, duy chưa có thợ chữa nên chưa bày, và nay giá vàng là vậy vậy đó”.

Trước khi mua sắm, tôi đã cẩn thận hỏi kỹ người trong gia tộc chủ cũ cặp ghế, thì quả thật, hai vật ấy vốn trong gia đình tỷ phú nầy, nhưng nay người chủ đã từ trần, và hai vật nầy, trong gia đình đã bán từ lâu, nên giá cả không biết rõ.

Khi còn sanh tiền, người chủ nầy không bao giờ khứng bán hay vật ấy - cho hay mắt xanh chẳng phải “duy một kẻ này” và giá kia, nhứt là theo thông lệ vật bán, phải sửa chữa cho xong mới bán, tôi cũng không trông mong thu hồi chút ít gì được, vì bạn tôi đã có câu hờ dứt khoát, “nếu bác có chỗ nào không ưng ý, thì cháu có thể lấy cặp ghế lại, không hề gì đâu, và “quả bác có duyên nợ với cặp ghế ấy, chớ chủ cũ của nó chẳng bao giờ chịu rời nó lúc nào”.

Thôi, phải sao chịu vậy và quả mình có phần nên vật ưng ý nay đã về tay.

Viết đến đây, tưởng nên chấn dứt là vừa, nhưng như đã nói nơi đoạn trrớc, tôi phải “tự vạch lưng cho người đếm thẹo”, và không khai ra, làm sao người khác rõ những chỗ đáng chỉ trích của tôi.

Bình sanh, tôi dốt đặc cán mai, mà có tật ham nói chữ, tuy không mê tín dị đoan, nhưng rất tin những gì trong sách cổ đã ghi lại. Trong một quyển tôi đã đọc, tôi còn nhớ câu “thiên hạ chi bửu, đương dữ ái tích chi nhơn” (của báu trong thiên hạ, thường trời hay cho người có lòng yêu tiếc được, tức là người hay ham của báu, tức người biết gìn giữ nó, thì của báu hay về tay người ấy), nói cách khác và rẻ rề hơn, là “vật quí biết tìm người” (quí vật tầm quí nhân).

Và cặp ghế nầy quí tại chỗ nào? Tôi xin phân tách:

a) Về vật chất, ghế làm bằng gỗ trắc là một thứ cây mịn thịt, màu đỏ thâm, người Trung hoa gọi “hồng mộc (hung mu) và rất quý trọng, vì mối mọt không ăn, nếu để trong bóng mát thì chẳng bao giờ hư mòn, càng lâu năm càng lên nước, thâm đen bóng như huyền hay như sừng, ngày xưa rừng ta có khế nhiều nhưng nay rất hiếm có: cây chỉ bền chắc khi đúng tuổi, và người chúng ta không biết giá trị, nên đã phá hoại, đốn chặt quá sớm và không biết dung dưỡng nên cây không lớn kịp cho người dùng.

b) Riêng cặp ghế có hai miếng đá hoa, lớn cỡ 0,45x 0,65 (mét), là hy hữu, vì khảo ra thứ đá hoa nầy chỉ Miến Điện mới có, Miến Điện trong sử, xưa gọi “Đại Lý quốc” và vào đời nhà Thanh (1644-1911) đá nầy thuộc cống phẩm quí và rất được triều đình Mãn Thanh trọng dụng, để làm vật trang trí riêng cho trong Nội phủ và hàng quan lại, phải bậc tam công (thái sư, thái bảo, v.v...) mới được dùng, vì hai mảnh đá nầy, vân màu kỳ lạ, đúng là “kỳ thạch” cỡ như Lý Hồng Chương, Cung Thân Vương, mới có trong nhà. Kể về đá hoa, bên Âu châu, đá quí nhứt là đá hoa xứ Ý đại lợi, hoặc bên xứ Nga cũng có, nhưng họ chỉ chuyên thích đá toàn màu trắng, hoặc có vân, khi thêm đen khi đỏ hồng, và không như người Trung hoa, người Nhựt hay chúng ta đây, lậm mùi Lão Thích, nhiễm nặng huyền bí của thiên nhiên, và phải biết bao nhiêu triệu năm, đá mới trổ màu ngũ sắc và vằn vện kỳ lạ như đã thấy, và tuỳ sức tưởng tượng của mọi người, muốn gọi giống nhánh mai cổ thụ quằn quèo, giống chóp núi có ẩn cây cối, nhơn vật, dã thú hay giống chi chi cũng đều có thể được. Khi lập thể phái (cubisme) trong hội hoạ, kiểu Picasso, một ngày nào sẽ nhàm chán, có khi người Âu Tây sẽ đua thua tìm chơi kỳ thạch như vầy chăng?

c) Về nghệ thuật, thì hai ghế nầy quả là điêu khắc tuyệt diệu, người thợ mộc đã khéo tay chạm hình hai lượn sóng bủa sòi, trông như hệt, sóng cuộn và vòi nước cuốn lên như thật, trông thật là hùng vĩ, và triết lý thay, cạnh đầu sóng lại có hai con chim đứng trên mặt sóng, hình như chờ cá vọt lên thì táp, và giữa ngọn thuỷ triều phong ba nổi dậy, vẫn có con thú kỳ quặc không rõ đó lả thú gì đuôi như đuôi bò, chơn có móng như móng gấu, mình đầy những vảy tách kỹ như vảy rồng, thú có lông gáy như sư tử, và đầu con thú vẫn có hai sông nhánh gạc như sừng hươu nai, và giữa hai sừng hay gạc ấy, vẫn có một sửng khác rất cao, giống như sừng tê (tê giác), và trước mặt con thú lạ lùng không biết tên gọi đấy, lại chạm một vòi nước, từ mồm con thú phun ra, nhả hai cuốn thơ nổi trên mặt sóng, chung quanh có mây bủa sòi, thôi quả đúng rồi, đây là tích “long mã đồ thơ”, ngựa dưới biển hiện lên dâng sách quí, ẩn ý chúc người nảo làm chủ vật này, phải là bậc tam công mới xứng.

