6. Cây trồng hai bên lê đường.
- Đường hòe, dặm liễu: theo anh Lê Ngọc Trụ, dặm là một chặng đường xa chừng 576 mét trái lại dặm của Pháp dài đến 4 cây số ngàn; một dặm hú là chặng đường còn nghe tiếng hú tiếng gọi. Cây liễu, ngày nay trẻ em được biết, vì có chỗ, liễu có trồng, duy hoè, theo Hán Việt từ điển là một thứ cây lớn, hoa vàng quả dài mà bẹp, hột dùng làm thuốc, cây hoè ngoài Bắc có nơi dùng đặt tên cho con. Đào Vắn Hoè, Nguyễn Đình Hoè, nghe rất thanh, nhưng trong Nam, có tật nói không sửa, lại tránh tiếng hoè, vì lầm với què, trong Nam, máu què là máu lúc có kinh nguyệt.
Ngày xưa trông cây hoè cây liễu hai bên đường vừa che mát vừa đánh dấu chỗ tiễn đưa nhau, và viết đến đây, tôi nhớ câu: “Một cây cù mộc, một cây quế hoè” (Kiều). Cù lại cũng là một cây to cành cong xuống, để cho dây bìm dây sắn leo, gốc lại thường không thằng, có u có nầng, lấy đó dùng nghĩa bóng, tượng trưng người vợ cả, che chở cho các vợ bé mọn, nhưng che chở làm sao: “Nam khi mười hoạ có khi không” và ráng lắm, nhịn nhục lắm, té ra “Cố đấm ăn xôi, xôi lại hẩm”, phải mà, lựa cây cù tượng trưng biểu hiện bà vợ lớn có u có nầng là thậm phải.
Và đường thông cù lại là đường đi suốt bốn mặt, thấu đến nhiều nơi (Pháp gọi avenue, boulevard, đều được). Ngày xưa, khi Pháp qua đây, dò dẫm đủ cách mà vẫn còn lầm và kết quả là nay về chúng ta gánh chịu. Biết làm đường cho xe chạy, nhưng vì không thấy xa và vì ít tiền, chỉ viết kéo dài, ham con đường chạy xa, nhưng vẫn hẹp bề ngang, ngày nay cây trồng hai bên đường, vừa che mát là chặt bỏ mở đường ra rộng và không còn còn cây che mát. Bên xứ họ, khí tiết mát họ trồng cây lê, cây táo đến mùa trổ hoa, xem rất nên thơ, khi qua đây ban đầu họ trồng xoài, tiện lợi là xoài cho trái sinh ra hoa lợi, đến mùa, đấu giá bán, lấy tiền nộp kho, lúc ấy xe chỉ có xe kiếng, xe tờ ngựa kéo, trẻ nít ra lộ lượm xoài có thể tránh xe dễ, sau nầy xe ô tô thường con trẻ lượm vì xe chạy quá mau, rủi ro khó tránh, nên đốn xoài, trồng me, (vẫn chưa bỏ hoa lợi nhỏ nhặt) nhưng lá me đọng nước, gọi mưa me, tạnh đã lâu mà khách qua đường vẫn ướt đầu ướt áo, bèn thay me và chọn cây dầu, lá lớn, dễ quét hốt, và chọn cây sao, lá bền và gỗ, khi cây lớn nếu đốn sẽ dùng làm ván cầu và sườn rui tiện lợi. Cây điệp, bông đỏ rất đẹp, lá cộng dài tủa ra hai bên như đuôi phụng, nên cũng gọi cây phượng vĩ, điệp gỗ quá giòn, nhánh thường gãy khi có gió lớn, và nay trồng cây điệp Tây, có khi cũng gọi cây ô môi, và vẫn còn trong vòng lẩn quấn, vì lá nhỏ chứa nước mưa như me, thêm nhiều sâu bọ. Cây dương (dương liễu) lá khua xào xạc, chí hợp với bãi biến và chỗ nào có cát nhiều. Cây tòng (cây thông, cây ngo) chỉ hạp với xứ lạnh. Cây dầu gió (camphrier) chỉ thấy ở Huế có trồng hai bên đường, lá to gốc trổ u nầng, và cây lâu lớn. Có nên dịch hoặc sắp một loại với cây “chương” để nhớ câu “Khi về hỏi liễu Chương đài, cành xuân đã bẻ cho người chuyên tay” và câu dẫn giải: “Chương đài liễu, Chương đài liễu, tích nhật thanh thanh kin tại phủ”, (Liễu Chương đài, liễu Chương đài, ngày nọ xanh xanh nay còn không?) và quả Liều thị bị tướng Phiên cướp và được có người đoạt lại để trả về người tình xưa làm vợ hay sao? Nếu quả có thì quả là duyên nợ.
Cây bàng, lá rất lớn, khi già lá đỏ rụng bắt nhớ câu “trận thu phong của Tản Đà” tôi chỉ thấy trồng dài theo bãi và trên vài đường nơi Vũng Tầu, Ô Cấp..
Cây dừa lá bền, phái nỗi trái rụng xuống, khách sơ ý, tránh không kịp, không đợi chết cha vì chính mình chết trước, thêm rễ lồi lên cao, lớp ăn sâu xuống đất choán và chiếm, không cây nào mọc gần bên được, tuy vậy hay là nhờ đó, dừa gặp bão hay có gió lớn, ít khi trốc gốc, ít khi thấy trồng dừa hai bên lề đường, và ở Gia Định có đường gọi Thốt nốt, vì có trồng cây nầy. Thốt nốt, thân cây to hơn cây dừa, lá khác đôi chút và cây mọc rất cao rất khoẻ, nhưng chỉ hợp đất Cao Miên, và tôi không dám quả quyết những cây nơi đường gần chợ Bà Chiều và cây nơi trước sân miếu Tả quân, có từ đời nào, duy biết trồng thốt nốt chung quanh miếu là một ý kiến hay, vì Tá quân từng nhiều phen che chở bảo hộ vua Miên và biết đất Miên rất nhiều. Thốt nốt làm ra đường ngọt, vì leo cây nguy hiểm nên xưa được miễn thuế.
Một cây nên thơ nhứt, thẳng cao như cột trụ, trên cao có chòm lá xanh tròn xoe tán, như tàn lọn, trái hái xuống ăn chung với lá trầu thêm đó môi gái, và hoa rất thơm, người Cao Miên, dùng quảy hoa trong lễ cưới hỏi, tượng trưng cho sự trinh bạch thơm tho của cô dâu, đó là cây cau. Cây thân ngay, lá lơ thơ trên tàn, tôi tưởng tượng trưng sự che chở cho cây trầu, nghe thi vị hơn cây cù gấp mây. Tôi chép lại đây bài thơ cũ, của ông Đỗ Minh Tâm, cũng gọi “Nhiêu Tâm” là một tay thơ cừ lớp xưa chia đất Nam, nay ít người biết tiếng. Thơ “Ghẹo gái bán cau” như vầy:
Hỡi cau ai bán, tiếng nghe rao
Tốt vóc mà trong biết thế nào
Giấu để trong buồng e đóng đục,
Bày ra trước mặt thấy ngon dao
Quyết mua nên phải coi từ vú
Có bán thì cho thử coi nào!
Chuốt ngót của mình ai dám chắc
Biết lòng, biết ruột xỉa tiền trao!
Ông Đỗ Minh Tâm là người xưa, mà sao ý nghĩa ác ôn đến thế. Đọc thơ ông, nhớ Henri Miller, Baudelairs và bao nhiêu bọn tân thời thiếu đàn bà và ham nói tục. Nói tục như ăn ớt cay, khi xé miệng mới gọi là ngon.
Các nước giàu dầu hôi như Iran, lại không có nước, vì ít có mưa, phải lập bộ trướng chuyên coi về nước, ai xài phí nước bị phạt, không như nước mình, mưa đến không lu không mái để chứa nước và trái lại, không dầu đế đốt đế chạy xe. Iran là nước Y lan trong sách Tàu, và Djibouti là một nơi tàu đi biển ghé để lấy thêm nhiên liệu và lương thực, nhưng Djibouti, nóng cháy da, không cây nào mọc được và phải lấy kẽm giá cây cho ít thấy khô khan, và ngày nào các xứ “vua dầu lửa” (Ả rập, Koweit) một ngày nào đây mỏ dầu cạn, tiền vàng không chỗ để mà không một giọt nước uống.
Giàu như vậy, tưởng không bằng nước ta, nhất là Sài gòn Phật địa, ngày trước, nhà thảo mộc học, ông Pierre, làm chủ vườn bách thảo đầu tiên, ông có sáng kiến trồng trên các con đường trong thành phố, từng dãy cùng một loại cây như nhau, biến thành phố thành một bach thảo tập (herlier) riêng biệt, tiếc thay người kế tiếp nay trồng xen kẽ loạn xị, ra bộ sưu tập hoá ra phức tạp Có một đường trồng toàn cây cao su, và vì không ai lấy mủ, nân cày u nầng xấu xí. Riêng đường Phan Đình Phùng cũ nơi trước cửa hai học viện có hai cây dầu cổ thụ, tôi cho là dấu tích Sài gòn xưa sót lại, và bài nầy tôi vẫn viết rồi nay viết lại cho đỡ buồn ( ngày 23-10-1983).
Ngày xưa trông cây hoè cây liễu hai bên đường vừa che mát vừa đánh dấu chỗ tiễn đưa nhau, và viết đến đây, tôi nhớ câu: “Một cây cù mộc, một cây quế hoè” (Kiều). Cù lại cũng là một cây to cành cong xuống, để cho dây bìm dây sắn leo, gốc lại thường không thằng, có u có nầng, lấy đó dùng nghĩa bóng, tượng trưng người vợ cả, che chở cho các vợ bé mọn, nhưng che chở làm sao: “Nam khi mười hoạ có khi không” và ráng lắm, nhịn nhục lắm, té ra “Cố đấm ăn xôi, xôi lại hẩm”, phải mà, lựa cây cù tượng trưng biểu hiện bà vợ lớn có u có nầng là thậm phải.
Và đường thông cù lại là đường đi suốt bốn mặt, thấu đến nhiều nơi (Pháp gọi avenue, boulevard, đều được). Ngày xưa, khi Pháp qua đây, dò dẫm đủ cách mà vẫn còn lầm và kết quả là nay về chúng ta gánh chịu. Biết làm đường cho xe chạy, nhưng vì không thấy xa và vì ít tiền, chỉ viết kéo dài, ham con đường chạy xa, nhưng vẫn hẹp bề ngang, ngày nay cây trồng hai bên đường, vừa che mát là chặt bỏ mở đường ra rộng và không còn còn cây che mát. Bên xứ họ, khí tiết mát họ trồng cây lê, cây táo đến mùa trổ hoa, xem rất nên thơ, khi qua đây ban đầu họ trồng xoài, tiện lợi là xoài cho trái sinh ra hoa lợi, đến mùa, đấu giá bán, lấy tiền nộp kho, lúc ấy xe chỉ có xe kiếng, xe tờ ngựa kéo, trẻ nít ra lộ lượm xoài có thể tránh xe dễ, sau nầy xe ô tô thường con trẻ lượm vì xe chạy quá mau, rủi ro khó tránh, nên đốn xoài, trồng me, (vẫn chưa bỏ hoa lợi nhỏ nhặt) nhưng lá me đọng nước, gọi mưa me, tạnh đã lâu mà khách qua đường vẫn ướt đầu ướt áo, bèn thay me và chọn cây dầu, lá lớn, dễ quét hốt, và chọn cây sao, lá bền và gỗ, khi cây lớn nếu đốn sẽ dùng làm ván cầu và sườn rui tiện lợi. Cây điệp, bông đỏ rất đẹp, lá cộng dài tủa ra hai bên như đuôi phụng, nên cũng gọi cây phượng vĩ, điệp gỗ quá giòn, nhánh thường gãy khi có gió lớn, và nay trồng cây điệp Tây, có khi cũng gọi cây ô môi, và vẫn còn trong vòng lẩn quấn, vì lá nhỏ chứa nước mưa như me, thêm nhiều sâu bọ. Cây dương (dương liễu) lá khua xào xạc, chí hợp với bãi biến và chỗ nào có cát nhiều. Cây tòng (cây thông, cây ngo) chỉ hạp với xứ lạnh. Cây dầu gió (camphrier) chỉ thấy ở Huế có trồng hai bên đường, lá to gốc trổ u nầng, và cây lâu lớn. Có nên dịch hoặc sắp một loại với cây “chương” để nhớ câu “Khi về hỏi liễu Chương đài, cành xuân đã bẻ cho người chuyên tay” và câu dẫn giải: “Chương đài liễu, Chương đài liễu, tích nhật thanh thanh kin tại phủ”, (Liễu Chương đài, liễu Chương đài, ngày nọ xanh xanh nay còn không?) và quả Liều thị bị tướng Phiên cướp và được có người đoạt lại để trả về người tình xưa làm vợ hay sao? Nếu quả có thì quả là duyên nợ.
Cây bàng, lá rất lớn, khi già lá đỏ rụng bắt nhớ câu “trận thu phong của Tản Đà” tôi chỉ thấy trồng dài theo bãi và trên vài đường nơi Vũng Tầu, Ô Cấp..
Cây dừa lá bền, phái nỗi trái rụng xuống, khách sơ ý, tránh không kịp, không đợi chết cha vì chính mình chết trước, thêm rễ lồi lên cao, lớp ăn sâu xuống đất choán và chiếm, không cây nào mọc gần bên được, tuy vậy hay là nhờ đó, dừa gặp bão hay có gió lớn, ít khi trốc gốc, ít khi thấy trồng dừa hai bên lề đường, và ở Gia Định có đường gọi Thốt nốt, vì có trồng cây nầy. Thốt nốt, thân cây to hơn cây dừa, lá khác đôi chút và cây mọc rất cao rất khoẻ, nhưng chỉ hợp đất Cao Miên, và tôi không dám quả quyết những cây nơi đường gần chợ Bà Chiều và cây nơi trước sân miếu Tả quân, có từ đời nào, duy biết trồng thốt nốt chung quanh miếu là một ý kiến hay, vì Tá quân từng nhiều phen che chở bảo hộ vua Miên và biết đất Miên rất nhiều. Thốt nốt làm ra đường ngọt, vì leo cây nguy hiểm nên xưa được miễn thuế.
Một cây nên thơ nhứt, thẳng cao như cột trụ, trên cao có chòm lá xanh tròn xoe tán, như tàn lọn, trái hái xuống ăn chung với lá trầu thêm đó môi gái, và hoa rất thơm, người Cao Miên, dùng quảy hoa trong lễ cưới hỏi, tượng trưng cho sự trinh bạch thơm tho của cô dâu, đó là cây cau. Cây thân ngay, lá lơ thơ trên tàn, tôi tưởng tượng trưng sự che chở cho cây trầu, nghe thi vị hơn cây cù gấp mây. Tôi chép lại đây bài thơ cũ, của ông Đỗ Minh Tâm, cũng gọi “Nhiêu Tâm” là một tay thơ cừ lớp xưa chia đất Nam, nay ít người biết tiếng. Thơ “Ghẹo gái bán cau” như vầy:
Hỡi cau ai bán, tiếng nghe rao
Tốt vóc mà trong biết thế nào
Giấu để trong buồng e đóng đục,
Bày ra trước mặt thấy ngon dao
Quyết mua nên phải coi từ vú
Có bán thì cho thử coi nào!
Chuốt ngót của mình ai dám chắc
Biết lòng, biết ruột xỉa tiền trao!
Ông Đỗ Minh Tâm là người xưa, mà sao ý nghĩa ác ôn đến thế. Đọc thơ ông, nhớ Henri Miller, Baudelairs và bao nhiêu bọn tân thời thiếu đàn bà và ham nói tục. Nói tục như ăn ớt cay, khi xé miệng mới gọi là ngon.
Các nước giàu dầu hôi như Iran, lại không có nước, vì ít có mưa, phải lập bộ trướng chuyên coi về nước, ai xài phí nước bị phạt, không như nước mình, mưa đến không lu không mái để chứa nước và trái lại, không dầu đế đốt đế chạy xe. Iran là nước Y lan trong sách Tàu, và Djibouti là một nơi tàu đi biển ghé để lấy thêm nhiên liệu và lương thực, nhưng Djibouti, nóng cháy da, không cây nào mọc được và phải lấy kẽm giá cây cho ít thấy khô khan, và ngày nào các xứ “vua dầu lửa” (Ả rập, Koweit) một ngày nào đây mỏ dầu cạn, tiền vàng không chỗ để mà không một giọt nước uống.
