Chủ Nghĩa Tư Bản và Tôn Giáo
Đạo đức và công lý của hệ thống tư bản chủ nghĩa dựa trên mối tương quan mật
thiết giữa tư hữu, thoả thuận tự nguyện, và chủ quyền của một cá nhân đối với
vận mệnh của mình. Chúng ta có khuynh hướng coi khái niệm giá trị cá nhân là cái
gì đó hiển nhiên, nhưng trên thực tế, sự quan tâm về quyền lợi cá nhân trở thành
hiện thực chỉ khi xuất hiện chủ nghĩa tư bản. Thật ra, thị trường tự do không
những không làm mất đi nhân tính của một con người, mà còn cho phép anh ta phát
triển đầy đủ tính cách cá nhân của mình. Lương tâm con người và vai trò của nó
trong việc nhận thức thiện và ác, vốn được xác nhận trong thời kỳ man khai của
Thiên chúa giáo, đã thăng hoa dưới thể chế tư bản cạnh tranh.
Thời kỳ “bình minh của lương tâm”, cột mốc lịch sử mà trong đó những cá nhân
ban đầu đấu tranh để được tự do về đạo đức và từ đó chịu trách nhiệm cho hành vi
của mình, đã xuất hiện trước tiên tại Ai Cập và sau đó được người Do Thái vay
mượn và phát triển. Sau đó Chúa Jesus và Thánh Paul đưa ra quan điểm công nhận
cá tính riêng biệt của mỗi con người. Điều quan trọng là, giải thích này đại
diện cho quan điểm cá nhân chủ nghĩa về con người; nó khẳng định rằng linh hồn
của mỗi cá nhân là thứ quan trọng nhất. Thiên chúa giáo đã tạo ra một môi trường
trong đó để được cứu rỗi, các cá nhân được tự do lựa chọn theo ý mình.
Thiên chúa giáo không những khám phá ra rằng linh hồn của mỗi cá nhân thì
đáng được cứu rỗi, nó còn đưa ra khái niệm “pháp trị.” Mối quan tâm về khái niệm
pháp luật cũng đã chứng tỏ rằng điều này rất quan trọng trong việc phát triển
khái niệm tự do sở hữu và khế ước đất đai trong các nước phương Tây. Phải công
nhận rằng những đóng góp này chủ yếu chỉ để bảo vệ tài sản của nhà thờ khỏi
quyền lực của Nhà nước thế tục. Nhưng qua thời gian, những nguyên lý của “pháp
trị” và quyền tư hữu tài sản đã phát triển mạnh mẽ trong quan hệ giữa người và
người. Có một mối liên hệ rõ nét và khăng khít giữa nền đạo đức của Do Thái - Ki
Tô và nền kinh tế thị trường tự do. Mối liên hệ này dựa trên quan điểm chính
thức về vị trí trung tâm của cá nhân trong việc phân tích những mối quan hệ xã
hội.
Hệ thống thị trường mở và tự do gần như là một môi trường hoàn hảo, hay ít ra
là một bước tiến đảm bảo cho con người có được tự do ý chí. Nó cho phép người ta
có thể thực hành hành vi đạo đức. Một người có thể học cách sửa đổi hành vi của
mình chỉ khi nào người ấy được phép phạm sai lầm và hi vọng sẽ học hỏi từ những
sai lầm ấy. Nói cho cùng, người ta sẽ khôn ra sau khi phạm phải sai lầm. Điều
đáng tiếc là khi ảnh hưởng của chính phủ đối với cuộc sống người dân càng nhiều,
thì cơ hội cho việc rèn luyện năng lực đạo đức một cách tự do càng ít đi.