Tôi không lạm dụng “công” nào, tôi chỉ là một tên già ham chơi đồ kỳ lạ, và tuy nay mai gì chưa biết, nhưng cờ đến tay thì phất, và phải tận hưởng mới nghe cho.

Nhớ thêm câu chữ nữa, còn có câu “Thiên dương chi bì, bất như nhứt hồ chi dịch”, (một ngàn cái da dê, chẳng bằng một da nách con chồn), và nhớ thêm một câu nầy, thầy dạy từ lớp nhứt trường tỉnh Sốc trăng, “Ban môn lộng phủ”, xưa thày cắt nghĩa rằng: Tích đời trước có một người thợ mộc khéo, ở gần nhà ông Lỗ Ban (là tổ nghề mộc), nhưng lão thợ ta chưa biết tài ông khéo đến bực nào, cho nên một ngày kia, lão ta đẽo một lát rìu ngọt xớt, cái dăm dài đến mấy thước, và lão thợ biểu thằng con trai nhỏ kéo cái dăm ấy qua cửa ông Lỗ Ban chơi, cốt ý khoe tài hay khéo của mình. Bất ngờ ông Lỗ Ban thấy và biết tên thợ muốn khoe tài với mình, nên chi ông kêu thằng nhỏ vô nhà, rồi ông lấy cái rìu, nắm chóp thằng nhỏ, đẽo cái đầu nó sạch tóc, trơn tru như sọ dừa chỉ chừa cái chóp lại, (còn sạch và khéo hơn lúc nhỏ tôi bị chú Hỉ dùng dao cạo đầu) đoạn ông nói với thằng nhỏ ấy rằng: “Mầy đem cái đầu về nói với cha mầy rằng tao đây đã đẽo cái đầu giùm kẻo cha mầy tốn tiền mướn thợ cạo!”.

Và cũng từ ấy tên thợ mộc mới kiêng tài ông già lối xóm và chịu ông là tổ nghề. Tuy vậy chớ làm gì cho hết bọn láu cá biết nhom nhem và khoe tài ỏm tỏi, mà tôi đây là một. Và cũng vì tôi chẳng bao giờ giấu nghề, nên hôm nay vọc vạch viết lại bài nầy cảnh cáo nhưng ai ưa “ban môn lộng phủ” và không biết lựa chỗ mà múa rìu, hễ cái gì của mình là quí là hay, là đắc tiền, và “văn có mùi, mà khoe văn thơm phân phức, mít lùi vẫn không bì” (viết ngày 12 và 13-4-1984). (Người Tàu biết chơi đá từ hèn lâu, truyện Tàu đều nhắc đến ngọc, Tây Du, Tôn Ngộ Không từ viên đá thành hình, Thuỷ Hử, Thái Kinh chơi ngọc, Dương Chí giải đáp Tống Địch Thanh có ngọc oan ương, Bảo Ngọc khi sanh cũng cầm ngọc và Mễ Phi bái thạch, v.v..., thật là làm sao kể xiết)

d) Còn một đoạn chót, vì có tật viết không giấy nháp nên xuýt bỏ sót, là ghế chạm kiểu “mắt tre” nơi đai dựa mới rõ rệt mắt trúc mắt tre rõ ràng, vì ngày xưa bên Trung hoa, đổ từ từ khí và vạn vật trong nhà, đều bằng tre và trúc, vừa dễ kiếm, rẻ tiền, thêm bền chác vô song, vừa chạm “trước” (tra), thêm chạm “mai và điểu” cho đủ bộ vận “mai trúc điểu” và chạm vách thành xây gạch kiên cố một bên là cửa vòng nguyệt có cẩn đá hoa, một bên là cửa “bán nguyệt” vẫn có đá hoa lộng khéo, trên có nóc đình tạ lộng lẫy, đúng là gợi kiểu “hồng lâu mộng” và một lần nữa, với lối chạm nầy, tôi mạnh dạn quả quyết cặp ghế nầy là của một đại thần cuối Thanh (lối 1880-1900) khi bộ tiêu thuyết và lối lãng mạn của Tào Tuyết Cần đang thạnh hành bên Trung hoa, tức thuở Mạt Thanh và đã hơn nay ngót trăm năm không sai.

Cặp ghế nầy là hai vật ngoạn hảo tốt, thay cho lời bạt của tập ngô nghê nầy.

Tái bút. Bài viết nầy dứt nơi trên với câu: “Cặp ghế... thay lời bạt”.