Giàu như vậy, tưởng không bằng nước ta, nhất là Sài gòn Phật địa, ngày trước, nhà thảo mộc học, ông Pierre, làm chủ vườn bách thảo đầu tiên, ông có sáng kiến trồng trên các con đường trong thành phố, từng dãy cùng một loại cây như nhau, biến thành phố thành một bach thảo tập (herlier) riêng biệt, tiếc thay người kế tiếp nay trồng xen kẽ loạn xị, ra bộ sưu tập hoá ra phức tạp Có một đường trồng toàn cây cao su, và vì không ai lấy mủ, nân cày u nầng xấu xí. Riêng đường Phan Đình Phùng cũ nơi trước cửa hai học viện có hai cây dầu cổ thụ, tôi cho là dấu tích Sài gòn xưa sót lại, và bài nầy tôi vẫn viết rồi nay viết lại cho đỡ buồn ( ngày 23-10-1983).
7. Để bổ túc bài “cây trồng hai bên đường”: (viết ngày 9-1-1989)
Tháng rồi, gần lễ Giáng sinh, tôi cỏ dịp xuống thành phố, nhơn đi ngang Hai học viện cũ, đường Nguyễn Đình Chiểu nay, tôi thấy đang đốn hạ hai cây cổ thụ cao ngất trời, tỏi dòm không có lá gì, sau sến hay dầu lông, duy bấy lâu thầm kính hai đại thọ là hai vật sống sót gần như duy nhứt của cái gọi là “Rừng già tồn tại” của Sài gòn năm xưa, mỗi cây, gốc lớn đến ba người trộng tuổi, ôm không giáp chung quanh thân cây, và tôi thường lấy cây gậy cầm đo thử, ước lượng bề trục kính, có lẽ gần gần một thước rưỡi tây (1 mét 50 hay 1 mét 60 chớ không ít). Bỗng bữa ấy sớm còn thấy hai cây sừng sựng bên lề đường, cũng không choán chỗ, cũng không làm trở ngại sự lưu thông trên đường phố, có thể nói hai gốc cây cố thụ ấy là một tràng sức còn lại của di tích Sài gòn năm xưa nhưng chiều lại thì hai cây đã bị hạ, không rõ duyên cớ, có người đổ thừa: “Cây đang chết khô”, kẻ khác lại nói “người ta cần dùng gỗ của nó để làm từ khí ghế bàn, tú kệ...”, như vậy là hữu ích hơn. Tôi không càn biết những chi tiết lý luận ấy đứng bề mặt thẩm mỹ, tôi chỉ biết “hai cây nầy” đã bị hạ, tôi thương tiếc cũng vô ích, chi nên hiểu đời nầy: đừng tưởng mình có tài thì được trọng dụng, vì rõ ràng sách xưa nói không lâm, tôi nay chi nhớ đại ý cố nhơn đã dạy: “Cây trực, cây cẩm lại là danh mộc, vì gỗ có nước bóng xinh và cây để trong mát, vẫn bền bĩ không hư không mục, và vì vậy nên người ta vẫn tìm, dẫu trốn mọc trên non cao rừng rậm cũng có nguôi vác búa vác rìu lên kiếm đốn đem về và cây tạo cây vô dụng như cây vông đồng, cây loại dây leo, như cây “bông giấy”, cây điệp, cây bả đậu, thuộc loại cây tạp, vô dụng thì được tồn tại, nhưng rồi cũng không được sống bền lâu khi thiếu củi chụm, thiếu gỗ đóng thùng bộng chứa vật dụng gởi ra nước ngoài, chung qui theo tôi hiểu, hữu dụng thì chết với lưỡi búa vô tình, mà vô dụng cũng tử nghèo với lưỡi rìu hữu ý, y như câu sấm truyền: “Khôn lắm cũng chết, dại lắm cũng không còn, và chỉ còn hay chăng là giống biết tuỳ thời, nắng bề nào che theo bề nấy, cũng đừng ló mặt bợ đợ chỉ thêm hèn, thà trốn trong nhà, đưa võng ru con ngủ thay vợ mà được chữ “nhàn”, dầu bị chê khiếp nhược cũng mặc.
Theo tôi biết, phương pháp trồng cây theo lề đường thì theo ý kiến nhà thảo mộc học Pierre là hay hơn cả. Tóm tắt lại, đời đàng cựu quê mùa, đường nhỏ, ít xe, kẻ bộ hành cần nhiều bóng mát, cho nên ngày xưa trông cây dọc lộ nhỏ, lộ trải đá ong, vì chỉ có xe kiếng, xe song mã là cùng. Lại có ý trồng cây ăn trái xoài, me...) đến mùa hái trái, thêm hoa lợi cho công nho làng. Đến khi Pháp đến, và khi có xe ô tô, thì lộ đá đỏ hoá chật hẹp, phải nới rộng đường và đốn xoài đốn me, thay vào là trồng cây sao, cây dầu, cho lá xanh và hoa có cánh, đến mùa, rơi rụng rất nên thơ (đường hàng sao, đường hàng thị, hàng điệp, vân vân), những cây vừa cao lớn xinh tốt, cho bóng mát đường, thì Mỹ mẽo đến, xe ô tô của họ to lớn như một căn nhà, thêm xe buýt dài thậm thước, day trở kềnh càng, lại một phen nới rộng đường thành phố cũ hoá ra “xa lộ” thông cù, cây sao, cây me, rễ mọc xỉa ra lộ, bị cắt xén, chặt bớt rể, tỉa bớt nhánh, cây trở nên đứng không vững, mất thăng bằng, khi có dông to gió lớn, thường gãy nhánh hay ngã luôn tai hại cho ai rui ro đứng hay đi ngang dưới gốc... Cây me, lá đọng nước, trời dứt mưa mà đường vẫn ướt lâu, trào Pháp thuộc phân vân đang lo thay thế và chưa lựa được cây gì cho ổn thoả, vì kinh nghiệm cho biết cây ăn trái, khi ô tô đang chạy, trẻ con ra lượm trái, xe tránh không kịp, một độ vài mươi năm trước đây, trồng cây cao su (tỷ như khúc đường Hiền vương cũ, khúc gần ngã sáu, nhưng cây hévas, lâu ngày không rút mủ, mủ ứ đọng hoá ra u nầng xấu xí, trông như bị ung bướu, mụn nhọt thừa ghê tởm...
Sau ngày Giải phóng 30-4-1975, Nhà nước có sáng kiến trồng nhiều cây dầu gió (eucalyptol), cây nầy tiết ra chất dầu thơm nhẹ, lọc khí trời ô nhiễm trở nên thanh lọc nhẹ nhàng, thảm nỗi những cây trồng dưới lằn dây cao điện, khi cao lởn, lá nhánh quét đụng dây điện, rất là tai hại, rồi thì cây bị tề nhánh, hoặc có chỗ bị lột vỏ chung quanh gốc, làm cho mủ cây không lên tiếp dưỡng nhánh lá được và cây phải chết, và sau khi khuynh diệp tử ngủm, thấy trồng cây “bất cứ thứ gì cũng xong”, như bã đậu, cây dầu, cây sao, chi chi cũng mặc, hoá ra cuốn sách khảo về thảo mộc học của ông Pierre, đã mất nghĩa “herbier” của nó. Và như vậy, thành phố mất thẩm mỹ, đáng tiếc.
Từ ngày có nhiều trận dông to thổi qua thành phố, lại là một dịp cho sở trồng tỉa của đô thành, viện cớ, cho đốn và cắt xén cây trong thành phố gần như trụi lủi, gốc me đại thụ nay trơ trơ như cột nhà cháy, riêng đường Đinh Tiên Hoàng, khúc Văn khoa đại học cũ, hai hàng cây tự biết thân nên đã chết khô, sở trồng tỉa sai búa rìu đến chặt hạ và chửa vài cây bị nóc nhà chứa xe làm trở ngại chưa đốn được, lại hoá ra cánh hoang vu bơ phờ y như có một luồng gió bão thổi qua, tàn tạ.
Việc rời nhắc lại nghe chơi, tỷ như đại lộ nay mang tên ông Tôn Đức Thắng, trước đây không rõ vô tình hay có thâm ý riêng, cây hai bên lề vẫn trồng điệp ta xen kẽ với điệp Tây, qua mùa trổ hoa, bông trổ nhúm đỏ liên kề nhúm vàng, và khi có gió dậy, nhánh cây múa nhảy giao liên, ba đào sóng bổ, khiến bắt nhớ câu hát bất hủ tuồng “Tiết Cương chống búa” của cụ Đào Tấn, “lao xao sóng bổ ngọn tùng gian nan là nợ anh hùng phải vay”, đó là cảnh ngọn tùng xứ Huế khi có gió lớn, và nay để nhại thơ xưa xuất thần ấy hay là ở thành phố Miền Nam ngày nay: “lao xao sóng bổ ngọn cây trồng, gian nan đành chịu, anh hùng chớ than! Rồi cảnh ấy đã mất phần nên thơ, khi có cây nào chết, nay thay thế, hấy cây dái ngựa, cây hàm bà lằng bất chấp “mọc thế nào, cũng xong”. Cây dái ngựa, gốc to, mau lớn, lá xanh tươi tối, như sao sến, là cây nên trồng theo lề đường vậy. Mấy hàng lỗ mỗ không cần lưu tâm đến.
Thuật lại trận 1861, Tây đánh chiếm thành Mỹ Tho
Ông Phù Lang Trương Bá Phát, trong tạp san số 1 năm 196S Sử Địa, do nhờ sách Khai Trí xuất bản, dưới nhan là “Tỉnh Định Tường ngay xưa”; đã láy tài liệu trong quyển Histoire de l’Expédition de Cochinchine en 1861 của Léopold Pallt de la Barriere (Berger Levralllt, Paris, 1888) ra viết, tạp san nầy nay đã trở nên hiếm cỏ ít nhà còn tàng trữ, nơi bài nầy, tôi viết lại cách khác, theo cách cú tôi, - nhà văn với nhau, cãi và chỉ trích với nhau, có ích lợi gì, vả lại tôi đây chưa dám xưng nhà văn đâu, vậy xin biết và thông cảm cho tôi.
Chỉ đến ngày nay, tôi thấy nhiều tác giả viết về giặc Tây đánh chết Nam kỳ, ông thì tuy sanh đẻ tại chỗ mà chưa biết “Thang trông” ở Mỹ Tho là cái thang bắc lên cao để dòm bên nầy và bên kia, khi giặc Thổ còn trộm lúa khi lúa ở Tân An, khi khác lúa chín trước. Ở hướng Mỹ Tho, Thang trông mà ông lầm lạc và viết: Thân trong (tức là khúc thân phía trong sâu, tỷ dụ vậy) nhưng tôi làm sao dám nói tên ông ra, ông bỏ tù thấy cha thấy mẹ, còn một ông nữa, người Miền Trung, ăn học trong Nam, viết sử và lầm Biển Tranh ở Mỹ Tho, ông đã viết “Đồng Tranh” làm cho tôi tưởng chúa Nguyễn Ánh thư hùng với chúa Tây sơn ở tuốt Biên Hoà (Biên Hoà mới thật có Đồng Tranh), kỳ thật hai ông chúa nầy quần thảo với nhau, gần nát bét vùng Ba Giồng (Tam Phụ), khoảng Bến Tranh, ở giữa Vàm Cỏ và Sông Tiền đây thôi (vùng nầy nay còn đông con cháu Tây Sơn và quân sĩ chúa Nguyễn giải giáp lập nghiệp tại đây, nhà tối hạ phên xuống thay vì đóng cửa, và cháu chắt pha trộn nhau nhiều đời, nên kẻ theo cách mạng, người theo kháng chiến, và máu anh hùng nào phân biệt giai cấp thấp cao.
Tôi nhờ ham mê sách vở và sưu tập sách cũ, nên tôi có tìm thấy ba địa đồ cũ; ai cắt cổ, tôi không sợ bằng đến mượn hay bắt tội để đoạt của tôi ba địa đồ này:
1) một bức do ông Hoàng Xuân Lợi, nay đã mất bên Pháp, phóng y bức của G. Aubaret để lại trong sách “Histoire ét desoription de la Basse-cochinchine; là bản dịch ra Pháp văn của bộ “Gia Định thành thông chí” của Trịnh Hoài Đức địa đồ nầy nay rất hiếm, và vẫn do ba ông Nanan, Vídal và Hérald, vẽ từ năm 1883, do định dạy của thuỷ sư đô đốc Charner và Bonard trước 1862 và in vào sách năm 1863, quyển Aubaret nầy tôi mua từ lúc nhỏ, còn đi học trường trung học Pháp Chaseloup;
2) một địa đồ của quyển là Paulin Via dẫn thượng, sách mua giá 20 đồng, chứa một tài liệu liệu vô giá, địa đồ nầy do ông Charpentier hoạ từ năm 1868, quý báu vô song;
3) bức địa đồ thứ 3 nầy, vẫn nằm trong quyển đã kể của Palu de la Barrière và do ông Dutreuil de Rhins sáng tác và in lại năm 1881 cho bộ Thuỷ binh Pháp sử dụng...
Ba địa đồ nầy đối chiếu và bổ túc lấy nhau, nhờ nó mà tôi múa mép như vầy chớ chính tôi cần phải học hỏi nhiều hơn nữa, ngặt nỗi cái già đã theo bén gót, và cho đến nay, thú thật tôi biết không đầy lá mít tỷ như tôi là người nhau rún ở Sốc Trăng, mả tỉnh nầy mà tỉnh này xưa có một làng thổ tên gọi “Oi lôi”, xin ai đừng hỏi tôi Oi lô nghĩa là gì. Tôi không trả lời được...
Về Bảo Đinh hà (rạch Vũng gù) và Đăng giang (rạch Chanh), tôi hiểu như sau: (nay cải chính lại đây những gì tôi đã biết lở và viết từ trước).
1) Lật địa đồ cũ ra, vào những năm 1861, khi Tây ỷ mạnh, kéo binh qua ăn cướp nước ta để làm thuộc địa, Tây nhờ có tay trong mách đường đi nước bước, nên trận đánh chiếm Mỹ Tho, họ làm như vào chỗ không người, vả lại bên ta khí giới thô sơ, bọn họ súng mạnh bắn xa, để đợi trận Điện Biên Phủ gần đây, mới rõ tài cao hạ và đó mới là Kỳ phùng địch thủ” tay ngang mà đại thắng mấy ông những bốn ngôi sao xuất thân trường võ bị trứ danh Saint-cyr mới là sướng cho, nhắc lại về đường liên lạc giữa Sài Gòn và Mỹ Tho đời ấy, vẫn có:
1) trên bộ, nơi đất liền, vẫn có một đường lộ duy nhứt, sáu Tay o bế lại làm thành con quốc lộ quản hạt số 4 (route cloniale numéro 4) kèm thêm một thiết lộ gọi đường xe lửa Sài Gòn - Mỹ Tho, dài độ 80 ki lô mét, đường lộ nầy chạy uốn vòng như cây cung, mà con đường thuỷ Vũng Gù là sợi dây cung nối liền đầu vàm “Vàm Cỏ Tây” phía Tân An qua vàm sông Tiền (Mê kông) phía Mỹ Tho (theo địa đồ của Paul Alinot in năm 1916 để lại thì đường thuỷ “sợi dây cung nầy” đo 28 ki lô mét, nhưng có lý do nào cung cong 80 km, mà dây đo 28 km cho được, nên tôi định đường thuỷ lộ nầy mặc dầu ngay bon, nhưng vẫn dài hơn số của Alinot đã ghi. Tây họ chọn con đường Vũng Gù nầy để độ binh đi đánh Mỹ Tho - một là vì con đường lộ đất liền, thì bị bên ta phá cầu, cắt đứt sáu bảy chỗ, khó thể làm cầu tạm cho binh, ngựa, súng ống qua dễ dàng, hai nữa là đường thuỷ nầy tuy bên ta có đắp đập và cố thủ khá kiên cố, đi ngỏ nầy ắt bị phục kích và cự đương dữ dội, nhưng người Tây vẫn khinh địch, ỷ mình súng mạnh hơn và tầm bắn đi xa hơn nhiều, và có lẽ thứ ba là tay trong mách lẻo, tuy đi đường nầy, theo chiến lược là thất sách, và tuy hiểm, nhưng cũng vì con đường thuỷ số 2 là Rạch Chanh, ở ném hướng Bắc, vừa xa đường, dễ phòng thủ, nếu noi theo thì ít hiểm trở về chiến lược hơn, ngặt nỗi Rạch Chanh, vào những năm 1861 đã cạn nhiều, cỏ lác mọc lềnh khênh, ghe cạn lườn còn có thể qua được chớ tàu chiến của Tây, lườn sâu đáy nhọn, qua đó gặp nước cạn, bị mắc kẹt, phải chờ con nước lớn hoạ may mới trẩy được rủi thời binh địch nghinh chiến thì không khác kình nghê mắc lấy, chết cha cửa Tứ, theo tôi định chừng, có lẽ bọn tay sai đã mách nước cho Tây rồi, cho nên Tây chọn đi theo rạch Vũng Gù như đã nói.
