Phạm Xuân Yêm |
Giải Nobel 2008
vinh tặng ba nhà vật lý Nhật Bản ngành lý thuyết hạt cơ bản, các giáo sư
Yoichiro Nambu (1921) một ‘Nhật kiều’ ở Đại học Chicago, Makato Kobayashi (1944)
ở Trung tâm Quốc gia Vật lý năng lượng cao ở Tsukuba và Toshihide Maskawa (1940)
ở Đại học Kyoto. Cùng với máy gia tốc hạt đầu tàu thế giới LHC ở CERN vừa khởi
động chưa đến tháng nay1, giải Nobel này, một trong những thành tựu
tuyệt vời của vật lý lượng tử ở lĩnh vực thuộc biên giới của tri thức nhân loại
đang nóng bỏng, làm nức lòng những nhà khoa học đang theo đuổi những công trình
lý thuyết hạt cơ bản.
Chương trình ưu tiên số một của LHC là
săn tìm hạt cơ bản Higgs, hạt tạo nên khối lượng cho vật chất. Ưu tiên số hai là
câu hỏi đâu rồi phản vật chất trong hoàn vũ bao la. Cái thứ nhất liên quan mật
thiết đến Nambu (công trình của Peter Higgs không thể tách rời khỏi sáng kiến
của Nambu như chính Higgs xác nhận trong nhiều bài viết) và cái thứ hai đến
Kobayashi và Maskawa. Tiên đoán của hai ông về sự hiện hữu tất yếu của hai quark
top và bottom để giải thích sự bất đối xứng vật chất-phản vật chất trong Mô hình
Chuẩn (Standard Model, xem phụ chú 1) đều được thực nghiệm xác định với độ chính
xác đáng kinh ngạc.
1 - Đối xứng1a - Đối xứng P và CP. Trong tiến trình tìm hiểu và khám phá các định luật khoa học, ít nhất là trong phạm vi hạt cơ bản, nhiều nhà vật lý lấy nguồn cảm hứng trong cái đẹp cân đối hài hoà của thiên nhiên để tìm tòi, suy luận, sáng tạo. Cái đẹp đó dĩ nhiên chủ quan trong nghệ thuật, văn chương, hội họa, âm nhạc, nhưng trong khoa học nó khách quan, định lượng và mang tên gọi đối xứng. Sự tìm kiếm những đối xứng và sự vi phạm nó xảy ra như thế nào, cũng như tìm kiếm những gì bất biến trong vật lý (dùng công cụ nhóm đối xứng trong toán học) là phương pháp chỉ đường hữu hiệu trong công cuộc khám phá. Đối xứng gương là một thí dụ. Tay phải (trái) của ta có hình trong gương hệt như tay trái (phải), và cái ta gọi là phía phải hay phía trái chỉ là một ước lệ giữa con người. Không có gì cho ta phân biệt được mọi hiện tượng ở ngoài gương và hình chiếu của hiện tượng đó trong gương, hoán chuyển không gian x ↔ – x (đối xứng P) không làm chúng thay đổi, chúng bất biến. Một sáng nắng ấm mùa thu ngả đông với cây đỏ lá vàng của Hà Nội thời xưa, tháp rùa mái cong cổ kính soi hình xuống nước trong vắt pha lê của hồ gươm phẳng lặng, tháp và hình là biểu hiện của đối xứng gương toàn vẹn. Trong vật lý hạt cơ bản, hai nhà vật lý Trung Quốc ở Mỹ T. D. Lee và C. N.Yang (giải Nobel 1957) khám phá ra là lực hạt nhân yếu (chi phối phóng xạ hạt nhân và sự vận hành của neutrino) vi phạm tối đa cái đối xứng gương P này, spin của electron, của neutrino đều hoàn toàn quay về trái mà không về phải. Một thí dụ khác là đối xứng vật chất-phản vật chất hay đối xứng CP, theo đó các định luật vận hành của electron và của phản hạt positron phải giống hệt nhau. Trong bốn tương tác cơ bản của thiên nhiên thì ba lực hấp dẫn, điện từ và hạt nhân mạnh đều tuân theo phép đối xứng P v�CP, chỉ lực hạt nhân yếu mới vi phạm chúng, vi phạm tối đa với đối xứng P, đôi chút với đối xứng CP, tương tác yếu của hạt và của phản hạt khác nhau ở mực độ vừa phải.