Đó là lộng ngôn, lộng bút. Hôm nay, 14-4-1984, tôi lấy các trang đánh máy, góp lại định đóng thành tập, tôi mới thấy cái lớn gan của tôi, dám “lộng giả thành chơi”, viết hổ lốn, nay sắp xếp lại cũng không có trật tự chút nào, bài viết trước, để lại sau, và bài viết vừa xong lại đời ra trước, vì vậy trong lời bạt nầy, xin cho tôi lựa nhan và đặt lại là “Tạp pín lù”, một món ăn đặc biệt của Miền Nam, khảo ra, gốc của người Tàu, họ dồn chung lòng gà lòng vịt, sứa giòn và gan heo tươi, nấu đỏ, gọi đó là ăn cù lao, tạp pín lù. Lù là cái lò lửa, nói nghe dài dòng không bằng thấy tận mắt, thử đến các cao lâu khách thì biết ngay!

Những bài tôi viết đây là tuỳ hứng, gặp đâu viết đó, và mỗi bài, thường có ghi ngày cao hứng viết để mà quên sự đời. Tỷ như tôi thuở nay tôi vốn rất ké về thi phú, nhưng vừa rồi, nhơn sắm được cặp ghế tôi thích thú quá, nên đã nghĩ ra tám câu như sau, đóng dấu “khúc quanh năm tuổi 83” và cũng xin chép lại đây để cùng cười cái ngông của một tên già không sợ chết. Thơ rằng:

Đường còn khuỷu chót, bỗng long đinh!

Qua khỏi “83” tiếng nổi phình!

Vách sến treo thơ “cây gậy quéo”

Cửa sài, thượng bảng “lão thư sinh”.

Hỏi ai hay thích câu kỳ cú,

Còn nhớ hay quên chuyện chúng mình.

Việc lớn việc con trăm việc phế.

Chậu đồng nuôi thúc, nấu hay ninh?

Nhơn lục soạn giấy má cũ, tôi bỗng gặp một bức vẽ đề ngày 16-2-1921 tôi mừng quá lấy treo lên vách trên cặp ghế nọ, vì bức vẽ ấy vốn là của tôi phác hoạ từ năm còn học nơi trường Chasseloup và đã được giáo sư dạy vẽ là Mn Gioan chấm điểm 8/10, tôi không ngờ đó là tiền định, năm 1921 tôi đã tưởng tượng và nghĩ ra canh năm nay 1984, tôi đây 83 tuổi, và trên bức vẽ, mặc dù nét còn non nớt nhưng đã nói đủ những gì tôi ao ước và đã thành tựu, này ao cỏ lác có mấy lá súng lơ thơ, cạnh bên ao là một túp lều “lý tưởng”, lợp lá xệch xạc nhưng chứa biết bao hy vọng của một tên thư sinh chưa đầy 19, xa xa có mấy cây cau mơ mộng, và đặc biệt hơn hết là khúc quanh vô định, xen giữa hai lùm cây đen ngòm, rõ là cái “virage à 83” mà tôi đang vui hưởng. Hai đời vợ cưới đều đi đến kết quả ly thân, một cuộc “chắp nối” bất ngờ lại thành công mỹ mãn, (xin lỗi em Năm Sa Đéc), bao nhiêu của tiền dành dụm đều theo Tư trở về cát bụi, công danh cũng chẳng ra gì, có còn lại chăng là mớ sách cũ, mớ đồ cổ “trái mùa”, mớ sách đã in, mớ tóc bạc và mớ giấy lộn này, rứt bỏ chưa đành mà xé đi thì uổng, uổng. Rõ là lẩn thẩn, rõ là lời bạt vô duyên (viết ngày 14-4-1984).

Chú thích:

(1) Tôi tiếc không đọc được bản chữ Hán, duy nhờ may thời mua gặp sách dịch sẵn, câu nầy nguyên văn là “Tướng quân chi dịch, bất quá phong hầu, tướng quân chi bối, quí bất khả ngôn”. Câu nầy nói theo chữ nghe kêu và sướng hơn dịch ra nôm. Chữ “bối” là lưng ẩn ý hiểu day lại tức là bội phản, rõ ràng Khoái Triệt thấy xa, xui Tín trở mặt, làm phản, chia ba thiên hạ với Hạng vương và Hán vương, sướng hơn giết Võ, để bị hại về sau, uổng công dày dọn chỗ cho người khác nghị... (Về sau khi Hàn Tín bị phơi thây ngoài chợ, chỉ có Khoái Triệt dám đến ôm thây khóc tiếc, ai dám nói bên học trò (mưu sĩ) nhát gan? Duy Tiêu Hà, đứng trong Tam Kiệt, làm ra luật, không một lời, rõ là thỏ đế.

(2) Củ hú dứa, theo tôi ngon ngọt hơn. Củ hù cau, dùng nhiều, làm chóng váng, gọi say máu ngà

14. Ý tưởng vụn, nhớ đâu viết đó

(viết ngày 15-9-1989)

Đã là ý tưởng vụn, nhớ đâu viết đó, xin độc giả đứng hỏi tôi vì sao quá hổ lốn, không khác cơm nếp mắc mưa. Xin thưa: “Đã là tạp pín lù, thì trách chi món ăn hỗn tạp”, “thập cẩm” là nói văn hoa theo Bắc, trong Nam dùng chữ “xào bần”, nghe dường như bình dân và tập thể hơn”. Tôi nhớ ông bạn đàn anh năm xưa là Đoàn Quan Tấn, học ở Sorbonne về, dạy tôi, khi viết văn, đứa nào không biết đẽo gọt thí bớt là chưa biết viết, nguyên văn câu Pháp là “qui ne sait pas sacrifler, ne sait pas écrire” nhưng đối với tôi là nhà sưu tập và mê chơi đồ cổ, tôi thuở nay không bỏ một chéo giấy vụn nào, và lâu ngày lấy ra xem, đều có chỗ hữu dụng. Hiện tôi có dưới tay hai trang đánh máy sẵn, trang 8 và 9 của tập này, tôi đã thay bằng hai trang mới, nhưng bỏ không đành, và vẫn ghim vào nơi đây, nối thêm lời bạt.