Ngày nay bình tĩnh lấy địa đồ ra xem mà đoán việc ngày xưa, thảm nỗi dầu muốn đến tại chỗ mục kích cho vững chắc, cũng không thể được, vì đi lớ quớ người địa phương bắt tội tìm “đường trốn ra nước ngoài”, thì khác nào thằng câm ăn ớt, miệng nào cắt nghĩa cho xuôi, còn sách vở để lại, ôi thôi, nó rối như tơ vò, không biết đường đâu mà gỡ. Sách Việt sách cổ của ta, thì tôi chưa từng gặp, lại nữa dẫu may gặp được cũng vô phương đọc và khai thác, vì tôi là thằng dốt, cha mẹ tôi xưa không cho tôi học chữ hán, chữ nôm vì cho rằng đó là chữ của người “nước mất”, học để làm gì, thêm một tệ đoan khác là sách ta rất mơ hồ, nội mấy sách phiên âm để lại đủ điên đầu vì dịch sai bét, hại nhiều hơn giúp ích. Nội tài liệu về dịa danh trong Nam đã làm cho tôi sớm bạc đầu, không kể nội hai con rạch cũ ở Tân An, Mỹ Tho nầy đủ thấy rắc rối nhứt; không nước nào học khó hơn nước Việt ta. Cái cam go của người hiếu học là thiếu sách hay dẫn đắt. Sách Pháp nói về địa danh ở Nam kỳ, tôi cho cuốn Abrégé de l’Histoire d’Annam (Đại lược sử An nam) của Alfred Schreiner, tự tác giả xuất bản ở Sài Gòn năm 1906, tôi cho cuốn nầy là sơ sài nhứt, khen cho tác giả khéo lựa nhan đề. Sách gì nói về Nam kỳ mà không có vẽ một địa đồ nào, tuy tác giả, nghề chánh là trắc địa sư (gọi ông hoạ đồ) (ingénieur géomètre), còn tài liệu về sử ký thì mơ hồ, nếu không gọi là không đúng chánh sử. Tôi xin trích ra đây đoạn nầy rút trong tập Sử Địa số 1 năm 1966 đã nói nơi trước và đây là lời của ông Trương Bá Phát: “Ngả thứ ba cũng vào sông Vũng Gù qua khỏi hợp lưu Bảo Định Hà và Vũng Gù đến ngả ba sông nầy và kinh Thương Mãi (không biết hồi 1861 gọi là kinh gì nhưng từng chặng tôi thấy sách Abrégé de l’histoire d’Annam tác giả Schreiner, trang 184, gọi là Rạch Chanh, kinh Bà Bèo, Rạch Cua và Rạch Bà Rài, tới đây lại lòng sông cạn vì bùn lầy, cỏ lác, chỉ có ghe nhỏ lưu thông được mà thôi). Vị trí chỗ hợp lưu kinh nầy và sông Cửa Tiểu là ở trên thượng lưu Mỹ Tho (tập san Sử Địa số 1 năm 1966 do nhà sách Khai Trí xuất bản, trang 76)”.
Nhưng chi tiết của Schreiner trên đây đều đúng, ngặt không rành, và ông Trương Bá Phát quả dè dặt trong lúc dùng, khi ông kể một dọc nhưng tên Rạch Chanh (Schreiner viết Rạch Chánh), kinh Bà Bèo, Rạch Cua vả Rạch Bà Rài, ông kể ra như vậy có ý tránh trách nhiệm và tôi cho cả hai đều lúng túng.
Bỏ qua việc ấy, để nói về cuốn sách của Schreiner nghe chơi cho vui vấn đề. Cuốn nầy, cỡ format 24x16, dày 588 trang, tôi giựt giải thưởng năm 2è année trường Chasseloup với câu Pháp văn của thầy đề tặng: “Souvenir à l’elève Vương Hồng Sển en ré compense de son application au cours dannamite que je professe au collège Chasseloup Laubat”. Sài gòn le 22 février 1921. Signé: Nguyễn Văn Mai.
Ấy tôi được cuốn sách thầy thưởng, tâng tiu như con đẻ bọc điều ngờ đâu cách vài tuần nhứt sau, tôi gặp sách nơi dãy lạc son ngang nhà ga xe lửa Mỹ Tho, các chú bày bán ê hề, trên vài trăm cuốn mỗi cuốn giá 0$50. Hoá ra, không phải phụ ơn thầy dạy dỗ, nhưng quả thầy thưởng cho con năm hào chỉ. Nói vậy, chớ giá thứ tôi lúc ấy sẵn tiền và đã biết chơi sách như nay, tôi mua lên và thử nay đem ra giữa chợ trời sách, đường Cá Hấp, hô bán 1.000 đồng, ắt giây lát sách không còn một cuốn, tôi sẽ có tiền nặng túi, vì người chơi sách vẫn còn, và sách cũ, dầu hay dầu dỡ, vẫn còn người mua sắm.
Đó là nói sa đà về thú chơi sách cho đỡ cồn cồn trong trí, nay tít lại sách Pháp cũ và tài liệu về địa danh trong Nam, tôi thấy quả phải có duyên may mới gặp sách hay, và muốn có tài liệu đích xác người mình chưa thế nào rời sách của Tây viết ngày xưa được. Đừng nói chi xa, có sẵn tài liệu trong tay mà vẫn phải năm chầy tháng lụn mới hiểu thâm và biết được chút ít những gì trong ấy, chứ đừng tưởng trong chốc lát, đến thư viện xem sách rồi viết được một bài súc tích hay ho. Người nào làm được việc ấy, thì quả là một bực thiên tài, chớ như tôi rị mọ đã già đời mới học được đôi tài liệu nầy, xin trình bày hôm nay nhờ bực cao tài chỉ giáo:
1) Tôi phải trình bày lại như vầy có lẽ dễ hiểu hơn chăng:
- Nhắc lại khoảng 1861, kể về đường thuỷ dẫn từ Tân An xuống Mỹ Tho, gồm có hai rạch đã nói nơi trước và nay xin giải thích rộng như vầy:
Trước khi Tây qua đây, thì ngày xưa chỉ gọi tên như sau:
a) Một con rạch gọi Rạch Chanh, như đã nói nơi trước, chữ gọi Đăng Giang, rạch nầy đã được ghi vào sách sử vì chúa Nguyễn Ánh đã từng lội ngang đầu vàm rạch nầy để tránh tay địch thủ lợi hại là Tây Sơn, truy nã ông cấp bách. Sử không chỉ rành chõ nào, định chừng lối những năm nguy nan nhứt, của chúa Nguyễn, con trai cả đã gởi qua Pháp theo chơi Bá Đa Lộc để xin cầu viện, thân vua bấp bênh chạy không kể chết, vàng lượng chặt đôi chia cho bà hậu, đủ thấy sức nghèo, đó là lối một mất một còn với Tây Sơn thì năm 1774 chạy vào Nam đến năm 1789 là năm thắng được Tây Sơn, năm 1982 tôi có dịp quan sát khúc đầu vàm rạch Chanh, tôi định chừng và đã viết, hoặc chúa Nguyễn lội ngang sông Vàm Cỏ cũng gọi sông Vũng Gù, thì sông nầy rộng lớn quá, ắt phải nhờ cỡi trâu quen đường (mà trong sử thi vị hoá hay thần vị hoá đổi ra cỡi lưng cá sấu), hoặc nữa lội ngang vàm rạch Vũng Gù, thì sức người trai tơ lội qua được vàm nầy cũng đủ hãnh diện tài cao, khỏi nhờ lưng trâu, lưng sấu. Khúc sông và con rạch đều mang một tên Vũng Gù là lấy tẽn của Miên “kompong ku”, còn rạch Chanh là lấy tên khác cũng của Miên: prek krauch (krauch là trái chanh), Ngô Tất Tố viết “rạch Chênh” (chênh chênh bóng nguyệt) là sai rất xa, con rạch nầy, phải cắt nghĩa và dẫn người đọc từ mé Tân An dẫn qua thì mới dễ hiểu, vì đầu Vàm là rạch Chanh, vì có bèo nhiều nên eo khúc lại gọi “kinh Bà Bèo” (kinh, rạch lẫn lộn), đi tới nữa lại gọi “Rạch Cua”, tôi chưa gặp điển tích nào, nhưng cho phép tôi định chừng đó là lối giáp nước, cạn, cỏ lác mọc nhiều, cố nhiên có cua sanh đẻ nơi đây nhiều, nên lấy đó đặt tên chăng, rồi tới chỗ rạch trổ ra sông Tiền (trước khi có đi ngang Cai Lậy), đầu vàm Rạch Chanh, nơi mé Mỹ Tho nầy, nước minh mông lai láng rộng lớn quá, nên gọi rạch Ba Rài, lại cũng đạp cứt Thổ nữa, và “ba rai” là ao vũng đào tay (lac artificiel), bởi vì vàm trổ ra sông Cửu Long của Rạch Chanh nầy, ở đây minh mông hà lãng, nghe cho tân kỳ, và tân kỳ hơn nữa là ta đã biến tiếng Barai của Thổ ra tiếng Việt, hoá ra “buông Ba lai”, là một địa danh ở nơi khác của cửa Mékong nầy. Và sông Ba lai, nay đã lấp gần cạn, đi không được cũng may đời cho học trò lớp sau nầy, chớ hục trò cỡ bọn tôi, tên địa danh, mỗi khi đổi đời hay đổi vua đổi chủ, văn thay đổi theo, học hoài không nhớ nỗi cho tận cùng được, tôi nói học khó là vì vậy. Riêng về cái tên “Arroyo Commercial”, rồi dịch ra là “rạch Thương mãi”, đó là theo Tây. chớ thuở 1861, chưa có hai địa danh như vậy đối với người Việt phe vua Tự Đức.
b) Qua một đường thuỷ nữa, nối liền hai tỉnh Tân An qua Mỹ Tho, rắc rối vẫn không ít, và tôi lại đổi phương pháp và bắt đầu từ Mỹ Tho kể qua Tân An, như vậy hoạ may độc giả mới mau lĩnh hội, vì con rạch nầy có rất nhiều tên gọi. Bắt từ Mỹ Tho, rạch lấy tên là Hưng Hoà giang, vì chảy ngang hai huyện Kiến Hưng và Kiến Hoà. Đến năm 1819, vua Gia Long sai đào mở rộng thêm khúc nối Hưng Hoà giang, và ngự tứ khúc rạch nầy gọi “Bảo Định Hà” (rạch vả hà, lẫn lộn). Cũng nơi khúc nầy có giáp nước (dos d’aire), trước kia chỗ này là ruộng lầy, nhờ đào sâu biển ruộng thành rạch có nước chảy lưu thông qua lại, chỗ ruộng trước đó có đặt một vọng lâu (mirador, nôm na là một chòi canh khá cao để ờ trên ấy dòm bên ni, dòm bên kia) và cái thang ấy đặt tên là “Thang Trông” (lâu ngày chính người bổn xứ vẫn lầm lạc như ai kia và viết “Thân trong” (nghĩa đã khác nhiều) và qua rằng Thang Trông, dịch ra Hán tự là Vọng Thê (Thê là cái thang), khiến mấy ông lem nhem làm tàn, lại dịch là Vọng Thê: Nhớ vợ. Vì vậy một lần nữa, tôi xin lặp lại sanh ra làm con nhà học trò Việt nam, lắm mệt vì phải nhớ cho nhiều các tên vặt vãnh của con rạch đào tay mà quá nhiều tên như vầy. (Tôi nói thêm lúc nhỏ, tôi có ngủ một đêm nơi chỗ nầy, nhớ tên làng Phú Kiết, và một người cố lão ở đây đã dạy tôi rằng ngày xưa ông Thủ Khoa Huân thọ hình nơi nầy, ông bị Tây xử chém tại Phú Kiết nầy, và bài thơ khóc ông, chỗ khác gọi “thơ ông tuyệt mạng”, có hai câu chót: “Đương niên Tho thuỷ ba lưu huyết, Long Đảo thu phong khởi mộ sâu” (Phan Bội Châu dịch: “Tho thuỷ ngày rày pha máu đỏ. Đảo Rồng hiu hắt ngọn thu phong”, và nhiều tác giả khác dịch “Sông Tho, Cồn Rồng (Thượng Tân Thị), và còn nữa nữa, mấy địa danh nầy làm cho tôi phân vân và hiểu ông “qui thần” ở mé sông Mỹ Tho, cồn Rồng hay cù lao Rồng, vậy thật sự “ông Thủ khoa thành danh nơi nào”, xin hỏi người cố cựu còn sanh tiền, nếu hiểu ranh, xin dạy lại.
Tham nói và quá già hàm, xuýt lạc đề, trở lại Hưng Hoà giang, chảy luôn ra Vàm Cỏ Tây, khi ấy mới lấy tên là kinh Bá Bèo; - thật sự là “bàu bèo”, vì nơi vàm tích tụ rất nhiều bèo, và thêm lấy tên là rạch Vũng Gù, vì trổ ra sông Vàm Cỏ, nầy cũng có tên là Vũng Gù, do tên Thổ “Kompong ku” khi âm Vũng Gù (giọng Nam ), khi khác nữa lại âm “Vũng Ngù” cũng viết theo Tây là Run Ngu (có lẽ do người Miền Ngoài, cho nên vần “V” biến ra vần “R” làm vậy. Và phải hiểu nên bắt từ Mỹ Tho kể qua, để đến đây giải nghĩa Vũng Gù vừa dành đặt tên cho sông lớn Vàm Cỏ (sông vũng Gù) và dành đặt tên luôn khúc rạch trổ ra đây là rạch Vũng Gù, khi hiểu như vậy rồi, khi ấy sẽ đay qua thích nghĩa: rạch nầy xưa dùng chạy trạm chở thơ từ, mau hơn và gần hơn rạch Chanh (đã bắt đầu cạn), cho nên người Pháp mới đặt tên là “arroyo de la Poste”, còn thằng cha tỉnh trưởng gọi đó là Kinh Bót, thiệt là bậy bạ hết sức, không rõ y ta đã đi học tập hay là khỏi đi hoặc đã về chưa?
Của nước người ta, địa danh rất ít đổi dời, tỷ như nhắc “le Danube bleu” là biết ngay sông nầy ở đâu, còn Hoàng hà, Dương Tử giang, vừa rộng vừa dài, và tên ấy nào có đổi thay, trái lại nơi xứ ta, Sông, rạch, kinh, giang, hà lẫn lộn, đủ điên đầu, đầu thai làm học trò Việt tử đây hết ham. Tại sao: mua một thiên lá mà đếm có một trăm tờ, vay lúa một thiên mà đong có một trăm giạ? Khi khác, lầu chọc trời, Tây gọi “gratte ciel”, đời vua Trụ có “trích tinh lầu”, xin cắt nghĩa giùm cho với.