Bản thân xã hội không thể có hoặc không có đạo đức; chỉ có cá nhân là phần tử
có đạo đức. Dựa theo lập luận của Arthur Shefield, ta thấy rằng trong một hệ
thống kinh tế, ” . . . nếu những đặc điểm cốt yếu của nó quả thực nuôi dưỡng hay
củng cố hành vi cá nhân có đạo đức hoặc vô đạo đức, [thì] . . . hệ thống đó kết
cục hoặc là một hệ thống có đạo đức hoặc là một hệ thống vô đạo đức.” Chủ nghĩa
tư bản cạnh tranh, dưới chế độ pháp trị, tích cực nuôi dưỡng hành vi có đạo đức
và vì thế nó kết cục có thể sẽ là một xã hội có đạo đức. Khi những quyền tư hữu
công bằng được bảo vệ, khi những cam kết được đảm bảo thực thi, và khi pháp trị
được áp dụng, thì “bản chất tự nguyện trong những giao dịch tư bản chủ nghĩa sẽ
thúc đẩy chúng ta tôn trọng người khác.”
Đạo Đức và Thị Hiếu Cá Nhân
Dĩ nhiên ta không thể biện luận rằng nền tư bản cạnh tranh luôn phát sinh
những giá trị và tư cách mà ai ai cũng đồng ý. Dù thế, việc quan trọng là chúng
ta có lòng khoan dung đối với loại hành xử được cho là “không thể chấp nhận
được”, không ai ưa thích hoặc khó chịu miễn là nó không phương hại ai. Một cá
nhân không nên vi phạm điều mà nhà xã hội học vào thế kỷ XIX Herberd Spencer gọi
là “điều luật tự do bình đẳng,” trong đó nói rằng ” . . . một người có quyền tự
do làm bất cứ điều gì mình muốn, miễn là anh ta không xâm phạm đến quyền tự do
tương tự của người khác.” Vì thế những hành xử một cách hoà bình, bất bạo lực
của con người thì không phải là một tội lỗi. Những ai thật sự tin yêu tự do phải
phản đối những hành động cưỡng ép mà trong đó nó phủ nhận khả năng sống một cuộc
đời đạo đức bằng cách ngăn cản quyền tự do lựa chọn mà đạo đức yêu cầu. Vì sự
khác biệt của con người và những mục đích khác nhau mà họ theo đuổi, chúng ta
phải chấp nhận những hành động được cho phép trong một xã hội tự do dù chúng gây
khó chịu đối với thị hiếu cá nhân.
Lysander Spooner, một người đấu tranh đầy nhiệt huyết cho quyền tự do cá nhân
trong thế kỷ XIX, đã thấy được một đặc điểm quan trọng: hành vi xâm phạm và/hoặc
dùng bạo lực đối với thân thể hoặc tài sản của một cá nhân khác hẳn với hành vi,
” . . . trong khi có thể là vô đạo đức theo quan niệm chung, nhưng lại phải được
phép tự do nảy nở, và thậm chí cần được luật pháp bảo vệ.” Không thể có được đạo
đức ngoại trừ con người được tự do lựa chọn những hướng đi khác nhau mà không bị
kẻ khác ép buộc. Nhà nhân văn học vĩ đại Albert Schweitzer đã nói rằng văn minh
nhân loại chỉ có thể phục hồi khi một số người có thể phát huy một nếp nghĩ mới
độc lập và trái ngược với trào lưu chung của số đông còn lại - một quan điểm sẽ
dần chiếm ảnh hưởng đối với nếp nghĩ chung và từ đó đi đến xác định vị trí của
nó.
Chỉ có phong trào bắt nguồn từ một quan điểm đạo đức cách tân mới có thể cứu
rỗi chúng ta khỏi việc trượt dài đến chủ nghĩa tập thể. Như là một điều kiện
cần, quan điểm đạo đức cách tân sẽ trở thành hiện thực chỉ nhờ sự lựa chọn cá
nhân. Một lần nữa, chúng ta lại xác định được rằng chỉ có nền kinh tế thị trường
tự do với hệ thống tư hữu và tự nguyện trao đổi mới có thể phát huy tối đa tiềm
năng để sống một cuộc đời đạo đức.