Makato Kobayashi | Toshihide Maskawa | Yoichiro Nambu |
1c - Siêu dẫn điện từ. Hiện tượng siêu dẫn của vật liệu ở nhiệt độ thấp là một đặc trưng của vật lý lượng tử, dòng điện truyền qua một dây siêu dẫn có thể tồn tại hàng tỷ năm trên lý thuyết, trong thực tế vài trăm ngàn năm, nó không có điện trở. Bất kỳ một điện thế dẫu nhỏ đến đâu cũng không áp đặt được vào trong chất siêu dẫn vì nó bị triệt tiêu bởi dòng điện ‘lý tưởng’ nội tại của siêu dẫn. Không những điện mà cả từ trường cũng vậy. Một thỏi nam châm để gần một vật liệu siêu dẫn bị kéo bật ra xa, thông lượng từ trường bị trục xuất một phần ra ngoài vật siêu dẫn, đó là hiệu ứng Meissner. Chính hiệu ứng này là gốc nguồn cho xe lửa trong tương lai ‘nhẹ bay’ làm cho nó chạy nhanh, không bị cản trở bởi ma sát của đường ray. Vật liệu siêu dẫn ngăn chặn tầm truyền của trường điện từ, nó là một hệ thống trong đó điện từ chỉ có thể tác động trong một khoảng cách ngắn, khác với bản chất tự tại của sóng điện từ có thể truyền đi vô hạn. Vậy photon, cái boson chuẩn, khi chuyển động trong vật liệu siêu dẫn như bị cản trở bởi một bức tường chắn gì đó và nó tác động giống như mang một khối lượng khác 0. Bức tường chắn đó trong lý thuyết siêu dẫn của J. Bardeen, L. N. Cooper, J. R. Schrieffer (BCS) chính là thể ngưng tụ của muôn ngàn cặp Cooper, cặp liên kết hai electron có spin up↑ spin down↓ đối nghịch. Mỗi cặp mang điện tích –2e nhưng vì có spin 0 nên theo thống kê Bose-Einstein những cặp này có thể hoà đồng chung sống trong cùng một trạng thái đông tụ. Mỗi electron cô đơn và có cá tính mạnh mẽ, nhưng kỳ lạ thay ở một hoàn cảnh đặc biệt nào đó (nhiệt độ thấp) khi kết bạn, mỗi cặp tuy rất mảnh mai nhưng khi tụ họp quá đông đảo lại vận hành như một dòng chảy thuần khiết đều đặn khiến cho vật liệu trở nên siêu dẫn2. Cái đông tụ Bose của muôn ngàn nguyên tử Helium 4 coi như boson cũng là gốc nguồn của hiện tượng siêu lỏng, luồng thể lỏng bơi ngược trên thành ống nhỏ li ti. Vật liệu sắt từ (ferromagnetic) là thí dụ thứ ba trong đó hàng tỷ electron có spin cùng hướng về một phía duy nhất do tác động của một từ trường ngoài. Vật liệu sắt từ như vậy không đối xứng tuyệt đối trong không gian, mặc dầu định luật cơ bản phân phối spin của nó hoàn toàn đối xứng với sự sắp đặt spin, không có một chiều spin nào giữ ưu thế. Trong ngôn từ của giới chuyên ngành, phương trình của một sự kiện nào đó mang một phép đối xứng, trong khi nghiệm của phương trình ấy lại không có cái đối xứng nguyên thủy, ta gọi hệ thống đó tự phát vi phạm đối xứng (spontaneous breaking of symmetry, SBS).
1d -Thuyết
Điện-Yếu thống nhất điện từ và lực hạt nhân yếu. Tính chất SBS là gốc nguồn
cho phép thống nhất được hai lực điện từ và yếu, chúng tưởng như khác biệt mà
thực ra cùng chia sẻ phép đối xứng chuẩn. Sự thống nhất hai lực điện-từ và yếu
thành một quy luật chung duy nhất là cả một bước ngoặt của vật lý ở cuối thế kỷ
20, tầm quan trọng của nó có thể ví như Maxwell ở cuối thế kỷ 19 đã tổng hợp ba
hiện tượng điện, từ và quang mà công nghệ hiện đại thông-truyền tin khai thác vô
cùng mầu nhiệm. Xin nhắc lại, để thống nhất lực yếu với lực điện từ, ta sử dụng
đối xứng chuẩn. Vậy ban đầu cũng như photon của điện từ, boson chuẩn W, sứ giả
của lực yếu, không có khối lượng. Sau đó ta cần một trường boson mới lạ nào đó
(trường Higgs) để chắn tác động của lực yếu và mang khối lượng cho W, tựa như
ngưng tụ của cặp Cooper trong điện từ. Cặp Cooper spin 0 liên kết hai electron
trong siêu dẫn điện từ được thay thế bởi trường Higgs cũng spin 0 trong lực yếu.