Theo tôi biết, phương pháp trồng cây theo lề đường thì theo ý kiến nhà thảo mộc học Pierre là hay hơn cả. Tóm tắt lại, đời đàng cựu quê mùa, đường nhỏ, ít xe, kẻ bộ hành cần nhiều bóng mát, cho nên ngày xưa trông cây dọc lộ nhỏ, lộ trải đá ong, vì chỉ có xe kiếng, xe song mã là cùng. Lại có ý trồng cây ăn trái xoài, me...) đến mùa hái trái, thêm hoa lợi cho công nho làng. Đến khi Pháp đến, và khi có xe ô tô, thì lộ đá đỏ hoá chật hẹp, phải nới rộng đường và đốn xoài đốn me, thay vào là trồng cây sao, cây dầu, cho lá xanh và hoa có cánh, đến mùa, rơi rụng rất nên thơ (đường hàng sao, đường hàng thị, hàng điệp, vân vân), những cây vừa cao lớn xinh tốt, cho bóng mát đường, thì Mỹ mẽo đến, xe ô tô của họ to lớn như một căn nhà, thêm xe buýt dài thậm thước, day trở kềnh càng, lại một phen nới rộng đường thành phố cũ hoá ra “xa lộ” thông cù, cây sao, cây me, rễ mọc xỉa ra lộ, bị cắt xén, chặt bớt rể, tỉa bớt nhánh, cây trở nên đứng không vững, mất thăng bằng, khi có dông to gió lớn, thường gãy nhánh hay ngã luôn tai hại cho ai rui ro đứng hay đi ngang dưới gốc... Cây me, lá đọng nước, trời dứt mưa mà đường vẫn ướt lâu, trào Pháp thuộc phân vân đang lo thay thế và chưa lựa được cây gì cho ổn thoả, vì kinh nghiệm cho biết cây ăn trái, khi ô tô đang chạy, trẻ con ra lượm trái, xe tránh không kịp, một độ vài mươi năm trước đây, trồng cây cao su (tỷ như khúc đường Hiền vương cũ, khúc gần ngã sáu, nhưng cây hévas, lâu ngày không rút mủ, mủ ứ đọng hoá ra u nầng xấu xí, trông như bị ung bướu, mụn nhọt thừa ghê tởm...
Sau ngày Giải phóng 30-4-1975, Nhà nước có sáng kiến trồng nhiều cây dầu gió (eucalyptol), cây nầy tiết ra chất dầu thơm nhẹ, lọc khí trời ô nhiễm trở nên thanh lọc nhẹ nhàng, thảm nỗi những cây trồng dưới lằn dây cao điện, khi cao lởn, lá nhánh quét đụng dây điện, rất là tai hại, rồi thì cây bị tề nhánh, hoặc có chỗ bị lột vỏ chung quanh gốc, làm cho mủ cây không lên tiếp dưỡng nhánh lá được và cây phải chết, và sau khi khuynh diệp tử ngủm, thấy trồng cây “bất cứ thứ gì cũng xong”, như bã đậu, cây dầu, cây sao, chi chi cũng mặc, hoá ra cuốn sách khảo về thảo mộc học của ông Pierre, đã mất nghĩa “herbier” của nó. Và như vậy, thành phố mất thẩm mỹ, đáng tiếc.
Từ ngày có nhiều trận dông to thổi qua thành phố, lại là một dịp cho sở trồng tỉa của đô thành, viện cớ, cho đốn và cắt xén cây trong thành phố gần như trụi lủi, gốc me đại thụ nay trơ trơ như cột nhà cháy, riêng đường Đinh Tiên Hoàng, khúc Văn khoa đại học cũ, hai hàng cây tự biết thân nên đã chết khô, sở trồng tỉa sai búa rìu đến chặt hạ và chửa vài cây bị nóc nhà chứa xe làm trở ngại chưa đốn được, lại hoá ra cánh hoang vu bơ phờ y như có một luồng gió bão thổi qua, tàn tạ.
Việc rời nhắc lại nghe chơi, tỷ như đại lộ nay mang tên ông Tôn Đức Thắng, trước đây không rõ vô tình hay có thâm ý riêng, cây hai bên lề vẫn trồng điệp ta xen kẽ với điệp Tây, qua mùa trổ hoa, bông trổ nhúm đỏ liên kề nhúm vàng, và khi có gió dậy, nhánh cây múa nhảy giao liên, ba đào sóng bổ, khiến bắt nhớ câu hát bất hủ tuồng “Tiết Cương chống búa” của cụ Đào Tấn, “lao xao sóng bổ ngọn tùng gian nan là nợ anh hùng phải vay”, đó là cảnh ngọn tùng xứ Huế khi có gió lớn, và nay để nhại thơ xưa xuất thần ấy hay là ở thành phố Miền Nam ngày nay: “lao xao sóng bổ ngọn cây trồng, gian nan đành chịu, anh hùng chớ than! Rồi cảnh ấy đã mất phần nên thơ, khi có cây nào chết, nay thay thế, hấy cây dái ngựa, cây hàm bà lằng bất chấp “mọc thế nào, cũng xong”. Cây dái ngựa, gốc to, mau lớn, lá xanh tươi tối, như sao sến, là cây nên trồng theo lề đường vậy. Mấy hàng lỗ mỗ không cần lưu tâm đến.
Thuật lại trận 1861, Tây đánh chiếm thành Mỹ Tho
Ông Phù Lang Trương Bá Phát, trong tạp san số 1 năm 196S Sử Địa, do nhờ sách Khai Trí xuất bản, dưới nhan là “Tỉnh Định Tường ngay xưa”; đã láy tài liệu trong quyển Histoire de l’Expédition de Cochinchine en 1861 của Léopold Pallt de la Barriere (Berger Levralllt, Paris, 1888) ra viết, tạp san nầy nay đã trở nên hiếm cỏ ít nhà còn tàng trữ, nơi bài nầy, tôi viết lại cách khác, theo cách cú tôi, - nhà văn với nhau, cãi và chỉ trích với nhau, có ích lợi gì, vả lại tôi đây chưa dám xưng nhà văn đâu, vậy xin biết và thông cảm cho tôi.
Chỉ đến ngày nay, tôi thấy nhiều tác giả viết về giặc Tây đánh chết Nam kỳ, ông thì tuy sanh đẻ tại chỗ mà chưa biết “Thang trông” ở Mỹ Tho là cái thang bắc lên cao để dòm bên nầy và bên kia, khi giặc Thổ còn trộm lúa khi lúa ở Tân An, khi khác lúa chín trước. Ở hướng Mỹ Tho, Thang trông mà ông lầm lạc và viết: Thân trong (tức là khúc thân phía trong sâu, tỷ dụ vậy) nhưng tôi làm sao dám nói tên ông ra, ông bỏ tù thấy cha thấy mẹ, còn một ông nữa, người Miền Trung, ăn học trong Nam, viết sử và lầm Biển Tranh ở Mỹ Tho, ông đã viết “Đồng Tranh” làm cho tôi tưởng chúa Nguyễn Ánh thư hùng với chúa Tây sơn ở tuốt Biên Hoà (Biên Hoà mới thật có Đồng Tranh), kỳ thật hai ông chúa nầy quần thảo với nhau, gần nát bét vùng Ba Giồng (Tam Phụ), khoảng Bến Tranh, ở giữa Vàm Cỏ và Sông Tiền đây thôi (vùng nầy nay còn đông con cháu Tây Sơn và quân sĩ chúa Nguyễn giải giáp lập nghiệp tại đây, nhà tối hạ phên xuống thay vì đóng cửa, và cháu chắt pha trộn nhau nhiều đời, nên kẻ theo cách mạng, người theo kháng chiến, và máu anh hùng nào phân biệt giai cấp thấp cao.
Tôi nhờ ham mê sách vở và sưu tập sách cũ, nên tôi có tìm thấy ba địa đồ cũ; ai cắt cổ, tôi không sợ bằng đến mượn hay bắt tội để đoạt của tôi ba địa đồ này:
1) một bức do ông Hoàng Xuân Lợi, nay đã mất bên Pháp, phóng y bức của G. Aubaret để lại trong sách “Histoire ét desoription de la Basse-cochinchine; là bản dịch ra Pháp văn của bộ “Gia Định thành thông chí” của Trịnh Hoài Đức địa đồ nầy nay rất hiếm, và vẫn do ba ông Nanan, Vídal và Hérald, vẽ từ năm 1883, do định dạy của thuỷ sư đô đốc Charner và Bonard trước 1862 và in vào sách năm 1863, quyển Aubaret nầy tôi mua từ lúc nhỏ, còn đi học trường trung học Pháp Chaseloup;
2) một địa đồ của quyển là Paulin Via dẫn thượng, sách mua giá 20 đồng, chứa một tài liệu liệu vô giá, địa đồ nầy do ông Charpentier hoạ từ năm 1868, quý báu vô song;
3) bức địa đồ thứ 3 nầy, vẫn nằm trong quyển đã kể của Palu de la Barrière và do ông Dutreuil de Rhins sáng tác và in lại năm 1881 cho bộ Thuỷ binh Pháp sử dụng...
Ba địa đồ nầy đối chiếu và bổ túc lấy nhau, nhờ nó mà tôi múa mép như vầy chớ chính tôi cần phải học hỏi nhiều hơn nữa, ngặt nỗi cái già đã theo bén gót, và cho đến nay, thú thật tôi biết không đầy lá mít tỷ như tôi là người nhau rún ở Sốc Trăng, mả tỉnh nầy mà tỉnh này xưa có một làng thổ tên gọi “Oi lôi”, xin ai đừng hỏi tôi Oi lô nghĩa là gì. Tôi không trả lời được...
Về Bảo Đinh hà (rạch Vũng gù) và Đăng giang (rạch Chanh), tôi hiểu như sau: (nay cải chính lại đây những gì tôi đã biết lở và viết từ trước).
1) Lật địa đồ cũ ra, vào những năm 1861, khi Tây ỷ mạnh, kéo binh qua ăn cướp nước ta để làm thuộc địa, Tây nhờ có tay trong mách đường đi nước bước, nên trận đánh chiếm Mỹ Tho, họ làm như vào chỗ không người, vả lại bên ta khí giới thô sơ, bọn họ súng mạnh bắn xa, để đợi trận Điện Biên Phủ gần đây, mới rõ tài cao hạ và đó mới là Kỳ phùng địch thủ” tay ngang mà đại thắng mấy ông những bốn ngôi sao xuất thân trường võ bị trứ danh Saint-cyr mới là sướng cho, nhắc lại về đường liên lạc giữa Sài Gòn và Mỹ Tho đời ấy, vẫn có:
1) trên bộ, nơi đất liền, vẫn có một đường lộ duy nhứt, sáu Tay o bế lại làm thành con quốc lộ quản hạt số 4 (route cloniale numéro 4) kèm thêm một thiết lộ gọi đường xe lửa Sài Gòn - Mỹ Tho, dài độ 80 ki lô mét, đường lộ nầy chạy uốn vòng như cây cung, mà con đường thuỷ Vũng Gù là sợi dây cung nối liền đầu vàm “Vàm Cỏ Tây” phía Tân An qua vàm sông Tiền (Mê kông) phía Mỹ Tho (theo địa đồ của Paul Alinot in năm 1916 để lại thì đường thuỷ “sợi dây cung nầy” đo 28 ki lô mét, nhưng có lý do nào cung cong 80 km, mà dây đo 28 km cho được, nên tôi định đường thuỷ lộ nầy mặc dầu ngay bon, nhưng vẫn dài hơn số của Alinot đã ghi. Tây họ chọn con đường Vũng Gù nầy để độ binh đi đánh Mỹ Tho - một là vì con đường lộ đất liền, thì bị bên ta phá cầu, cắt đứt sáu bảy chỗ, khó thể làm cầu tạm cho binh, ngựa, súng ống qua dễ dàng, hai nữa là đường thuỷ nầy tuy bên ta có đắp đập và cố thủ khá kiên cố, đi ngỏ nầy ắt bị phục kích và cự đương dữ dội, nhưng người Tây vẫn khinh địch, ỷ mình súng mạnh hơn và tầm bắn đi xa hơn nhiều, và có lẽ thứ ba là tay trong mách lẻo, tuy đi đường nầy, theo chiến lược là thất sách, và tuy hiểm, nhưng cũng vì con đường thuỷ số 2 là Rạch Chanh, ở ném hướng Bắc, vừa xa đường, dễ phòng thủ, nếu noi theo thì ít hiểm trở về chiến lược hơn, ngặt nỗi Rạch Chanh, vào những năm 1861 đã cạn nhiều, cỏ lác mọc lềnh khênh, ghe cạn lườn còn có thể qua được chớ tàu chiến của Tây, lườn sâu đáy nhọn, qua đó gặp nước cạn, bị mắc kẹt, phải chờ con nước lớn hoạ may mới trẩy được rủi thời binh địch nghinh chiến thì không khác kình nghê mắc lấy, chết cha cửa Tứ, theo tôi định chừng, có lẽ bọn tay sai đã mách nước cho Tây rồi, cho nên Tây chọn đi theo rạch Vũng Gù như đã nói.
Ngày nay bình tĩnh lấy địa đồ ra xem mà đoán việc ngày xưa, thảm nỗi dầu muốn đến tại chỗ mục kích cho vững chắc, cũng không thể được, vì đi lớ quớ người địa phương bắt tội tìm “đường trốn ra nước ngoài”, thì khác nào thằng câm ăn ớt, miệng nào cắt nghĩa cho xuôi, còn sách vở để lại, ôi thôi, nó rối như tơ vò, không biết đường đâu mà gỡ. Sách Việt sách cổ của ta, thì tôi chưa từng gặp, lại nữa dẫu may gặp được cũng vô phương đọc và khai thác, vì tôi là thằng dốt, cha mẹ tôi xưa không cho tôi học chữ hán, chữ nôm vì cho rằng đó là chữ của người “nước mất”, học để làm gì, thêm một tệ đoan khác là sách ta rất mơ hồ, nội mấy sách phiên âm để lại đủ điên đầu vì dịch sai bét, hại nhiều hơn giúp ích. Nội tài liệu về dịa danh trong Nam đã làm cho tôi sớm bạc đầu, không kể nội hai con rạch cũ ở Tân An, Mỹ Tho nầy đủ thấy rắc rối nhứt; không nước nào học khó hơn nước Việt ta. Cái cam go của người hiếu học là thiếu sách hay dẫn đắt. Sách Pháp nói về địa danh ở Nam kỳ, tôi cho cuốn Abrégé de l’Histoire d’Annam (Đại lược sử An nam) của Alfred Schreiner, tự tác giả xuất bản ở Sài Gòn năm 1906, tôi cho cuốn nầy là sơ sài nhứt, khen cho tác giả khéo lựa nhan đề. Sách gì nói về Nam kỳ mà không có vẽ một địa đồ nào, tuy tác giả, nghề chánh là trắc địa sư (gọi ông hoạ đồ) (ingénieur géomètre), còn tài liệu về sử ký thì mơ hồ, nếu không gọi là không đúng chánh sử. Tôi xin trích ra đây đoạn nầy rút trong tập Sử Địa số 1 năm 1966 đã nói nơi trước và đây là lời của ông Trương Bá Phát: “Ngả thứ ba cũng vào sông Vũng Gù qua khỏi hợp lưu Bảo Định Hà và Vũng Gù đến ngả ba sông nầy và kinh Thương Mãi (không biết hồi 1861 gọi là kinh gì nhưng từng chặng tôi thấy sách Abrégé de l’histoire d’Annam tác giả Schreiner, trang 184, gọi là Rạch Chanh, kinh Bà Bèo, Rạch Cua và Rạch Bà Rài, tới đây lại lòng sông cạn vì bùn lầy, cỏ lác, chỉ có ghe nhỏ lưu thông được mà thôi). Vị trí chỗ hợp lưu kinh nầy và sông Cửa Tiểu là ở trên thượng lưu Mỹ Tho (tập san Sử Địa số 1 năm 1966 do nhà sách Khai Trí xuất bản, trang 76)”.
Nhưng chi tiết của Schreiner trên đây đều đúng, ngặt không rành, và ông Trương Bá Phát quả dè dặt trong lúc dùng, khi ông kể một dọc nhưng tên Rạch Chanh (Schreiner viết Rạch Chánh), kinh Bà Bèo, Rạch Cua vả Rạch Bà Rài, ông kể ra như vậy có ý tránh trách nhiệm và tôi cho cả hai đều lúng túng.
Bỏ qua việc ấy, để nói về cuốn sách của Schreiner nghe chơi cho vui vấn đề. Cuốn nầy, cỡ format 24x16, dày 588 trang, tôi giựt giải thưởng năm 2è année trường Chasseloup với câu Pháp văn của thầy đề tặng: “Souvenir à l’elève Vương Hồng Sển en ré compense de son application au cours dannamite que je professe au collège Chasseloup Laubat”. Sài gòn le 22 février 1921. Signé: Nguyễn Văn Mai.