2) 13 février 1918- 1er carnet- Page 15- Au 57.

Le 57, c est le numéro de ma maison d affaires, rue La Boétie.

Seize heures cinq- Boni de Castellane, époux divorcé de la riche Américaine Anna Gould. Sa Poitrine est trop bombée, ses épaules trop carrées, sa taille trop pincée. Il est très dandy, très blond, encore vert, trop vert, très charmeur, trop poupée, et très grand seigneur.

Seize heures huit.- Anna Gould, épouse divorcée du comte Boni de Castellane. Elle a quarante ans. Petite, difforme. Son corps a la ligne d une gourde, tandes que sur sa figure a poussé, en place de nez, une pomme de terre vineuse. Elle est accompagnée de son nouveau mari, le duc de Talleyrand-Périgord, cousin de Boni. Après son divorce, qui le rejetait dans la gêne mais qui laissait à sa femme des millions de dettes, sa seule plainte fut: “je me suis trompé, Anna Gould n était pas assez riche pour moi”. Avec Talleyrand, elle est heureuse. Grand, effacé, le dos voûté, près de soixante ans, il traine ce grand air respectable et plein d aménité de l homme qui a fait les cent coups(1).

Ils ne se rencontrent pas avec Boni.

Dịch cho mau hiểu, số 57 là môn bài của nhà buôn đồ cổ của chúng tôi, toạ lạc nơi đường La Boétie.

Vào 16 giờ 5 phút, tiếp hầu tước Boni de Castellane, tục là chồng cũ của nữ tỷ phú Mỹ Anna Gould. Hầu tước ngực quá no tròn, vai rộng đến hoá vuông, và lưng eo thắt đáy, bảnh bao không ai bì, nước da trắng trẻo, tóc hoe hoe, còn bô trai lắm bô đẹp tươi xanh, còn khuyến rủ đắc mèo bỏ bùa được lắm, nhưng quá ẻo lả tựa hồ con búp bế của mấy bà thiếu chồng, và vẻ sang trọng hơn ông hoàng quí tộc. Qua 16 giờ hơn 8 phút, chúng tôi tiếp bà Anna Gould, bốn chục xuân thì, tức Boni de Castellane phu nhơn, nhưng đã cũ thôi, đã ly hôn với nhau rồi. Nhỏ người thêm xấu. Vóc hình như trái bầu hồ lô, điểm trên mặt một củ khoai, tẩm nực mùi rượu vang, đóng ngay chỗ thừa đáng lẽ cho mũi dọc dừa. Cùng đi theo bà là đức phu quân “tân lang” - anh em thúc bá với tiền phu, và đó là quận công de Talleyrand-Périgord lưng khòm, tuổi độ lục tuần, cao lớn, dáng người ẩn dật, đã từng hư đốn trăm phần nay đúng một ông hoàng ông công, với chàng sau, bà được hạnh phúc. Sau cuộc ly hôn ông trước tuột dốc, lâm cảnh túng hụt, nợ như Chúa Chổm, ông để lại cho bà trả không biết bao nhiêu triệu nợ, ông chỉ than: “Tôi đã lầm, nàng Anna Gould không đủ sức giàu cho tôi xài cho phỉ chí”.

Giải thích. - Dịch như vậy là ôm cua theo sát máy câu văn Pháp, độc giả nghi trên xe do tôi lái, bị nhồi như hột gạo trên sàng cung may, tôi còn giữ được tập báo Illustration số 29 octobre 1932, tờ “Đại hoạ báo” này ghi lại như sau (tóm tắt): Boni de Castellane vừa tạ thế ngày 20 tháng 10 nầy, xuân thu 65, măng đèn, mơn mởn 65 cái xuân già. Dòng Tallcyrand - Périgord. Năm Boni được 27 xuân xanh, bỗng gặp nàng Anna Gould là ông vua xe hoả bên Mỹquốc (roi des chemins de fer). liền clụp lấy cơ hội, từ giã Paris theo nàng sang Mỹ, làm lễ thành hôn, đổi tước hầu ra bạc tỷ đưa nhau về Paris, xây một biệt thụ nơi hoa lâm Bois de Boulogne, lấy kiểu theo cung điện Petit Trianon, và xây toàn bằng thứ đá vân thạch màu hường quý giá. Xây xong để chưng diện toà lâu đài nầy, ông quy tụ hết tất cá những gì cao sanh quý trọng của bao nhiêu nhà buôn từ kinh đô Paris qua đô thành Londres, nào bàn giường ghế xưa, cổ đồng, ngoạn vật, nhưng phải nhìn nhận ông dọn dẹp dinh thự ông với một ngọc nhãn thiên tài không ai bì kịp.

Thử tập dịch văn Pháp.

“Chez Berenson, critique d art.