Trường Higgs tràn đầy chân không lượng tử, chân không này là trạng thái của vũ
trụ thuở Nổ Bùng (Big Bang) có năng lượng cực tiểu nhưng vô hạn. Không những
mang khối lượng cho hạt W, hạt Higgs còn mang khối lượng cho tất cả các hạt khác
như quark, lepton. Chính cái cơ cấu SBS phổ biến và chi phối nhiều ngành vật lý
là do Nambu, khi suy ngẫm về thuyết siêu dẫn nói trên, đã đề xướng ra và Higgs
áp dụng thành công trong vật lý hạt cơ bản. Giải Nobel 2008 để tặng thưởng Nambu
đã sáng tạo cái cơ cấu SBS này.
2 - Sáu Quark và Vật chất-Phản
vật chấtSự hiện hữu của phản vật chất là hệ quả sâu sắc nhất của bản giao hưởng tuyệt vời giữa hai thuyết Tương đối hẹp và Cơ học lượng tử do Paul Dirac, một thiên tài của thế kỷ tầm cỡ Newton và Einstein, chứng minh năm 1928 khi ông chưa đến 26 tuổi. Máy chụp hình nổi PET (Positron Emission Tomography) dùng trong y học ngày nay là một ứng dụng trực tiếp của positron, hạt phản electron. Khi positron hòa tụ với electron sẵn có trong cơ thể thì cặp positron-electron biến thành tia bức xạ cực kỳ tinh vi để rọi sáng chi tiết trong não bộ.
Như đề cập sơ qua ở
phần 1a, lực hạt nhân yếu vi phạm đối xứng vật chất-phản vật chất (đối
xứng CP), một ngạc nhiên lớn vì ba lực cơ bản khác (hấp dẫn, điện từ và
mạnh) tuyệt đối tuân theo phép đối xứng này. Tương tác yếu của hạt và của phản
hạt khác nhau. J. Cronin và V. Fitch cùng hai cộng sự viên khám phá ra năm 1964
sự vi phạm CP, và hai vị này nhận giải Nobel 1980. Những năm đầu 1970,
trong bối cảnh của vật lý hạt thời ấy với Mô hình Chuẩn đang ở buổi sơ khai, hai
nhà vật lý trẻ Kobayashi và Maskawa tiền phong đi tìm hiểu cơ cấu nào cho phép
sự vi phạm này. Hai ông, hoàn toàn do suy luận và tính toán, sau nhiều vật lộn
với toán học ‘ứng dụng thôi’, đã tìm ra năm 1973 là ít nhất phải có sáu quark
(đúng ra là phải có ba ‘họ‘, mỗi họ có hai quark) mới vi phạm được đối xứng
CP. Vào thời buổi ấy quark hãy còn là một giả thiết, một đề tài tế nhị,
nhiều người bài bác kể cả những cây đại thụ, và ngay cả nếu chấp nhận giả thiết
quark thì lúc ấy người ta chỉ biết có ba quark thôi: up, down và strange quark!
Kỳ diệu thay cái tiên đoán của Kobayashi và Maskawa (KM). Thực nghiệm liên tiếp
chứng tỏ sau đó sự chính xác của cơ chế vi phạm CP mà KM đề xướng. Năm
1974 quark charm bắt đầu lộ diện, năm 1977 với quark bottom và 1994 với quark
top. Khám phá của Kobayashi và Maskawa góp phần quan trọng cho sự hình thành của
Mô hình Chuẩn hạt cơ bản, nó diễn tả rất chính xác sự vi phạm đối xứng vật
chất-phản vật chất trong các thực nghiệm liên quan đến các meson K(mang strange
quark) và B (mang bottom quark).
-----------------
1http://www.thesaigontimes.vn/epaper/TB-KTSG/So39-2008(927)/19902/,
trong bài này, người viết có giới thiệu Nambu trong phụ chú 3, lỗi typo nhầm là
Nambu có giải Nobel mà sau đó tác giả cải chính
!
http://www.diendan.org/khoa-hoc-ky-thuat/co-cau-van-vat/
2http://amvc.free.fr/Damvc/Mai%20Ninh/TruyenNgan/HatDienCoDon%20-%20MN%20unicode.htm
http://www.diendan.org/khoa-hoc-ky-thuat/co-cau-van-vat/
2http://amvc.free.fr/Damvc/Mai%20Ninh/TruyenNgan/HatDienCoDon%20-%20MN%20unicode.htm