Ấy tôi được cuốn sách thầy thưởng, tâng tiu như con đẻ bọc điều ngờ đâu cách vài tuần nhứt sau, tôi gặp sách nơi dãy lạc son ngang nhà ga xe lửa Mỹ Tho, các chú bày bán ê hề, trên vài trăm cuốn mỗi cuốn giá 0$50. Hoá ra, không phải phụ ơn thầy dạy dỗ, nhưng quả thầy thưởng cho con năm hào chỉ. Nói vậy, chớ giá thứ tôi lúc ấy sẵn tiền và đã biết chơi sách như nay, tôi mua lên và thử nay đem ra giữa chợ trời sách, đường Cá Hấp, hô bán 1.000 đồng, ắt giây lát sách không còn một cuốn, tôi sẽ có tiền nặng túi, vì người chơi sách vẫn còn, và sách cũ, dầu hay dầu dỡ, vẫn còn người mua sắm.
Đó là nói sa đà về thú chơi sách cho đỡ cồn cồn trong trí, nay tít lại sách Pháp cũ và tài liệu về địa danh trong Nam, tôi thấy quả phải có duyên may mới gặp sách hay, và muốn có tài liệu đích xác người mình chưa thế nào rời sách của Tây viết ngày xưa được. Đừng nói chi xa, có sẵn tài liệu trong tay mà vẫn phải năm chầy tháng lụn mới hiểu thâm và biết được chút ít những gì trong ấy, chứ đừng tưởng trong chốc lát, đến thư viện xem sách rồi viết được một bài súc tích hay ho. Người nào làm được việc ấy, thì quả là một bực thiên tài, chớ như tôi rị mọ đã già đời mới học được đôi tài liệu nầy, xin trình bày hôm nay nhờ bực cao tài chỉ giáo:
1) Tôi phải trình bày lại như vầy có lẽ dễ hiểu hơn chăng:
- Nhắc lại khoảng 1861, kể về đường thuỷ dẫn từ Tân An xuống Mỹ Tho, gồm có hai rạch đã nói nơi trước và nay xin giải thích rộng như vầy:
Trước khi Tây qua đây, thì ngày xưa chỉ gọi tên như sau:
a) Một con rạch gọi Rạch Chanh, như đã nói nơi trước, chữ gọi Đăng Giang, rạch nầy đã được ghi vào sách sử vì chúa Nguyễn Ánh đã từng lội ngang đầu vàm rạch nầy để tránh tay địch thủ lợi hại là Tây Sơn, truy nã ông cấp bách. Sử không chỉ rành chõ nào, định chừng lối những năm nguy nan nhứt, của chúa Nguyễn, con trai cả đã gởi qua Pháp theo chơi Bá Đa Lộc để xin cầu viện, thân vua bấp bênh chạy không kể chết, vàng lượng chặt đôi chia cho bà hậu, đủ thấy sức nghèo, đó là lối một mất một còn với Tây Sơn thì năm 1774 chạy vào Nam đến năm 1789 là năm thắng được Tây Sơn, năm 1982 tôi có dịp quan sát khúc đầu vàm rạch Chanh, tôi định chừng và đã viết, hoặc chúa Nguyễn lội ngang sông Vàm Cỏ cũng gọi sông Vũng Gù, thì sông nầy rộng lớn quá, ắt phải nhờ cỡi trâu quen đường (mà trong sử thi vị hoá hay thần vị hoá đổi ra cỡi lưng cá sấu), hoặc nữa lội ngang vàm rạch Vũng Gù, thì sức người trai tơ lội qua được vàm nầy cũng đủ hãnh diện tài cao, khỏi nhờ lưng trâu, lưng sấu. Khúc sông và con rạch đều mang một tên Vũng Gù là lấy tẽn của Miên “kompong ku”, còn rạch Chanh là lấy tên khác cũng của Miên: prek krauch (krauch là trái chanh), Ngô Tất Tố viết “rạch Chênh” (chênh chênh bóng nguyệt) là sai rất xa, con rạch nầy, phải cắt nghĩa và dẫn người đọc từ mé Tân An dẫn qua thì mới dễ hiểu, vì đầu Vàm là rạch Chanh, vì có bèo nhiều nên eo khúc lại gọi “kinh Bà Bèo” (kinh, rạch lẫn lộn), đi tới nữa lại gọi “Rạch Cua”, tôi chưa gặp điển tích nào, nhưng cho phép tôi định chừng đó là lối giáp nước, cạn, cỏ lác mọc nhiều, cố nhiên có cua sanh đẻ nơi đây nhiều, nên lấy đó đặt tên chăng, rồi tới chỗ rạch trổ ra sông Tiền (trước khi có đi ngang Cai Lậy), đầu vàm Rạch Chanh, nơi mé Mỹ Tho nầy, nước minh mông lai láng rộng lớn quá, nên gọi rạch Ba Rài, lại cũng đạp cứt Thổ nữa, và “ba rai” là ao vũng đào tay (lac artificiel), bởi vì vàm trổ ra sông Cửu Long của Rạch Chanh nầy, ở đây minh mông hà lãng, nghe cho tân kỳ, và tân kỳ hơn nữa là ta đã biến tiếng Barai của Thổ ra tiếng Việt, hoá ra “buông Ba lai”, là một địa danh ở nơi khác của cửa Mékong nầy. Và sông Ba lai, nay đã lấp gần cạn, đi không được cũng may đời cho học trò lớp sau nầy, chớ hục trò cỡ bọn tôi, tên địa danh, mỗi khi đổi đời hay đổi vua đổi chủ, văn thay đổi theo, học hoài không nhớ nỗi cho tận cùng được, tôi nói học khó là vì vậy. Riêng về cái tên “Arroyo Commercial”, rồi dịch ra là “rạch Thương mãi”, đó là theo Tây. chớ thuở 1861, chưa có hai địa danh như vậy đối với người Việt phe vua Tự Đức.
b) Qua một đường thuỷ nữa, nối liền hai tỉnh Tân An qua Mỹ Tho, rắc rối vẫn không ít, và tôi lại đổi phương pháp và bắt đầu từ Mỹ Tho kể qua Tân An, như vậy hoạ may độc giả mới mau lĩnh hội, vì con rạch nầy có rất nhiều tên gọi. Bắt từ Mỹ Tho, rạch lấy tên là Hưng Hoà giang, vì chảy ngang hai huyện Kiến Hưng và Kiến Hoà. Đến năm 1819, vua Gia Long sai đào mở rộng thêm khúc nối Hưng Hoà giang, và ngự tứ khúc rạch nầy gọi “Bảo Định Hà” (rạch vả hà, lẫn lộn). Cũng nơi khúc nầy có giáp nước (dos d’aire), trước kia chỗ này là ruộng lầy, nhờ đào sâu biển ruộng thành rạch có nước chảy lưu thông qua lại, chỗ ruộng trước đó có đặt một vọng lâu (mirador, nôm na là một chòi canh khá cao để ờ trên ấy dòm bên ni, dòm bên kia) và cái thang ấy đặt tên là “Thang Trông” (lâu ngày chính người bổn xứ vẫn lầm lạc như ai kia và viết “Thân trong” (nghĩa đã khác nhiều) và qua rằng Thang Trông, dịch ra Hán tự là Vọng Thê (Thê là cái thang), khiến mấy ông lem nhem làm tàn, lại dịch là Vọng Thê: Nhớ vợ. Vì vậy một lần nữa, tôi xin lặp lại sanh ra làm con nhà học trò Việt nam, lắm mệt vì phải nhớ cho nhiều các tên vặt vãnh của con rạch đào tay mà quá nhiều tên như vầy. (Tôi nói thêm lúc nhỏ, tôi có ngủ một đêm nơi chỗ nầy, nhớ tên làng Phú Kiết, và một người cố lão ở đây đã dạy tôi rằng ngày xưa ông Thủ Khoa Huân thọ hình nơi nầy, ông bị Tây xử chém tại Phú Kiết nầy, và bài thơ khóc ông, chỗ khác gọi “thơ ông tuyệt mạng”, có hai câu chót: “Đương niên Tho thuỷ ba lưu huyết, Long Đảo thu phong khởi mộ sâu” (Phan Bội Châu dịch: “Tho thuỷ ngày rày pha máu đỏ. Đảo Rồng hiu hắt ngọn thu phong”, và nhiều tác giả khác dịch “Sông Tho, Cồn Rồng (Thượng Tân Thị), và còn nữa nữa, mấy địa danh nầy làm cho tôi phân vân và hiểu ông “qui thần” ở mé sông Mỹ Tho, cồn Rồng hay cù lao Rồng, vậy thật sự “ông Thủ khoa thành danh nơi nào”, xin hỏi người cố cựu còn sanh tiền, nếu hiểu ranh, xin dạy lại.
Tham nói và quá già hàm, xuýt lạc đề, trở lại Hưng Hoà giang, chảy luôn ra Vàm Cỏ Tây, khi ấy mới lấy tên là kinh Bá Bèo; - thật sự là “bàu bèo”, vì nơi vàm tích tụ rất nhiều bèo, và thêm lấy tên là rạch Vũng Gù, vì trổ ra sông Vàm Cỏ, nầy cũng có tên là Vũng Gù, do tên Thổ “Kompong ku” khi âm Vũng Gù (giọng Nam ), khi khác nữa lại âm “Vũng Ngù” cũng viết theo Tây là Run Ngu (có lẽ do người Miền Ngoài, cho nên vần “V” biến ra vần “R” làm vậy. Và phải hiểu nên bắt từ Mỹ Tho kể qua, để đến đây giải nghĩa Vũng Gù vừa dành đặt tên cho sông lớn Vàm Cỏ (sông vũng Gù) và dành đặt tên luôn khúc rạch trổ ra đây là rạch Vũng Gù, khi hiểu như vậy rồi, khi ấy sẽ đay qua thích nghĩa: rạch nầy xưa dùng chạy trạm chở thơ từ, mau hơn và gần hơn rạch Chanh (đã bắt đầu cạn), cho nên người Pháp mới đặt tên là “arroyo de la Poste”, còn thằng cha tỉnh trưởng gọi đó là Kinh Bót, thiệt là bậy bạ hết sức, không rõ y ta đã đi học tập hay là khỏi đi hoặc đã về chưa?
Của nước người ta, địa danh rất ít đổi dời, tỷ như nhắc “le Danube bleu” là biết ngay sông nầy ở đâu, còn Hoàng hà, Dương Tử giang, vừa rộng vừa dài, và tên ấy nào có đổi thay, trái lại nơi xứ ta, Sông, rạch, kinh, giang, hà lẫn lộn, đủ điên đầu, đầu thai làm học trò Việt tử đây hết ham. Tại sao: mua một thiên lá mà đếm có một trăm tờ, vay lúa một thiên mà đong có một trăm giạ? Khi khác, lầu chọc trời, Tây gọi “gratte ciel”, đời vua Trụ có “trích tinh lầu”, xin cắt nghĩa giùm cho với.
8. Những năm đầu của Sài gòn thời Pháp thuộc
(Les premières années de Saigon theo Jean Bouchot)
a) Tác giả, năm 1983, tự nhận lỗi và tự phê bình:
Hôm nay là 22 tháng chín dương lịch 1983, là ngày 16 tháng tám âm lịch Quý Hợi, sau một đêm mất ngủ, tưởng đã đi đời vì ăn bánh Trung thu rồi trúng thực, may sao qua khỏi, lật đật viết mấy trang nầy, tự nhũ và phê bình, viết ngay trên máy, không cần giấy nháp tự sự như sau:
Chiều ngày 14 (trung thu tiền nhất nhựt), bỗng có người đem lại nhà cho mượn tập Pháp văn “La naissance et les Premières Années de Saigon, ville francaise”. Ban đâu tôi từ chối không muốn đọc, vì xét đã quá già, cận địa, còn đọc làm gl văn ngoại quốc. Nhưng nghĩ sao, rồi lại xin giữ cuốn kỷ yếu nầy, giữ và đọc kỹ, và có mấy cảm tưởng ngổn ngang, nay viết ra đây, độc giả mặc tình lượng xét:
Gẫm lại mình thật là sơ sót và thiển cận. Tính coi, bộ tam cá nguyệt san “Trung Quốc cổ học hội” (Bulletin de la Société deb Etudes Indochinoises), mình đã mãi từ ngày giải phóng 30-4-1975, cho rảnh nợ, duyên chi vương vấn nay có người mang tới nhà cho mượn đọc tập nhỏ nầy, là tập số 11, số 2 của tam cá nguyệt tháng 4 đến tháng 6 năm 1927, cũ xì.
Cái tánh khinh thương, già mà chưa bỏ, thật là đáng toi. La Naissance et les Premières Années de Saigon, ville francaise, dịch là “Sự xuất sinh và những năm đầu của thành phố Sài Gòn...”, mi đã đọc chưa? Hỡi ngươi là tác giả của “Sài gòn năm xưa?
Tự hỏi mà trả lời ngay “chưa”, lòng thấy xấu, thẹn vô cùng. Suốt đêm 14, trời mưa nặng hột và đêm nằm, ông cao xanh buồn tình nỗi gì mà giấu mất trăng dưới những giọt tuôn là chã sao hại trẻ con mất dịp hát bài “Trăng tháng tám”, riêng tác giả Sài gòn năm xưa ăn cái bánh, nay hình vuông chớ không tròn vin như mặt trăng nữa nghĩ cũng buồn cười, tại thằng thợ muốn dễ lấy ra khuôn, hay tại đã đổi đời, thôi thì mặc kệ, cũng không hơi đâu lo và hãy để trí đọc muộn cuốn nầy, rút tỉa một bài học đích đáng: Sài gòn năm xưa là cuốn sách chạy gạo. Không đè sách in hai lần, kể sách khảo cứu mà được như vậy là khá đến, không ngờ nay tụi bỏ chạy lại lấy chụp và phóng ảnh in y nguyên, bán lấy tiền mà quên tác giả, thiệt là đờ tệ. Việc đâu còn đó, chỉ biết bởi có chút nhan sắc nên bị “hãm”, còn than nỗi gì!
Như đã nói, Sài gòn năm xưa là sách viết để chạy gạo, để kiếm cơm, vì năm xưa ấy, vô làm công nhựt trong viện bảo tàng sở thú, lương ít quá, không đủ nuôi vợ con, nên buộc phải viết, chớ dám thề độc, không lòng lên mặt khảo cứu chút nào. Bây giờ, biết lại, hối quá, nhưng đã trễ rồi. Từ ngày có bậc đàn anh vô đây giải phóng, bảo Sài gòn năm xưa viết không khoa học, không trật tự, và thường hay lập đi lập lại nhiều lần, nhiều đến không biết bao nhiêu mà đếm”. (Biểu viết lại nhưng biết sống bao lâu mà làm?)
Nay xin thưa ra đây, bổn tánh thuở nay là vậy, nhứt định không gò gẫm, không “hành văn” và chỉ chuyên viết theo lối “nói miệng tày”: Nói thì phải nói đi nói lại, có vậy hoạ may lời nói sẽ in sâu vào tai người nghe và lập lại là sự thường, khó tránh và cũng “cố tình không muốn tránh”. Nay giờ đã gần hết, xin trối lại mấy ý nghĩ nầy để cho mai sau có người nào muốn viết lại, thi nên tìm những tài liệu sau đây, ghi trong sách dẫn thượng, mà tác giả là Jean Bouchot trước kia đã từng quyền quản thủ viện bảo tàng nơi vườn bách thảo, lúc có chiến tranh và có binh đội Phù Tang chiếm đóng ở đây, - riêng tôi, không còn thì giờ viết lại, và quả khi xưa viết là nằm dưới đáy giếng mà dám tả cảnh mông lung trên trời!
Những ai tốt phước được ngụ bên Paris, nên tìm đọc những sách nầy, nơi “văn khố quốc gia” (Bibliothèque Nationale), cất ở bên nầy, thì không chắc gì còn gặp, và dẫu biết nơi tàng trữ, cũng không chắc gì được xem, và đều là sách nên đọc:
Báo Illustration, xuất bản từ 4-3-1843, có hình Tự Đức (nhưng râu rìa, tôi e không đúng chân dung vị vua nầy), hình phái đoàn bộ ba đi sứ dưới trào vua Napoléon III (Phan Thanh Giản, Nguỵ Khắc Đản, Phạm Phú Thứ, hình vua Norodom và hình một phái đoàn xứ Xiêm La quốc, lạy móp sát đất đến vua Pháp nhức mắt ra lịnh đứng dậy cũng không dám tuân lịnh, vì luật lệ Xiêm đứng dậy trước mặt vua là có ý không tốt, tội đáng chém đầu;
Báo Revue des Deux Mondes, xuất bản từ 1861, có nhiều tài liệu quý và xưa;
Sách Les premières années de la Cochinchine của Paulin Vial (Chauamel in) 1874, 2 quyển.