“Si les tigres qui sont petits et vifs parlaient, ils auraient ta voix et ton intaiïig ence, Polonais félin. Sous ta douceur calculée, tu étouffes tes rugissement. Pattes de velours et griffes exécutrices d acier. Si tu laisses pousser barbe, c est pour nous cacher que tu es un homoncule. Tes yeux sont bleus... comme pour tromper. Eduqué en Amérique, peut-être y es-tu né. Qui le sait? Tu vis en Italie et certains veulent que tu sois Anglais; Ton ambition (qu elle t a consumé!) fut qu on te reconnaisse comme le plus grand expert au monde en primitifs italiens et tu as atteint ton but depuis trois ans. Tu es mourant mais pour longtemps. Tu ne fais pas d affaires et n acceptes pas de commissions, mais tu partages les bénéfices.

- Voici vingt-cing mille francs, monsieur Berenson.

- Merci, Gimpel.

Tu es venu depuis peu de temps t installer à Paris. Tu accours, dis tu pour travailler pour la Croix Rouge américaine. La vérité:

tu as peur que, rompant le front italien, les Boches ne viennent jusqu à Florence te déranger en ta ville et l on murmure que l Angleterre te refuse l accès de son territoire. Tu connais tous les mondes, toutes les sociétés, et dans l univers tu n as que des ennemis. Si tu hais, on te le rend bien, mais si on te mettait dans une cage avec un critique, c est lui qui serait mangé. Ton plus mortel ennemi est Bode, le directeur du musée de Berlin qui a osé étudier et comprendre la sculpture italienne!”

(René Gimpel, - journal d un collectionneur, marchand de, tableaux).

Vừa tập dịch vừa giảng những chỗ gút mắt. (viết luôn trên máy không giấy giáp)

Berenson, nhà phê bình và giảo nghiệm đồ mỹ thuật Ý. Nếu hổ, thường nhỏ con nhưng lanh lẹn, nếu hổ biết nói tiếng người thì ắt hổ có một giọng như mi, và cùng một thông minh như mi, ớ nầy lão Ba lan giả hổ. Mi có dáng bộ nho nhã cân xứng, giỏi che giấu tiếng gầm, móng vuốt bén nhọn như thép, luyện bọc trong nhung lụa. Mi để râu mọc là cố không cho thấy mi là con vật có phép biết tàng hình biến hoá của bọn pháp sư phù thuỷ. Mắt mi trong xanh màu biếc, tinh xảo, quỷ quyệt vô song. Được giáo hoá bên Mỹ quốc, có lẽ mi vẫn sanh đẻ bên ấy, nhưng đố ai biết được rõ ràng. Mi sanh sống bên nước Ý, nhưng có người định mi là người Anh. Lòng tham vọng vô biên, hiện nó đang đốt cháy mi bên trong, lòng tham vọng ấy đã khiến mi được suy tôn là một nhà phê bình giảo nghiệm độc nhứt về cổ vật nước Ý, và đã ba năm nay, mi được đoạt tới đích ấy rồi. Duy mi đang đau ốm rề rề, nhưng còn lâu, mi chưa chết bây giờ đâu. Mi chẳng làm gì cho động móng tay, cũng không lãnh bắt mối ăn tiền còm, nhưng ai chia lời mi biết táp.

- Ông Berenson, nầy là lai mươi lăm ngàn quan, đây ông.

- Cám ơn Gimpel.

Mới đây, mi đến trú ở Paris. Mi rằng đến để góp công làm việc cho hội Hồng thập tự Mỹ quốc. Kỳ trung, đó là vì mi e một ngày kia bọn Đức tặc đạp vỡ ranh giới nước Ý, tràn xuống Glorence khuấy rầy mi và biệt thự của mi, và người ta thì thầm nước Anh không khứng cho mi qua xứ họ. Giới nào, hội nào trên hoàn cầu, mi đều quen biết, nhưng trên hoàn cầu mi chỉ có thù địch, mi ghét chúng bao nhiêu, thì chúng cũng ghét mi không vừa, và nói cho cùng, thoáng thử nhốt mi vào chuồng hổ cùng với một phê bình gia khác, thì dám chắc lão gia bị hổ xơi ngay, chớ hổ vẫn chừa mi mà? Kẻ thù không đội trời chung của mi, lại là ông Bode, tức ông quản thủ viện bảo tàng kinh đô Đức Berlin, ông này tại sao dám nghiên cứu và hiểu sâu về cổ hoạ và điêu khắc Ý? (hơn mi và biết dư những mánh khóe của mi trong môn sở trường nầy) (12-9-1983).

Hai trang 8 và 9 cũ ấy, vốn chẳng hay ho gì, và nay đọc lại thật là “đầu Ngô, mình Sở”, nhưng như đã nói, tôi vẫn tiếc và cố chép lại nơi đây, để cho thấy tật “ưa để dành” và quả số kiếp của tôi là chó chôn xương, để moi móc lên gặm lại những buổi đói lòng mà không sẵn thức ăn dưới tay.