Những tác động và hệ quả của quá trình cạnh tranh trong chủ nghĩa tư bản nói
chung đồng nhất với trật tự đạo đức. Nhưng ngay cả khi chúng không nhất quán,
việc phản đối những hạn chế mang tính cưỡng bức đối với những hành xử của con
người không vi phạm qui luật tự do bình đẳng vẫn cực kỳ quan trọng. Phong cách
sống đa dạng và quan điểm khác biệt là một trong những lý luận chính của quyền
tự do của con người. Dưới thể chế tư hữu và thị trường tự do đôi khi những hành
động gây khó chịu hay thậm chí ghê tởm vẫn được bảo vệ bởi luật pháp của một xã
hội tự do.
Đạo Đức và những Lựa Chọn Khác
Nói tóm lại, cái hệ thống được gọi là “chủ nghĩa tư bản,” một ám chỉ đầy thị
phi đối với nhiều người, chắc chắn là đồng nhất với đạo đức và công lý trong hệ
thống xã hội của chúng ta hơn bất kỳ những hệ thống nào khác mà ta biết được.
Tính chất vô đạo đức quá rõ ràng của những thể chế xã hội chủ nghĩa độc tài tại
Ba Lan, Cu Ba, Đông Đức, Trung Quốc, Liên Xô, Iran, và những thể chế phát xít
cánh hữu độc trị ở những quốc gia như Argentina và Chile, nơi mà quyền tự do căn
bản nhất của con người bị chà đạp, nơi mà hàng triệu người bị giết hại trên danh
nghĩa của một trật tự xã hội mới, đã chứng minh cho tính ưu việt của chính thể
phân quyền tự do và cởi mở.
Nghèo đói và tàn bạo thật đáng ghê tởm. Trên bất cứ quan điểm nào, thật đau
lòng khi nhìn thấy trẻ em bị đói khát. Vậy thì chúng ta hãy đặt câu hỏi rằng nền
kinh tế nào có được đa số dân chúng đủ ăn, tự do lựa chọn ngành nghề và mức độ
độc lập cao về tinh thần cũng như vật chất? Ở quốc gia nào người dân có cơ hội
được tự do, một sự tự do thật sự? Những quốc gia xã hội chủ nghĩa có đem đến tự
do, năng động, và độc lập như vậy không? Hay là trên thực tế, những quyền lợi ấy
được nuôi dưỡng trong một cơ chế xã hội của thị trường tự do, tư hữu, và chính
quyền bị giới hạn?
Bên trong những Giới Hạn về Quyền
Những câu hỏi trên đã được giải đáp. Liên Bang Xô Viết nói về “tự do” và “dân
chủ,” nhưng dường như họ không gặp phải khó khăn trong vấn đề nhập cư. Cộng sản
Đông Đức, bên cạnh đó, đã phải xây một bức tường bê tông cốt thép khổng lồ và
canh giữ nó ngày đêm để chống lại việc dân chúng bỏ xứ ra đi. Ngay cả trong
những thể chế “dân chủ xã hội,” việc xây dựng một hệ thống yên ổn và quân bình
cũng đang bị thất bại. Trong những năm gần đây nền kinh tế đang xuống dốc của
Pháp, dưới mô hình xã hội mạnh mẽ của Mitterand, đang là trò cười cho cả thế
giới. Câu chuyện thần thoại về một xã hội utopia của Thụy Điển đã bộc lộ bản
chất thật sự trong cuốn The New Totalitarians [Những Nền Chuyên Chế Mới] của
Roland Huntford.
Frederic Bastiat, nhà kinh tế học và phê bình xã hội nổi tiếng người Pháp
trong thế kỷ thứ XIX, đã tìm ra những đặc điểm cần thiết của một thể chế thật sự
công bình và đạo đức. Ông đã hỏi một câu hỏi vô cùng quan trọng:
“... người dân ở nước nào thì đạo đức nhất, hoà bình nhất và hạnh phúc
nhất? Ta thấy những người dân này sống trên những đất nước có nền luật pháp ít
can thiệp nhất vào vấn đề riêng tư; nơi chính quyền có ảnh hưởng ít nhất; nơi mà
cá nhân phát huy được hết khả năng của mình, và được tự do bày tỏ chính kiến đối
với thế lực lớn nhất; nơi quyền lực quản lý ở mức tối thiểu và đơn giản nhất;
nơi có chính sách thuế nhẹ nhất và hầu như là công bằng; . . . nơi những cá nhân
và tổ chức tích cực nhất gánh vác trách nhiệm của mình, và vì thế mà đạo đức của
. . . con người liên tục tiến triển; nơi thương mại, đoàn thể, và hiệp hội ít bị
giới hạn nhất; . . . nơi hầu hết con người theo đuổi xu hướng tự nhiên của họ; .