- Histoire de l’Expédition de Cochinchine en 1861 của Léopold Pallu de la Barrière, theo Bouchot có đến hai bản khác nhau: (Bản in năm 1864, chỉ toà bố Chợ Lớn có tàng trữ 1 quyển, nhưng nay ắt không còn, bản nầy mặc dầu “không khoa học”, nhưng đó là “bản tiên khởi”, tài liệu đầy đủ và chân thật; bản in lại năm 1888, tuy sắp đặt lại có trật tự, nhưng vì chêm thêm xen lộn quá nhiều chi tiết thêm thắt, nên có thể nói “màu hồ đã mất đi rồi” không khác một gái quê sửa dọn quá hớp, cạo lông mày, bịt thêm răng vàng, mất “tân”; (bản 1888 do Bergerlavrault et Cie xuất bản);
- Cochinchine francaise et rơyaume du Cambodge, của Charles Lemire viết, nhà Challamel xuất bản, lần đầu năm 1869 và cũng như sách của Pallu, sách năm 1869 nầy lấy sửa và in lại nhiều lần, đến lần thứ sáu, năm 1887, thì xen lộn chi tiết không đúng thời gian tính, theo tôi là “gái đã mất tân”, có bịnh là khác. Charles Lemire không đúng là nhà chuyên khảo, qua đây chạy gạo và xin vô đóng một vai tuồng trong sở Bưu cuộc, nhưng nhờ duyên dáng nên sách in sáu lần. Trong mấy bản sau, có nhiều đoạn không in lại vì Pháp che đậy những gì xấu.
- Onze moi de souspréfecture en Basse-Cochinchine, của L. de Grammont, xuất bản năm 1862, tôi không có cuốn nầy và tiếc hủi hụi, vì theo J. Bouchot, de Grammont có tài kể chuyện, sau đó tác giả de Grummont thâu gọn lại làm một bài phúc trình đọc tại Hội khảo cứu sử địa ở Paris là hội Société de géographie, bài nói năm 1864 (có in thành sách do nhà Challamel in năm 1864), bài nầy khảo xét nhiều về người bản xứ, tục ăn trầu, vân vân, và sẵn tánh tọc mạch, tôi muốn đọc để cho biết người Pháp thời đó, nói về chúng ta những gì;
- Apercu sur la Basse-cochinchine của H. Abel Rieunier (in năm 1861);
- La question de Cochinchine au point de vua des intérêts francais, của Abel Rieunier, Paris, Challamel 1864; (sách binh vực chủ nghĩa không trả đất cho ta);
- Souvenirs de campngne et de voyage en Indochine của Colonel Henri de Ponchalon (theo Bouchot, ở đây chỉ có nơi trường nhà dòng Mỹ Tho có tàng trữ một quyển, nhưng sao dời vật đổi, nay biết còn chăng);
- Les commencements de l’Indochine francaise par Albert Septanh, Challamel 1867.
- Les expéditions de Chine et d’Cochinchine, d’après les documents olcrlciels của de Bazancourt, phần thứ 1 (1857-1858), Amyot, Paris 1861; phần thứ 2 (in năm 1862). Sách làm sưu tập phẩm để chơi, hơn là sách để đầu nằm
Đó là đại khái những sách theo tôi là đáng đọc. Ngoài ra độc giả muốn tường tận vấn đề, phải theo những sách kể trong cuốn của Bouchot là tôi lượt bớt không ghi lại đây, Bouchot nầy vẫn chê cuốn Abrégé de l’Histoire d’Annam của Alfred Chreiner, mà Bouchot chê là thiên vị; (năm xưa tôi được ông Nguyễn Văn Mai, thầy dạy Việt văn ở trường Chasseloup, biếu tôi một cuốn với câu đề tặng “Souvenir à 1 élève Vương Hồng Sển, en récompense de son application au cour que Je professe au collège Chasseloup- Laubat, Sài gòn le 22-2-1921. ký N.V.M.) tôi quý hơn vàng, sau đó ra xóm bán sách lạc son ngang nhà ga xe lửa Mỹ Tho, tôi chưng hửng vì sách bán có năm hào mỗi cuốn sách mới toanh, mà không ai thèm ngó.
Nhưng sơ sót hay cố ý, Bouchot không kể cuốn La Cochinchine Contemporaine của A. Bouinais et A. Paulus (Challamel, Paris, 1884), và rõ là kỳ thị, và mặc dầu gọi tặng là “l’histoirien annamite” Bouchot đã quên mất quyển chải chuốt rặt giọng Việt Nam của văn hào, học giả miền Nam là Trương Vĩnh Ký, “Cours d’Histoire Annamite, er volume”, in tại Sài gòn năm 1875, nhà in chánh phủ, gọi Imprimerie du Gouvernement, và quyển 2, in lần đầu năm 1879, cũng tại nhà in du Gouvernement nầy, nghiên cứu cho tôi biết, trước kia toạ lạc nơi nay là Sở Đại chánh khám đạt (Cadastre), tồn tại được ba chục năm từ Pháp qua đây, và khi chánh phủ Pháp thôi dùng nữa, đã sang lại cho phụ thân tướng Nguyễn Văn Xuân là ông Nguyễn Văn Của, lối năm 18... hoặc đầu năm 19..., với giá tượng trưng là 1$ (một đồng bạc thuở đó). Trên đây, với tánh già lẩm cẩm, tôi đã dài dòng văn tự, đón ngõ ngăn rào, để nhìn nhận cái tội năm xưa quá lêu lỏng, không biết chữ “nhứt” mà dám bàn và phê bình chữ “thập” chữ “mười mươi”, tuy vậy trót đã lỡ cho ra đời quyển Sài gòn năm xưa và sách đã được công nhận đến nỗi các cha bỏ chạy đã in và bán trên đầu trên cổ, từ Mỹ qua Tây, thôi thì, nay còn chút giờ sống sót và được đọc quyển của J. Bouchot đã nói nãy giờ, thôi thì, tôi lặp lại, độc giả hãy cho tôi viết thêm một đoạn dài nầy, gọi bổ túc, ai kia đọc được Pháp văn, thì xin hãy tìm quyển Pháp văn dẫn thượng, đầy đủ hơn. Đoạn viết thêm ấy như vầy:
- Kể từ đây là tôi theo cuốn La Naissance ét les Premières années de Saigon của Jean Bouchot, để lựa nhón và phê bình theo ý tôi, riêng cho đồng bào không đọc được nguyên văn bản chữ Pháp:
Trang17 - Vào năm 1859, theo sách của Philastre, ông Bouchot chép lại rằng: “Vào thời ấy, Sài Gòn vẫn có hai đường cái, chạy dài theo sông Sài Gòn và kinh arroyo chinois, hai đường nầy vẫn có nhà lợp ngói hai bên, tức phố xá buôn bán, và đó là nơi gọi Bến Nghé và Chợ Sỏi. Phố và nhà nầy day đít ra bờ sông, vả có cất thêm nhà cao cẳng chờm ra mé nước (bài ký Philastre, đăng trong báo Courrier de Saigon (Sài Gòn tân văn) đề ngày 201-1868). Để nhấn mạnh tài liệu viết trên đây là đúng, Bouchot trích dẫn đoạn văn dưới đây, của ông Trương Vĩnh Ký viết, ông học giả họ Trương nầy, bất đắc dĩ, tác giả Bouchot phải mượn lời nói để bảo đảm lời nói của Philastre và của chính mình, chớ bề trong, vẫn kỳ thị không phải người Lang Sa, tuy viết được văn Lang sa không thua gì họ; “Theo Pétrus Ký, thì Bến Nghé là cái vùng gồm một phần của vùng gọi “thành thị nơi buôn bán cũ” của người An Nam, rải rác có nhà ở và phố buôn, bọc theo những con đường nhỏ, ít năng được tu bổ của bốn thôn: Hoà Mỹ. Tân Khai, Long Điền và Trung Hoà, ranh giới đụng sát đường Mac-mahon, còn phần trên của thành thị nói đây vẫn thuộc làng Mỹ Hội, tức vùng có xây thành Sài Gòn gọi “Citadelle de Saigon” (theo sách của Trương Vĩnh Ký).
Đến đây, Bouchot viết thêm rằng: “Chợ Sỏi chạy dài từ cột cờ Thủ Ngữ đến dường Mac-mahon) (tức nhại lời Trương Vĩnh Ký), còn “Chợ hàng đinh” (village des clous), vẫn gồm khu từ đường Catinat qua Tây bắc đường La Grandière”.
Xóm Vườn Mít, thì ở chỗ Toà Pháp đình ngày nay.
Chợ Da Còm, ở ngay vị trí Khám Lớn cũ, sau phá đi, xây Thư viện Quốc gia.
Xóm Đệm Buồm thuộc về khu đường Tong Keou, sau đổi gọi đường Lê Văn Duyệt.
Đường Tập trận (plaine des Tombeaux), thuộc khu Tây nam đường Tong Keou nầy.
Cái thôn gọi Phú Hoà ở ngay chỗ Nghĩa trang Đô thành, trước gọi Đất Thánh Tây. Hai thôn Hiệp Hoà và An Hoà, ở khoảng giữa hai cầu 2 và 3 trên rạch Bà Nghè và thuộc mé hữu của con rạch này.
Thành trì gọi của Olivier de Puymanel, phóng kiểu, tức thành xây năm 1837 luôn và bở và hào thành, vào năm 1859, vẫn cỏ và bèo mọc loạn xị, thường là đất trống bỏ hoang. Những đường năm 1859 do chánh phủ An Nam để lại và được trào Tây mở ra rộng lớn sau nầy là những đường có tên gọi theo Pháp lả Catinat, Paul Blanchy, d Espagne, đường Chasseloup-Laubat và đường Luro, lối 1859, gọi đại lộ thành trì (boulevard de la Citadelle), chạy bọc theo hào thành xây năm 1837.
Trang 35. Lính I-pha-nho, theo đóm ăn tàn, kéo theo lính Tây đánh ké, gọi làm vậy, chớ gồm phần đông là lính nay gọi Phi Luật Tân xưa kia gọi quân Ma Nì (Mallille), thủ đô Phi Luật Tân, bọn linh nầy, đến ngày 31-3-1863 thì rút về xứ họ.
Trang 38. Cái sườn nhả gỗ trong Sài gòn năm xưa của tôi có in hình, tức nlà đầu tiên bằng gỗ do thuỷ sư đề đốc Bonard ở, là do ông Bollard nầy mua tại Singapore chở về Sài Gòn và dựng lên nơi khu đất nay là trường Nhà dòng Taberd, cho đến năm 1873 mới xây dựng thiệt thọ dinh sau gọi Dinh Toàn Quyền, sau phá đi và xây dinh gọi Dinh Độc Lập trước đây, và để cho mau hiểu, thường gọi palais Norodom. Năm 1867, dinh bằng gỗ nầy (nhắc lại vị trí là chỗ trường Taberd), vẫn có dựng thêm một toà nhà bằng gỗ, sức chứa được sáu trăm tân khách, và năm 1867, đề đốc La Grandière, có tổ chức một cuộc tiếp tân có khiêu vũ gọi bal La Grandière, mời hết nhơn vật tai mắt đương thời Tây – Nam – Chà - Chệc (Phan Thanh Giản, Tôn Thọ Tường v.v...) và sau này vào năm 1927, thống đốc Nam Kỳ Blanchad de la Brosse có tổ chức tái diễn buổi tiếp tân long trọng sáu chục năm xưa, và người được mời, toàn là tai to mặt lớn thời ấy, phải chạy mượn hoặc may sắm, cho ra lễ phục, đại phục, tỷ như: kinh lược Phan Thanh Giản (Tổng đốc hàm Phạm Văn Tươi ở Vĩnh Long thủ vai nầy), tổng đốc Phạm Phú Thứ (đốc phủ Tụ, Cái Bè); Án sát Nguỵ Khắc Đản (đốc phú Nhựt, Cai Lậy); Trương Vĩnh Ký (do con là Trương Vĩnh Tống đóng vai); rồi nào lãnh binh Tấn, Tôn Thọ Tường, vân vân, đều do những người có tên như sau: Nguyễn Văn Mai, Nguyễn Hiền Năng, đốc phú Hải, Gò Công, Nguyễn Văn Lân (cò mi Lân), Trần Văn Kính (thông ngôn toà đại hình), Nguyễn Bá Hội (Thủ Thiêm), Lê Quang Ngôn (toà án), Thái Minh Phát (phủ dinh thống đốc), Thái Minh Kim (sinh viên), Phan Chấn Thế (toà đại hình), Trần Tư Ca (con là Trần Tứ Khuê, đóng vai), Trần Tứ Hoàng, Trần Văn Khá... Tôi đọc lượt bớt không kế ra đây người Pháp, và xin kể giới Cao Miên có quận chúa Pok Hell đóng vai Pra-keo Pha, giới Hoa kiều, vai Bang Tai (Hoàng Thái) do Tây Méchin đóng, Li-tak, do Alinot, hoạ đồ, đóng; vai Seng-tek do Lévy đóng;... Tan-kang-sinh, do Bille đóng... (thuật nhón theo B.S.E.I năm 1927, janv/mars, trang 53).
Gẫm lại các ông các bà năm xưa, chưng diện cho xuê, ăn chơi cho sướng, phè phỡn nhảy đầm và nịnh hót cho đã đời, không làm gì nên thân, ngày nay con cháu ông bà trả nợ đã đành, mà chúng tôi vô cớ cũng phải gánh chịu, tức thì kẻ hèn nầy phải xì hơi cho bớt tức, chớ các cha “ỉa cho chúng tôi hốt”, khổ quá mà. Nhắc lại cái nhà hay dinh gỗ nầy, sau bị mối mọt xơi nát, và cái phòng tiếp tân đãi khách, cũng bằng cây ấy, (salle des fetes), trước kia vị trí day mặt ra đường Catinat, hồi đó gọi “công trường đồng hồ” (place de l’Horloge), kế bên có chuồng ngựa (lúc nầy chưa có ô tô) vẫn ở chỗ phòng ăn của các thầy dòng Frères nơi trường Taberd đó). Trên đây tôi quên nói: năm 1927, thống đốc Blanchard de la Brosse cho mượn dinh sau gọi dinh Gia Long nơi đường La Grandière thiết dạ yến (bal) nên long trọng lắm.
Trang 39. Gọi là place de l’Horloge, nhưng cái đồng hồ đặt nơi đó không dùng chỉ định giờ chính thức, và từ 30-7-1862, giờ đúng và chính thức vẫn do Sở thuỷ binh nơi mé sông Sài Gòn chánh thức báo tin bằng một tiếng súng đồng bắn nơi bờ sông, khi đúng ngọ.
Trang 41. Sở Bưu Cuộc (Postes) thời đó đặt thuộc Bộ Tài chánh, còn Sở Dây thép (Télégraphes) vẫn thuộc Bộ Nội vụ, vì vậy, buổi ấy Sở Ngân khố và Sở Bưu cuộc luôn Bưu điện, vẫn dựng nơi Công trường Đồng hồ nay vị trí là nơi gọi Sở Hiến binh (Gendarmene), khít và sau lưng Thư viện 34 La Grandière. Như đã nói rồi, nhà in của chánh phủ Tây thời đó, vị trí nơi Sở Địa chánh (Cadastre), mang tên tuỳ lúc, khi là Imprimerie Impériale (thời Napoléon 3), kế ba chục năm sau bán cho ông Huyện Của, (ông nầy già đời ưng làm huyện hàm, tuy hàm tri huyện, nhưng đào tạo nhiều thế hệ đốc phủ hàm và huyện, phủ thiệt thọ, và ông là thân phụ của tướng Pháp tịch Nguyễn Văn Xuân).