Ngày nay gẫm lại mà giựt mình, đời của tôi, đời một tên thơ ký quèn trào Tây còn sót lại, chỉ được cái sống dai, nay lên lão, và nếu sự nghiệp còn, sách vả còn, và đồ xưa, ngoạn hảo không mất ai át, ấy chẳng qua là nhờ vận may, và cũng nhờ và vẫn không quên ơn nhà nước biết xét cho một người lương thiện và vô thưởng vô phạt. Hôm nay tôi đã được 88 tuổi và trong vài mươi ngày nữa, đến 27-9 ta, tức 26 octobre tới đây, sẽ lên tuổi 89, thử nhìn lại những khúc đời đã qua, vui có, buồn có, và nếu phải trở lại cuộc đời, tưởng sẽ y đường cũ mà bước, và không thay đổi chút nào. Tại sao phí phạm quá nhiều sức sống? Nhớ lại, và ngày nay mỗi lần có dịp đi qua chỗ cũ, bỗng giựt mình, năm 1920, học xong năm thứ nhứt (première année) trường Chasseloup, nhơn dịp bãi trường, mãi ham về nhà ở Sốc Trăng, tái hiệp cùng cha già mà quên lấy về đôi giày tige drap bỏ quên dưới ngăn tủ trên lầu ngủ nhà trường, đêm ấy, vào khoảng tám giờ tối, sửa soạn mặc đồ vía đi xem chớp bóng rạp Casino, mới nhớ đôi giày giá đặt mười hai đồng (12$00) nơi tiệm Nguyễn Chí Hoà đường Catinat, tiệm giày này là của bà quả phụ Lê Thị Gẫm, mẹ của hai nhà giàu lớn, Nguyễn Chí Mai và dược sĩ Nguyễn Chí Nhiều, chẳng lành thì chớ, quên giày thì lên bỏ qua, nếu kỳ nhập trường tới, còn gặp giày lại thì may, bằng không thì thôi, đàng nầy tôi lúc ấy tiếc của không chịu bỏ qua, lại mời rủ anh em, cùng nhau trở lại trường và tôi noi theo góc đường Lê Quí Đôn và Trần Quí Cáp leo qua hàng rào sắt nhọn, vả đeo theo ống nước máng xối, lên được mái ngói và noi theo một cửa sổ không đóng kín, đột nhập lầu ngủ mà lấy cho được đôi giày, ngày nay trở lại chỗ cũ; nhìn cảnh xưa không thay đổi mà tự giựt mình, quả tôi phí phạm sức sống, vì ống máng xối nào có chắc, rủi thời lúc ấy tôi sa chân xẩy bước, té từ trên cao rớt xuống mà mạng mất thì chẳng là uổng công sanh dưỡng của mẹ cha?

Năm 1924, cưới vợ để chín tháng sau, vợ bỏ nhà, cuộc vợ chồng dở dang, chưa nóng một chiếc chiếu, ắt cũng tại mình phần nào... để rồi trở lại cảnh sống độc thân, buông lung sa đà, hai lần vô nằm nhà thương Chợ Rẫy, rồi kết hôn với một vợ nữa, tốn hao tiền bạc của cha mẹ, làm mất luôn dấu tích mười lạng vàng nữ trang của mẹ để lại và của ấy nơi ba tôi ra công tự làm lấy, dấu tích của mẹ và cha mà, tôi không gìn giữ được, tôi như vậy nên hay là hư, khỏi nói,... để rồi 19 năm sau, người vợ nầy cũng ôm cầm sang thuyền khác, cuộc ly dị đã có toà án làm chứng, nhưng nay phải nhìn nhận đôi bên đều có lỗi và lỗi của tôi, tôi tự trách, tôi mê đồ cổ hơn người chán gối và phải chăng mê đèn sách hơn mê đàn bà tôi đành chừa cho công luận xét soi, và tôi nhìn nhận, có hư nên chúng bỏ...

Mấy phen quen biết cảnh Sài gòn, từ năm 1919, chưn ướt chưn ráo, lên đây học hành, năm 1928, đổi về tỉrh Sa Đéc, vợ thơ, tiền túi, nhẹ bồng..., năm 1932 đổi về Sốc Trăng, ở gần được với cha già mấy niên, chữ hiếu chưa tròn, năm 1935 đổi lên Cần thơ, hạnh phúc trong tay mà không biết tận hưởng, năm 1938 đổi trở lại Sài gòn tùng quyền nơi dinh thống đốc, để rồi thấy thời cuộc bất an, xin đổi về quê hương là tỉnh Sốc Trăng vui sống mấy năm dưới chơn cha già mà vẫn chữ hiếu còn thiếu nhiều bề, kế lại xảy ra cuộc biến thiên, tôi không sống yên thân được nơi nhau rún, cũng tưởng một gói một xách lên Sài gòn nương náu tạm chờ ngày lui về quê nhà là Sốc Trăng, ngờ đâu nay dính gốc dính rễ, từ năm 1947, tôi thiệt thọ làm con dân tỉnh Gia Định như vầy, việc nghe việc thấy cũng chán chê, và nào đâu cánh “tái hồi cầu thị bách nên xuân”.