. . nói tóm lại, những người hạnh phúc nhất, đạo đức nhất và ôn hoà nhất là
những người hầu như đều đi theo một nguyên tắc: Mặc dù nhân loại không hoàn hảo,
mọi niềm hi vọng đều dựa trên những hành động tự do và tự nguyện của con người
bên trong những giới hạn nhất định về quyền; luật pháp hoặc bạo lực không được
dùng đến trừ phi để thi hành công lý chung cho mọi người.”
Vì hiểu rằng vấn đề chúng ta đưa ra về nền tảng đạo đức của chủ nghĩa tư bản
cần phải tiếp tục tinh lọc, ta hãy tìm hiểu lời dạy của Thánh Augustine. Ngài
lập luận rằng sự sung túc vật chất không nhất thiết sẽ đem lại những lựa chọn
tốt hơn, một giá trị đạo đức cao cả hơn, hoặc nhiều hạnh phúc hơn. Đề cập đến
trái đất và tình trạng khó khăn của con người, Ngài viết: “Những gì cõi địa giới
mong muốn không thể bị coi là xấu xa, vì trong bản chất cõi địa giới cũng đã tốt
đẹp hơn những sản phẩm khác của con người. Vì rằng cõi địa giới mong muốn một sự
bình an thế tục để tận hưởng những sản phẩm thế tục. Con người có quyền theo
đuổi những thứ này, vì chúng là những thứ tốt đẹp, và không còn gì nghi ngờ,
chúng là món quà từ Thượng đế. Nhưng còn có những thứ tốt đẹp hơn và chúng ở cõi
địa đàng và được bảo vệ bởi sự vinh hiển muôn đời và nền hoà bình vô tận.” Loại
giá trị đạo đức ấy nằm giữa mỗi cá nhân và Thượng Đế của anh ta. Việc được cứu
rỗi lại là một vấn đề khác.
Sự Hưng Phấn khi Tìm Hiểu Tự Do
Bỏ qua những lập luận của Bastiat, Hayek,
Shenfield và những người khác, một câu hỏi lý thú và quan trọng cần được nêu
lên. Tại sao một cơ chế xã hội đã tạo ra những điều kiện sống ngày càng cao chưa
từng thấy trong lịch sử của những quốc gia ứng dụng những nguyên tắc trên, và
đồng thời cũng đã xoá đi tính bất nhân giữa người với người bằng uy lực của nó,
lại chiếm một vị thế thấp kém trong suy nghĩ của hàng triệu con người? Hayek đã
rất đúng khi ông nhấn mạnh rằng chúng ta một lần nữa phải biến việc nghiên cứu
về tự do trở thành một đề tài trí tuệ đầy cảm hứng. Không chỉ vì những lý do
kinh tế, triết lý hoặc lịch sử mà là vì hàng tỉ người dù biết hay không, ít nhất
họ phải hiểu rằng tư tưởng có những hệ lụy của chúng, và đời sống của họ sẽ bị
ảnh hưởng rất nhiều bởi những gì các triết gia viết ra. “Tự do,” Alexis de
Tocqueville nói, “không thể có nếu như không có đạo đức, cũng giống như không
thể có đạo đức nếu như không có đức tin.”
Nếu nước Mỹ muốn tồn tại, những nhân tố hiện đại đầy thuyết phục của nó phải
được liên kết với những gì mà Russell Kirk gọi là “những vấn đề vĩnh cửu,” và
George Nash gọi là “. . . những vấn đề tâm linh và những thể chế nuôi dưỡng
chúng.”
(Hết)