Trang 43. Đọc trương 43 nầy và nói chuyện “ăn trầu gẫm bã” nghe chơi, thật vận mạng nước nhà của ta sao thời trước, quả là “bạc mạng”. Nếu sử viết được bằng “chớ chi...” và “nếu mà...”, thì đâu có như vầy. Bàn rộng ra, quả hoàng đế Pháp, Napoléon 3, lúc đó phân vân lắm, nếu ta có người theo dõi và khéo vận động, thì có lẽ việc chuộc đất của phái đoàn ông Phan Thanh Giản có phần hy vọng thành công tràn trề, và nếu không có lão Chasseloup-Laubat, lúc đó làm bộ trưởng coi Bộ Thuỷ binh, làm kỳ đà, cùng với nhiều người từng qua đây, khăng khăng không ưng cho chuộc đất bồi thường, thì có lẽ đế Napoléon 3 đã hạ bút châu trả đất Nam Kỳ lại rồi, bằng không nữa, nếu triều vua Tự Đức có người tín cẩn khôn khéo, biết thừa dịp Pháp bại trận năm 1870-1871, biết chống cự dữ dội trì chí thì có lẽ giành lãnh thổ miền Nam khi Tây bại trận ấy được rồi, nhưng như đã nói, “Sử có khi nào viết bằng chữ “nếu...”. Việc đã qua rồi, bàn nữa chỉ tốn bọt cáp.
Một bằng cớ Pháp lúc đó phân vân bất nhứt, không muốn ở lại đất Nam là:
1) Trang 43. Đất thổ trạch châu thành Sài Gòn, Pháp cắt ra từng lô (lot) phân hạng, và định giá thuế đóng mỗi năm và mỗi thước vuông thật thấp, thật rẻ, cốt ý lấy lại đất của người bản thổ, đổi với những người nầy cho đất chỗ khác, và đất tốt dành ưu tiên cho người da trắng tức Pháp kiều, nhưng họ chỉ ham ở vùng đất cao ráo gọi zône des plateaux, họ không dám ở gần người bản xứ, vì sình bùn ướt át, thêm không được an ninh, và phải nói họ sợ bệnh truyền nhiễm (dịch lệ, kiết lỵ) hơn là sợ sức kháng cự dân bản xứ (dao mát, tầm vông vạt nhọn).
2) Trang 45. Vấn đề “nên giữ làm thuộc địa hay nên trả đất lấy tiền bồi thường chiến tranh”, ở triều đình Pháp rất là phân vân bất nhứt, bọn qua đây thấy bề thế Nam Kỳ dễ làm ăn thì muốn giữ còn chính hoàng đế Napoléon 3 thì muốn trả, và việc nhất định giữ vĩnh viễn và việc ra sắc lệnh làm thuộc địa, chỉ quyết định từ ngày 19-1-1865 mà thôi.
3) Trang 45 và trang 48. - Ngày 15-6-1865, thuỷ sư đề đốc Roze, thay thế đề đốc La Grandière, và ký sắc lịnh bán đất thành phố Sài Gòn, theo lối bán có đấu giá, Roze không cho nhà bằng lá còn tồn tại trong châu thành, mở rộng đường, ra chỉ thị nhà cất theo lề lối Tây phương, chỉnh trang ngay ngắn, dự định nới rộng châu thành cho đủ chỗ chứa 500.000 dân, sai đại tá Coffyn vẽ hoạ đồ (ngầm khi trả đất, sẽ tính phí tổn đòi bồi thường cho thêm nặng), (xin xem trong J.Bouchot, đầy đủ chi tiết, đây không kể ra), chỉ ghi lại đây, theo sắc lịnh trên, giá tiền thuế đất mỗi năm thì: mỗi thước vuông đất ở Sài Gòn, đại khái là 0$01 (một xu) đất trong thành phố; 0$02 (hai xu), đất đường Isabelle II, tức đường d’Espagne; và lên đến vùng đất cao ráo “plateau”; 0$03 (ba xu) bờ kinh Charner, sau lấp bằng, biến ra đại lộ Charner, nay còn gọi “đường kinh lấp”; 0$04 (bốn xu) đất ngoại thành gọi chạy vòng thành phố (Tour d’Inspection); 0$06 (sáu xu), đất dọc mé sông Sài Gòn, (sur les quai). Đất mé thấp, chỗ dân ta ở thì cắt từng lô thì 100 đến 200 mét vuông; đất vùng cao ráo (cho Tây ở), từ 400 đến 600 mét vuông; đất đường Charner, cũng từ 400 đến 600 mét vuông; đất vòng quanh châu thành, cắt lô rộng đến một mẫu (1 ha); còn đất bờ sông Sài gòn, cắt từng lô từ 600 đến 1.000 mét vuông diện tích. Nhưng vì sơ khởi, làm gì cũng thiếu sót, chỉ thị quên, không định giá mức thấp là bao, cho nên giá bán không đồng đều, chỗ quá cao bất ngờ, chỗ rẻ mạt, cũng không ai hiểu được lại nữa vì thiếu quảng cáo (hay là cố ý?), nên cuộc đấu giá thiếu người hưởng ứng, thêm lô cắt có khi hơi quá lớn quá rộng, sở phí lặt vặt tính quá cao, dân bản xứ cũng không mấy người đủ sức ra đấu, trừ phi bọn lanh lợi, giỏi thấy xa, họ đầu cơ từ ấy (trong Sài gòn năm xưa, tôi có viết đất dân bỏ trống rất nhiều, vì lòng còn mến tiếc cựu trào triều đình Huế, ước mong có ngày trở lại, nên về đất không chủ, bọn biết tiếng Pháp và có chưn trong hội đồng khám xét, chỉ học hai tiếng Tây: “uỳ” (oui, dạ, “của tôi”) và “no”, (non, dạ, không phải của tôi), nội hai tiếng ấy hễ đất tốt thì họ giành “của họ”, đất không tốt, thì họ hô “no”, ông muốn lấy và bán mặc tình, té ra Tây thắng trận mà thằng gian tham lại giàu!
a) Tác giả, năm 1983, tự nhận lỗi và tự phê bình:
Hôm nay là 22 tháng chín dương lịch 1983, là ngày 16 tháng tám âm lịch Quý Hợi, sau một đêm mất ngủ, tưởng đã đi đời vì ăn bánh Trung thu rồi trúng thực, may sao qua khỏi, lật đật viết mấy trang nầy, tự nhũ và phê bình, viết ngay trên máy, không cần giấy nháp tự sự như sau:
Chiều ngày 14 (trung thu tiền nhất nhựt), bỗng có người đem lại nhà cho mượn tập Pháp văn “La naissance et les Premières Années de Saigon, ville francaise”. Ban đâu tôi từ chối không muốn đọc, vì xét đã quá già, cận địa, còn đọc làm gl văn ngoại quốc. Nhưng nghĩ sao, rồi lại xin giữ cuốn kỷ yếu nầy, giữ và đọc kỹ, và có mấy cảm tưởng ngổn ngang, nay viết ra đây, độc giả mặc tình lượng xét:
Gẫm lại mình thật là sơ sót và thiển cận. Tính coi, bộ tam cá nguyệt san “Trung Quốc cổ học hội” (Bulletin de la Société deb Etudes Indochinoises), mình đã mãi từ ngày giải phóng 30-4-1975, cho rảnh nợ, duyên chi vương vấn nay có người mang tới nhà cho mượn đọc tập nhỏ nầy, là tập số 11, số 2 của tam cá nguyệt tháng 4 đến tháng 6 năm 1927, cũ xì.
Cái tánh khinh thương, già mà chưa bỏ, thật là đáng toi. La Naissance et les Premières Années de Saigon, ville francaise, dịch là “Sự xuất sinh và những năm đầu của thành phố Sài Gòn...”, mi đã đọc chưa? Hỡi ngươi là tác giả của “Sài gòn năm xưa?
Tự hỏi mà trả lời ngay “chưa”, lòng thấy xấu, thẹn vô cùng. Suốt đêm 14, trời mưa nặng hột và đêm nằm, ông cao xanh buồn tình nỗi gì mà giấu mất trăng dưới những giọt tuôn là chã sao hại trẻ con mất dịp hát bài “Trăng tháng tám”, riêng tác giả Sài gòn năm xưa ăn cái bánh, nay hình vuông chớ không tròn vin như mặt trăng nữa nghĩ cũng buồn cười, tại thằng thợ muốn dễ lấy ra khuôn, hay tại đã đổi đời, thôi thì mặc kệ, cũng không hơi đâu lo và hãy để trí đọc muộn cuốn nầy, rút tỉa một bài học đích đáng: Sài gòn năm xưa là cuốn sách chạy gạo. Không đè sách in hai lần, kể sách khảo cứu mà được như vậy là khá đến, không ngờ nay tụi bỏ chạy lại lấy chụp và phóng ảnh in y nguyên, bán lấy tiền mà quên tác giả, thiệt là đờ tệ. Việc đâu còn đó, chỉ biết bởi có chút nhan sắc nên bị “hãm”, còn than nỗi gì!
Như đã nói, Sài gòn năm xưa là sách viết để chạy gạo, để kiếm cơm, vì năm xưa ấy, vô làm công nhựt trong viện bảo tàng sở thú, lương ít quá, không đủ nuôi vợ con, nên buộc phải viết, chớ dám thề độc, không lòng lên mặt khảo cứu chút nào. Bây giờ, biết lại, hối quá, nhưng đã trễ rồi. Từ ngày có bậc đàn anh vô đây giải phóng, bảo Sài gòn năm xưa viết không khoa học, không trật tự, và thường hay lập đi lập lại nhiều lần, nhiều đến không biết bao nhiêu mà đếm”. (Biểu viết lại nhưng biết sống bao lâu mà làm?)
Nay xin thưa ra đây, bổn tánh thuở nay là vậy, nhứt định không gò gẫm, không “hành văn” và chỉ chuyên viết theo lối “nói miệng tày”: Nói thì phải nói đi nói lại, có vậy hoạ may lời nói sẽ in sâu vào tai người nghe và lập lại là sự thường, khó tránh và cũng “cố tình không muốn tránh”. Nay giờ đã gần hết, xin trối lại mấy ý nghĩ nầy để cho mai sau có người nào muốn viết lại, thi nên tìm những tài liệu sau đây, ghi trong sách dẫn thượng, mà tác giả là Jean Bouchot trước kia đã từng quyền quản thủ viện bảo tàng nơi vườn bách thảo, lúc có chiến tranh và có binh đội Phù Tang chiếm đóng ở đây, - riêng tôi, không còn thì giờ viết lại, và quả khi xưa viết là nằm dưới đáy giếng mà dám tả cảnh mông lung trên trời!
Những ai tốt phước được ngụ bên Paris, nên tìm đọc những sách nầy, nơi “văn khố quốc gia” (Bibliothèque Nationale), cất ở bên nầy, thì không chắc gì còn gặp, và dẫu biết nơi tàng trữ, cũng không chắc gì được xem, và đều là sách nên đọc:
Báo Illustration, xuất bản từ 4-3-1843, có hình Tự Đức (nhưng râu rìa, tôi e không đúng chân dung vị vua nầy), hình phái đoàn bộ ba đi sứ dưới trào vua Napoléon III (Phan Thanh Giản, Nguỵ Khắc Đản, Phạm Phú Thứ, hình vua Norodom và hình một phái đoàn xứ Xiêm La quốc, lạy móp sát đất đến vua Pháp nhức mắt ra lịnh đứng dậy cũng không dám tuân lịnh, vì luật lệ Xiêm đứng dậy trước mặt vua là có ý không tốt, tội đáng chém đầu;
Báo Revue des Deux Mondes, xuất bản từ 1861, có nhiều tài liệu quý và xưa;
Sách Les premières années de la Cochinchine của Paulin Vial (Chauamel in) 1874, 2 quyển.
- Histoire de l’Expédition de Cochinchine en 1861 của Léopold Pallu de la Barrière, theo Bouchot có đến hai bản khác nhau: (Bản in năm 1864, chỉ toà bố Chợ Lớn có tàng trữ 1 quyển, nhưng nay ắt không còn, bản nầy mặc dầu “không khoa học”, nhưng đó là “bản tiên khởi”, tài liệu đầy đủ và chân thật; bản in lại năm 1888, tuy sắp đặt lại có trật tự, nhưng vì chêm thêm xen lộn quá nhiều chi tiết thêm thắt, nên có thể nói “màu hồ đã mất đi rồi” không khác một gái quê sửa dọn quá hớp, cạo lông mày, bịt thêm răng vàng, mất “tân”; (bản 1888 do Bergerlavrault et Cie xuất bản);
- Cochinchine francaise et rơyaume du Cambodge, của Charles Lemire viết, nhà Challamel xuất bản, lần đầu năm 1869 và cũng như sách của Pallu, sách năm 1869 nầy lấy sửa và in lại nhiều lần, đến lần thứ sáu, năm 1887, thì xen lộn chi tiết không đúng thời gian tính, theo tôi là “gái đã mất tân”, có bịnh là khác. Charles Lemire không đúng là nhà chuyên khảo, qua đây chạy gạo và xin vô đóng một vai tuồng trong sở Bưu cuộc, nhưng nhờ duyên dáng nên sách in sáu lần. Trong mấy bản sau, có nhiều đoạn không in lại vì Pháp che đậy những gì xấu.
- Onze moi de souspréfecture en Basse-Cochinchine, của L. de Grammont, xuất bản năm 1862, tôi không có cuốn nầy và tiếc hủi hụi, vì theo J. Bouchot, de Grammont có tài kể chuyện, sau đó tác giả de Grummont thâu gọn lại làm một bài phúc trình đọc tại Hội khảo cứu sử địa ở Paris là hội Société de géographie, bài nói năm 1864 (có in thành sách do nhà Challamel in năm 1864), bài nầy khảo xét nhiều về người bản xứ, tục ăn trầu, vân vân, và sẵn tánh tọc mạch, tôi muốn đọc để cho biết người Pháp thời đó, nói về chúng ta những gì;
- Apercu sur la Basse-cochinchine của H. Abel Rieunier (in năm 1861);
- La question de Cochinchine au point de vua des intérêts francais, của Abel Rieunier, Paris, Challamel 1864; (sách binh vực chủ nghĩa không trả đất cho ta);
- Souvenirs de campngne et de voyage en Indochine của Colonel Henri de Ponchalon (theo Bouchot, ở đây chỉ có nơi trường nhà dòng Mỹ Tho có tàng trữ một quyển, nhưng sao dời vật đổi, nay biết còn chăng);
- Les commencements de l’Indochine francaise par Albert Septanh, Challamel 1867.
- Les expéditions de Chine et d’Cochinchine, d’après les documents olcrlciels của de Bazancourt, phần thứ 1 (1857-1858), Amyot, Paris 1861; phần thứ 2 (in năm 1862). Sách làm sưu tập phẩm để chơi, hơn là sách để đầu nằm
Đó là đại khái những sách theo tôi là đáng đọc. Ngoài ra độc giả muốn tường tận vấn đề, phải theo những sách kể trong cuốn của Bouchot là tôi lượt bớt không ghi lại đây, Bouchot nầy vẫn chê cuốn Abrégé de l’Histoire d’Annam của Alfred Chreiner, mà Bouchot chê là thiên vị; (năm xưa tôi được ông Nguyễn Văn Mai, thầy dạy Việt văn ở trường Chasseloup, biếu tôi một cuốn với câu đề tặng “Souvenir à 1 élève Vương Hồng Sển, en récompense de son application au cour que Je professe au collège Chasseloup- Laubat, Sài gòn le 22-2-1921. ký N.V.M.) tôi quý hơn vàng, sau đó ra xóm bán sách lạc son ngang nhà ga xe lửa Mỹ Tho, tôi chưng hửng vì sách bán có năm hào mỗi cuốn sách mới toanh, mà không ai thèm ngó.