A! Ha! Tuổi chúng chờ ta, nay chỉ chờ ngày xuống lỗ! Tóm tắt lại, không như Thăng Long là chốn “ngàn năm văn vật”, cũng không như Huế đô là đất thiêng liêng nhà Nguyễn, Sài Gòn chưa được hơn tuổi ba trăm năm, kể từ ngày Dương Ngạn Địch, Trần Thắng Tài, năm 1679-1680 kéo binh Minh qua đây xin đùm đậu, theo mắt tôi dự kiến: Sài gòn năm 1919, vẫn lèo hèo dân cư thưa thớt, mười sáu giờ chiều tan chợ là chợ Bến Thành trơ trẽn đìu hiu như nhà ma mạt chủ, vì phong tục thời Pháp thuộc, đêm hôm từ 16 giờ cho đến 6 giờ sáng, nhà chợ phải để trống, không cho người vào ở, vả lại lúc ấy đèn đuốc lèo hèo, nhà tư nhân còn dùng đèn dầu hoả, nhà sang và nhà thợ thầy mới biết dùng khí đá (carbure) và sau hơn nữa dùng đèn có manchon hiệu Tito-Landy, và chỉ cơ quan nhà nước và các đường phố lớn mới có đèn điện vân vân, xuống đến những năm 1930 đến 1945, qua cơn khủng hoảng kinh tế sau trận đệ nhứt thế chiến 1914-1918, từ những năm 1921 về sau, Sài Gòn mới bắt đầu lại nghỉn, kinh tế phát triển, ruộng trúng mùa, có cuộc cho con sang du học bên Pháp địa, tiền rừng bạc biển, sắm mua xe ô tô, từ xe mủi sập Citroen, đến xe mui hòm Delagé, Renault, Peugeot, vân vân, và mọc như nấm đầu mùa mưa, nào nhà hàng cơm Tây, nào rạp chớp bóng, từ bóng câm rạp Casino ngày nay vẫn còn tồn tại qua rạp Eden và rạp Majestic, sau rốt là rạp Rex, vân vân, nhà phố khuếch trương thêm đồ sộ, người Việt ta biết tranh thương cùng khách kiều cư chà Bom bay, chệc Quảng, chệc Tiều, rồi vượng lên một lúc thật thịnh vượng, buổi binh Mỹ qua đày vãi tiền quến rủ gái nhà quê quẳng gánh, không gánh nước mướn nữa, tập dồi phấn thoa son, học khiêu vũ, lây người ngoại bang, rần rần một lúc, để đến năm 1975, tháng tư ngày 30 đạo binh giải phóng vô đây, thành phố để mặt thật, phấn son bỏ dẹp như đã thấy và nay bặt bén trở lại nhưng như tôi chưa rành và hiện không dám viết...

Phong tục rạp quán, xin hãy giở báo hàng ngày ra đọc, tôi nói bằng thừa: nhớ lại buổi không xa gì lắm, là buổi chúng tôi vừa ra trường, đóng vai làm mọi cho Tây, thơ ký có anh Phát, lanh lợi đi trước thời cuộc, Phát cặp với một nữ lai, con của một cảnh sát trưởng ở Chợ Lớn, Phát tình nguyện ưng ra Côn Đảo làm việc giấy nơi văn phòng viên chủ ngục, để có dịp dẫn dắt nàng vị thành niên đầm lai con ông cò ra đó hưởng tuần trăng mật, nực cười ông Cò mất con, làm tờ có tìm con, đơn thưa quan chướng lý toà Pháp đình gởi qua dinh Thống đốc lại gặp Thống đốc tên là Ba Ghẹ, có máu 35, thống đốc phê câu Pháp ngữ, tôi nhớ mãi là phàm có con gái thì bổn thân phải biết gìn giữ và gà mái sút chuồng thì chủ chuồng tự tìm lấy, chớ thơ ký Phát, không có lỗi đối với phận sự, vả lại đã đến chốn Côn Đảo là cùng tột, thì còn chỗ nào sai đi được nữa, chuyện là chuyện gia đình, chuyện tư gia (affaire privée), không thuộc quyền Thống đốc xét xử v.v... Tuy đơn phê làm vậy, nhưng ông Ba Ghẹ vẫn ra một huấn thị và ra chỉ thị dặn tự hậu đàn bà có chồng công chức tùng sự tại Côn côn, muốn ra đó thăm chồng phải đợi tuỳ tờ hôn thú chánh thức mới đáp tàu ra đó được và thàa dịp ấy một thơ ký khác tên Ba, bị người chăn gối làm bực bội quấy rầy, để cho rảnh sự thoát vòng nữ quái, Ba làm đơn tình nguyện thế cho Phát, Ba ra hứng gió Côn Đảo một ít lâu, nàng tình nhân y hẹn xách va ly định đi tìm chồng nhưng đến bến tàu, vì thiếu tờ hôn thú hợp lệ, nên cô Mười ở lại Sài Gòn, dặm chăn nghêu ngao lỡ khóc lỡ cười và Ba khoái trá, việc như vậy, tôi cho rằng thú.

Một việc khác, nói về lương tâm ông bác sĩ chuyên nghề cứu nhân độ thế, tôi biết một bác sĩ người bòn bon da màu cà phê sữa, có bằng nội trú dưỡng đường Paris (interne des hôpiteaux de Paris) trước tùng sự tại dưỡng đường tỉnh Sa Đéc, sau thuyên chuyển qua nhà thương đô thành Cần Thơ, về chuyên môn thì phải nhìn nhận ông vững nghề trị bịnh, nhưng tại sao ông hám tiền quá độ, lúc ở Cần Thơ, tôi nằm nhà thương nên biết rõ chuyện ông nhóng tiền, có một cô gái Việt đau chứng lên sốt nóng vùi, cha của cô được chủ Tây cho lấy xe nhà chở cô gái vào nhà thương, bác sĩ thấy cô nầy đi xe nhà lộng lẫy, nên nhóng tiền, cô chỉ có đường kinh, máu ra nhiều, tấm trinh chận máu ứ lại, giá thử chích cho rách tấm da mỏng kia thì máu hết ứ, nhưng ông bác sĩ vẫn đế cô nhỏ rên la đau đớn, lỗi vì đi xe nhà mà chậm lòi tiền...

Và cũng thì ông bác sĩ da cà phê sữa nầy (Bourbonais), Dr. L....., tôi vẫn gặp lại ở tỉnh nhà, Sốc Trăng, năm ấy, (nay quên năm nào), có một vị cai tổng chủ ruộng, ban đêm đi mò vợ tá điền bị đâm đổ ruột, chở kịp ổng ra nhà thương tỉnh lỵ băng bó, bác sĩ người Ba Lan Dr. Mickianowsky, trị cho ông đã gần lành, ông cai tổng ỷ giàu, sai lấy xe nhà đem lên Cần Thơ rước cho được ông bòn bon xuống khám bệnh cho ông, bác sĩ cà phê sữa, sẵn xe lên ngồi, vừa hóng mát ngoã nghê, xe tới Sốc Trăng, ông vào nhà thương, sai tháo cuộn băng, ông bác sĩ ban đầu lấy xà bông rửa sạch hai bàn tay, rồi lấy rượu cồn rửa tay lại thoa đi thoa lại rượu 90 chữ không biết mấy lần, đoạn ông bước lại gần giường thầy cai đang nằm, ông nhìn vô chỗ bị thương, ông gật đâu và sai nghịch chỗ bị thương lại y như cũ, đoạn ông lên xe trở về Cần Thơ, tiền khám bịnh lúc nãy, đúng là sáu trăm bạc (600$00), năm ấy Nhựt Bổn có mặt tại Sốc Trăng, và sáu trăm bạc, xin độc giả ngày nay tự định lấy giá trị.

Còn một chuyện nầy nữa, cũng xảy ra ở Sốc Trăng. Lúc ấy có một quan toà là người Việt, quê quán ở Cao Lãnh, ông có vợ là con của một nhà giàu lởn ở Trà Ôn (Cần Thơ), bà nầy đeo vàng xoàn đi xem hát, khi trở về nhà, bà giao cho chị vú xẩm tháo vòng xoàn cất giữ trong một tủ trang sức gỗ, sáng ngày, cả hai, chủ nhà và chị xẩm Quảng Đông, không tìm ra nữ trang, hô hoảng bị trộm, cách ít lâu, quan toà đi ngang một tiệm thợ bạc, thấy bà cai tổng có chồng bị tá điền đâm đổ ruột mà không chết trên đây, bà đang ngồi chờ gắn xoàn vào chiếc vòng, quan toà bước vào, hô lên là xoàn ấy là xoàn của vợ ông bị mất trộm, bà cai phải nhờ luật sư bào chữa và tốn hao không ít mới khỏi vụ nghi oan ấy, việc đã nguôi ngoai và cách không lâu, quan toà có lịnh thuyên chuyển qua tỉnh khác, quan bán cái bàn gỗ trang sức cho một người chủ tiệm làm đồ mộc, người nầy khi đến nhà quan chở tủ, kéo ngăn hộc ra, thì té ra vàng xoàn nữ trang nghi là bị mất trộm vẫn nằm yên dưới đáy tủ, vì kéo ra kéo vào, vàng lọt tuốt xuống kẹt đáy mà vừa chủ nhà vừa chị ở Tàu, sớn sác, không xem xét kỹ, báo hại bà cai hao tài tốn của và ông quan, vì thiếu lương tâm, đã nghi oan cho kẻ bị oan tình là bà cai nọ.

Mấy chuyện nầy đều là chuyện tào lao, chuyện chó bị xe hơi cán, chuyện không đáng kể, nhưng tôi vẫn kể lại đây, vì trong tập Sài Gòn tạp pín lù nầy cũng nên ghi lại những vặt vãnh đánh dấu buổi suy vong thời Pháp thuộc. Một chuyện nhỏ nữa là chuyện quan phó tham biện Pháp ở Sốc Trăng, tên là Mabé ông bị lính Nhựt bắt giải làm tù binh lên Cần Thơ, trước khi bị bắt, ông giấu nữ trang của vợ trên kẹt hóc nhà lầu ông ở, thanh niên tiên phong chiếm nhà nầy một thời gian khá lâu, thế mà sau đó quan Tây nầy trở lại nhà cũ và tìm gần y nguyên số vàng giấu kín, những việc dường ấy, nên hỏi thanh niên tiền phong làm việc tắc trách, xem xét kiểm tra không kỹ, hay là nên hiểu như tôi là mỗi người, mỗi vật, đều có số, có vận may, không ai giống một ai, và cũng không nên tìm hiểu cho nhiều thêm mệt trí óc... cho vào Sài Gòn tạp pín lù là vừa.

(Ngày 16-9-1989).

CHUNG

Chú thích:

(1) fait les cent coups: mener une vie désordonnée. Tôi dịch “hư đốn một trăm lần”
Share this article :
 
Support : Creating Website | phuctriethoc | NGUYỄN VĂN PHÚC
Copyright © 2013. NGUYỄN VĂN PHÚC - All Rights Reserved
By Creating Website Published by KINH TẾ HỌC
Proudly powered by NGUYỄN VĂN PHÚC
NGUYỄN VĂN PHÚC : Website | Liên hệ | phuctriethoc@gmail.com
Proudly powered by Triết học kinh tế
Copyright © 2013. NGUYỄN VĂN PHÚC - All Rights Reserved