Nhưng sơ sót hay cố ý, Bouchot không kể cuốn La Cochinchine Contemporaine của A. Bouinais et A. Paulus (Challamel, Paris, 1884), và rõ là kỳ thị, và mặc dầu gọi tặng là “l’histoirien annamite” Bouchot đã quên mất quyển chải chuốt rặt giọng Việt Nam của văn hào, học giả miền Nam là Trương Vĩnh Ký, “Cours d’Histoire Annamite, er volume”, in tại Sài gòn năm 1875, nhà in chánh phủ, gọi Imprimerie du Gouvernement, và quyển 2, in lần đầu năm 1879, cũng tại nhà in du Gouvernement nầy, nghiên cứu cho tôi biết, trước kia toạ lạc nơi nay là Sở Đại chánh khám đạt (Cadastre), tồn tại được ba chục năm từ Pháp qua đây, và khi chánh phủ Pháp thôi dùng nữa, đã sang lại cho phụ thân tướng Nguyễn Văn Xuân là ông Nguyễn Văn Của, lối năm 18... hoặc đầu năm 19..., với giá tượng trưng là 1$ (một đồng bạc thuở đó). Trên đây, với tánh già lẩm cẩm, tôi đã dài dòng văn tự, đón ngõ ngăn rào, để nhìn nhận cái tội năm xưa quá lêu lỏng, không biết chữ “nhứt” mà dám bàn và phê bình chữ “thập” chữ “mười mươi”, tuy vậy trót đã lỡ cho ra đời quyển Sài gòn năm xưa và sách đã được công nhận đến nỗi các cha bỏ chạy đã in và bán trên đầu trên cổ, từ Mỹ qua Tây, thôi thì, nay còn chút giờ sống sót và được đọc quyển của J. Bouchot đã nói nãy giờ, thôi thì, tôi lặp lại, độc giả hãy cho tôi viết thêm một đoạn dài nầy, gọi bổ túc, ai kia đọc được Pháp văn, thì xin hãy tìm quyển Pháp văn dẫn thượng, đầy đủ hơn. Đoạn viết thêm ấy như vầy:
- Kể từ đây là tôi theo cuốn La Naissance ét les Premières années de Saigon của Jean Bouchot, để lựa nhón và phê bình theo ý tôi, riêng cho đồng bào không đọc được nguyên văn bản chữ Pháp:
Trang17 - Vào năm 1859, theo sách của Philastre, ông Bouchot chép lại rằng: “Vào thời ấy, Sài Gòn vẫn có hai đường cái, chạy dài theo sông Sài Gòn và kinh arroyo chinois, hai đường nầy vẫn có nhà lợp ngói hai bên, tức phố xá buôn bán, và đó là nơi gọi Bến Nghé và Chợ Sỏi. Phố và nhà nầy day đít ra bờ sông, vả có cất thêm nhà cao cẳng chờm ra mé nước (bài ký Philastre, đăng trong báo Courrier de Saigon (Sài Gòn tân văn) đề ngày 201-1868). Để nhấn mạnh tài liệu viết trên đây là đúng, Bouchot trích dẫn đoạn văn dưới đây, của ông Trương Vĩnh Ký viết, ông học giả họ Trương nầy, bất đắc dĩ, tác giả Bouchot phải mượn lời nói để bảo đảm lời nói của Philastre và của chính mình, chớ bề trong, vẫn kỳ thị không phải người Lang Sa, tuy viết được văn Lang sa không thua gì họ; “Theo Pétrus Ký, thì Bến Nghé là cái vùng gồm một phần của vùng gọi “thành thị nơi buôn bán cũ” của người An Nam, rải rác có nhà ở và phố buôn, bọc theo những con đường nhỏ, ít năng được tu bổ của bốn thôn: Hoà Mỹ. Tân Khai, Long Điền và Trung Hoà, ranh giới đụng sát đường Mac-mahon, còn phần trên của thành thị nói đây vẫn thuộc làng Mỹ Hội, tức vùng có xây thành Sài Gòn gọi “Citadelle de Saigon” (theo sách của Trương Vĩnh Ký).
Đến đây, Bouchot viết thêm rằng: “Chợ Sỏi chạy dài từ cột cờ Thủ Ngữ đến dường Mac-mahon) (tức nhại lời Trương Vĩnh Ký), còn “Chợ hàng đinh” (village des clous), vẫn gồm khu từ đường Catinat qua Tây bắc đường La Grandière”.
Xóm Vườn Mít, thì ở chỗ Toà Pháp đình ngày nay.
Chợ Da Còm, ở ngay vị trí Khám Lớn cũ, sau phá đi, xây Thư viện Quốc gia.
Xóm Đệm Buồm thuộc về khu đường Tong Keou, sau đổi gọi đường Lê Văn Duyệt.
Đường Tập trận (plaine des Tombeaux), thuộc khu Tây nam đường Tong Keou nầy.
Cái thôn gọi Phú Hoà ở ngay chỗ Nghĩa trang Đô thành, trước gọi Đất Thánh Tây. Hai thôn Hiệp Hoà và An Hoà, ở khoảng giữa hai cầu 2 và 3 trên rạch Bà Nghè và thuộc mé hữu của con rạch này.
Thành trì gọi của Olivier de Puymanel, phóng kiểu, tức thành xây năm 1837 luôn và bở và hào thành, vào năm 1859, vẫn cỏ và bèo mọc loạn xị, thường là đất trống bỏ hoang. Những đường năm 1859 do chánh phủ An Nam để lại và được trào Tây mở ra rộng lớn sau nầy là những đường có tên gọi theo Pháp lả Catinat, Paul Blanchy, d Espagne, đường Chasseloup-Laubat và đường Luro, lối 1859, gọi đại lộ thành trì (boulevard de la Citadelle), chạy bọc theo hào thành xây năm 1837.
Trang 35. Lính I-pha-nho, theo đóm ăn tàn, kéo theo lính Tây đánh ké, gọi làm vậy, chớ gồm phần đông là lính nay gọi Phi Luật Tân xưa kia gọi quân Ma Nì (Mallille), thủ đô Phi Luật Tân, bọn linh nầy, đến ngày 31-3-1863 thì rút về xứ họ.
Trang 38. Cái sườn nhả gỗ trong Sài gòn năm xưa của tôi có in hình, tức nlà đầu tiên bằng gỗ do thuỷ sư đề đốc Bonard ở, là do ông Bollard nầy mua tại Singapore chở về Sài Gòn và dựng lên nơi khu đất nay là trường Nhà dòng Taberd, cho đến năm 1873 mới xây dựng thiệt thọ dinh sau gọi Dinh Toàn Quyền, sau phá đi và xây dinh gọi Dinh Độc Lập trước đây, và để cho mau hiểu, thường gọi palais Norodom. Năm 1867, dinh bằng gỗ nầy (nhắc lại vị trí là chỗ trường Taberd), vẫn có dựng thêm một toà nhà bằng gỗ, sức chứa được sáu trăm tân khách, và năm 1867, đề đốc La Grandière, có tổ chức một cuộc tiếp tân có khiêu vũ gọi bal La Grandière, mời hết nhơn vật tai mắt đương thời Tây – Nam – Chà - Chệc (Phan Thanh Giản, Tôn Thọ Tường v.v...) và sau này vào năm 1927, thống đốc Nam Kỳ Blanchad de la Brosse có tổ chức tái diễn buổi tiếp tân long trọng sáu chục năm xưa, và người được mời, toàn là tai to mặt lớn thời ấy, phải chạy mượn hoặc may sắm, cho ra lễ phục, đại phục, tỷ như: kinh lược Phan Thanh Giản (Tổng đốc hàm Phạm Văn Tươi ở Vĩnh Long thủ vai nầy), tổng đốc Phạm Phú Thứ (đốc phủ Tụ, Cái Bè); Án sát Nguỵ Khắc Đản (đốc phú Nhựt, Cai Lậy); Trương Vĩnh Ký (do con là Trương Vĩnh Tống đóng vai); rồi nào lãnh binh Tấn, Tôn Thọ Tường, vân vân, đều do những người có tên như sau: Nguyễn Văn Mai, Nguyễn Hiền Năng, đốc phú Hải, Gò Công, Nguyễn Văn Lân (cò mi Lân), Trần Văn Kính (thông ngôn toà đại hình), Nguyễn Bá Hội (Thủ Thiêm), Lê Quang Ngôn (toà án), Thái Minh Phát (phủ dinh thống đốc), Thái Minh Kim (sinh viên), Phan Chấn Thế (toà đại hình), Trần Tư Ca (con là Trần Tứ Khuê, đóng vai), Trần Tứ Hoàng, Trần Văn Khá... Tôi đọc lượt bớt không kế ra đây người Pháp, và xin kể giới Cao Miên có quận chúa Pok Hell đóng vai Pra-keo Pha, giới Hoa kiều, vai Bang Tai (Hoàng Thái) do Tây Méchin đóng, Li-tak, do Alinot, hoạ đồ, đóng; vai Seng-tek do Lévy đóng;... Tan-kang-sinh, do Bille đóng... (thuật nhón theo B.S.E.I năm 1927, janv/mars, trang 53).
Gẫm lại các ông các bà năm xưa, chưng diện cho xuê, ăn chơi cho sướng, phè phỡn nhảy đầm và nịnh hót cho đã đời, không làm gì nên thân, ngày nay con cháu ông bà trả nợ đã đành, mà chúng tôi vô cớ cũng phải gánh chịu, tức thì kẻ hèn nầy phải xì hơi cho bớt tức, chớ các cha “ỉa cho chúng tôi hốt”, khổ quá mà. Nhắc lại cái nhà hay dinh gỗ nầy, sau bị mối mọt xơi nát, và cái phòng tiếp tân đãi khách, cũng bằng cây ấy, (salle des fetes), trước kia vị trí day mặt ra đường Catinat, hồi đó gọi “công trường đồng hồ” (place de l’Horloge), kế bên có chuồng ngựa (lúc nầy chưa có ô tô) vẫn ở chỗ phòng ăn của các thầy dòng Frères nơi trường Taberd đó). Trên đây tôi quên nói: năm 1927, thống đốc Blanchard de la Brosse cho mượn dinh sau gọi dinh Gia Long nơi đường La Grandière thiết dạ yến (bal) nên long trọng lắm.
Trang 39. Gọi là place de l’Horloge, nhưng cái đồng hồ đặt nơi đó không dùng chỉ định giờ chính thức, và từ 30-7-1862, giờ đúng và chính thức vẫn do Sở thuỷ binh nơi mé sông Sài Gòn chánh thức báo tin bằng một tiếng súng đồng bắn nơi bờ sông, khi đúng ngọ.
Trang 41. Sở Bưu Cuộc (Postes) thời đó đặt thuộc Bộ Tài chánh, còn Sở Dây thép (Télégraphes) vẫn thuộc Bộ Nội vụ, vì vậy, buổi ấy Sở Ngân khố và Sở Bưu cuộc luôn Bưu điện, vẫn dựng nơi Công trường Đồng hồ nay vị trí là nơi gọi Sở Hiến binh (Gendarmene), khít và sau lưng Thư viện 34 La Grandière. Như đã nói rồi, nhà in của chánh phủ Tây thời đó, vị trí nơi Sở Địa chánh (Cadastre), mang tên tuỳ lúc, khi là Imprimerie Impériale (thời Napoléon 3), kế ba chục năm sau bán cho ông Huyện Của, (ông nầy già đời ưng làm huyện hàm, tuy hàm tri huyện, nhưng đào tạo nhiều thế hệ đốc phủ hàm và huyện, phủ thiệt thọ, và ông là thân phụ của tướng Pháp tịch Nguyễn Văn Xuân).
Trang 43. Đọc trương 43 nầy và nói chuyện “ăn trầu gẫm bã” nghe chơi, thật vận mạng nước nhà của ta sao thời trước, quả là “bạc mạng”. Nếu sử viết được bằng “chớ chi...” và “nếu mà...”, thì đâu có như vầy. Bàn rộng ra, quả hoàng đế Pháp, Napoléon 3, lúc đó phân vân lắm, nếu ta có người theo dõi và khéo vận động, thì có lẽ việc chuộc đất của phái đoàn ông Phan Thanh Giản có phần hy vọng thành công tràn trề, và nếu không có lão Chasseloup-Laubat, lúc đó làm bộ trưởng coi Bộ Thuỷ binh, làm kỳ đà, cùng với nhiều người từng qua đây, khăng khăng không ưng cho chuộc đất bồi thường, thì có lẽ đế Napoléon 3 đã hạ bút châu trả đất Nam Kỳ lại rồi, bằng không nữa, nếu triều vua Tự Đức có người tín cẩn khôn khéo, biết thừa dịp Pháp bại trận năm 1870-1871, biết chống cự dữ dội trì chí thì có lẽ giành lãnh thổ miền Nam khi Tây bại trận ấy được rồi, nhưng như đã nói, “Sử có khi nào viết bằng chữ “nếu...”. Việc đã qua rồi, bàn nữa chỉ tốn bọt cáp.
Một bằng cớ Pháp lúc đó phân vân bất nhứt, không muốn ở lại đất Nam là:
1) Trang 43. Đất thổ trạch châu thành Sài Gòn, Pháp cắt ra từng lô (lot) phân hạng, và định giá thuế đóng mỗi năm và mỗi thước vuông thật thấp, thật rẻ, cốt ý lấy lại đất của người bản thổ, đổi với những người nầy cho đất chỗ khác, và đất tốt dành ưu tiên cho người da trắng tức Pháp kiều, nhưng họ chỉ ham ở vùng đất cao ráo gọi zône des plateaux, họ không dám ở gần người bản xứ, vì sình bùn ướt át, thêm không được an ninh, và phải nói họ sợ bệnh truyền nhiễm (dịch lệ, kiết lỵ) hơn là sợ sức kháng cự dân bản xứ (dao mát, tầm vông vạt nhọn).
2) Trang 45. Vấn đề “nên giữ làm thuộc địa hay nên trả đất lấy tiền bồi thường chiến tranh”, ở triều đình Pháp rất là phân vân bất nhứt, bọn qua đây thấy bề thế Nam Kỳ dễ làm ăn thì muốn giữ còn chính hoàng đế Napoléon 3 thì muốn trả, và việc nhất định giữ vĩnh viễn và việc ra sắc lệnh làm thuộc địa, chỉ quyết định từ ngày 19-1-1865 mà thôi.
3) Trang 45 và trang 48. - Ngày 15-6-1865, thuỷ sư đề đốc Roze, thay thế đề đốc La Grandière, và ký sắc lịnh bán đất thành phố Sài Gòn, theo lối bán có đấu giá, Roze không cho nhà bằng lá còn tồn tại trong châu thành, mở rộng đường, ra chỉ thị nhà cất theo lề lối Tây phương, chỉnh trang ngay ngắn, dự định nới rộng châu thành cho đủ chỗ chứa 500.000 dân, sai đại tá Coffyn vẽ hoạ đồ (ngầm khi trả đất, sẽ tính phí tổn đòi bồi thường cho thêm nặng), (xin xem trong J.Bouchot, đầy đủ chi tiết, đây không kể ra), chỉ ghi lại đây, theo sắc lịnh trên, giá tiền thuế đất mỗi năm thì: mỗi thước vuông đất ở Sài Gòn, đại khái là 0$01 (một xu) đất trong thành phố; 0$02 (hai xu), đất đường Isabelle II, tức đường d’Espagne; và lên đến vùng đất cao ráo “plateau”; 0$03 (ba xu) bờ kinh Charner, sau lấp bằng, biến ra đại lộ Charner, nay còn gọi “đường kinh lấp”; 0$04 (bốn xu) đất ngoại thành gọi chạy vòng thành phố (Tour d’Inspection); 0$06 (sáu xu), đất dọc mé sông Sài Gòn, (sur les quai). Đất mé thấp, chỗ dân ta ở thì cắt từng lô thì 100 đến 200 mét vuông; đất vùng cao ráo (cho Tây ở), từ 400 đến 600 mét vuông; đất đường Charner, cũng từ 400 đến 600 mét vuông; đất vòng quanh châu thành, cắt lô rộng đến một mẫu (1 ha); còn đất bờ sông Sài gòn, cắt từng lô từ 600 đến 1.000 mét vuông diện tích. Nhưng vì sơ khởi, làm gì cũng thiếu sót, chỉ thị quên, không định giá mức thấp là bao, cho nên giá bán không đồng đều, chỗ quá cao bất ngờ, chỗ rẻ mạt, cũng không ai hiểu được lại nữa vì thiếu quảng cáo (hay là cố ý?), nên cuộc đấu giá thiếu người hưởng ứng, thêm lô cắt có khi hơi quá lớn quá rộng, sở phí lặt vặt tính quá cao, dân bản xứ cũng không mấy người đủ sức ra đấu, trừ phi bọn lanh lợi, giỏi thấy xa, họ đầu cơ từ ấy (trong Sài gòn năm xưa, tôi có viết đất dân bỏ trống rất nhiều, vì lòng còn mến tiếc cựu trào triều đình Huế, ước mong có ngày trở lại, nên về đất không chủ, bọn biết tiếng Pháp và có chưn trong hội đồng khám xét, chỉ học hai tiếng Tây: “uỳ” (oui, dạ, “của tôi”) và “no”, (non, dạ, không phải của tôi), nội hai tiếng ấy hễ đất tốt thì họ giành “của họ”, đất không tốt, thì họ hô “no”, ông muốn lấy và bán mặc tình, té ra Tây thắng trận mà thằng gian tham lại giàu!