Chương II
Những Học Thuyết Về Tri Thức
HỎI: Tri thức học là gì ?
ĐÁP: Siêu hình học bắt đầu bằng tri thức học (épistémologie) nghĩa là sự suy nghĩ về các phương tiện của nhận thức, đặc biệt kiến thức khoa học và giá trị của chúng. Nhận thức của cảm giác có giá trị gì? Nhận thức của lý tính có giá trị gì? Nhận thức của tình cảm có giá trị gì? Cũng như nhiều vấn đề mà Chân lý đặt ra. Khi đi tìm một điều chắc chắùn, người ta có thể theo nhữõng quan điểm khác nhau.
HỎI: Thái độ duy nghiệm ngây thơ là gì?
ĐÁP: Sự tin tưởng đầu tiên của lẽ thường là một thái độ duy nghiệm ngây thơ theo diễn ngữ của Le Senne trong cuốn “Nhập môn triết học”, 1949 nghĩa là chúng ta mong đợi những chỉ dẫn đích thực về thế giới bên ngoài từ những dữ kiện của các giác quan. “Để biết điều gì đang tồn tại, chỉ cần xác nhận bằng cảm nhận, nhìn xem, sờ mó, v.v… Nói cách khác tri giác là nhận thức đúng”. Hai hậu quả của học thuyết duy nghiệm hay niềm tin duy nhất vào kinh nghiệm là : (1) Thực tại là một vật chất với những phẩm tính như hình khối, quảng tính (trương độ), khối lượng, hình thể, màu sắc v.v…; nó nằm ngoài và độc lập với chúng ta; nó có trước sự hiểu biết mà chúng ta lãnh nhận và sẽ tiếp tục tồn tại “tự thân” khi chúng ta không còn tri giác nó nữa. Những đối tượng của tri giác thì hoàn tòan khách quan; (2) Thực tại của con người là một phần của vũ trụ hiện thực ấy.
HỎI: Thái độ duy nghiệm ấy gặp phải vấn đề gì với một kinh nghiệm đầy đủ hơn?
ĐÁP: Trước tiên chúng ta gặp chính hiện tượng cảm giác: Nếu tri giác là “khách quan”, chúng ta buộc phải thừa nhận rằng nó cũng chủ quan. Vả lại chúng ta có những kinh nghiệm tri giác ảo, chẳng hạn trong lúc nằm mơ, và những tri giác sai lầm như tri giác của những người mắc bệnh mù màu đỏ, của những người bị ảo giác, hay của người tàn tật vẫn còn cảm nhận cảm giác tồn tại ở một chi đã bị cưa cụt. Căn cứ vào đâu để phán đoán một số tri giác là có thật và một sốâ khác là sai lầm? Đâu là những “dấu hiệu của thực tại”? Có phải đa số sẽ tạo nên giá trị khách quan ? Con số đông những người sai lầm không biến một lầm lẫn thành chân lý. Mặt khác chúng ta hoàn toàn vô cảm với những thực tại mà chúng ta biết là chắc chắn ví dụ như sự chuyển động của trái đất hay những tia tử ngoại, sự hoạt động của phần lớn các cơ quan nội tạng. Tóm lại chúng ta thừa nhận rằng bản chất của tri giác lệ thuộc vào cấu trúc của các giác quan và của ý thức chúng ta.
HỎI: Nhận thức thể hiện như một tương quan giữa một khách thể và một chủ thể như thế nào?
ĐÁP: Chúng ta có thể nghiên cứu những mô thức của tương quan ấy trong vấn đề tri thức. Chủ thể dường như làm nghèo nàn thực tại: các giác quan của chúng ta có giới hạn, mắt chúng ta chỉ tri giác những độ dài sóng trong khoảng từ 0,4 đến 0,8 mi-crôn, một số thú vật có những bộ phận với những chức năng giả định. Anatole France hỏi rằng : “ Thế giới sẽ là gì nếu chúng ta nhìn nó qua đôi mắt kép của con ruồi và bộ não của con đười ươi. Nhận thức tri giác của chúng ta xem ra đặc thù, cá nhân và bấp bênh”. Mặt khác, chủ thể còn làm “lệch lạc” hay biến dạng khách thể . Nhân cách, những tình cảm, cảm xúc và đam mê, những tập quán hay kinh nghiệm theo nghĩa rộng cho chúng ta những “cái nhìn” khác nhau về thực tại, và những hoàn cảnh được tri giác có những ý nghĩa thay đổi tùy theo từng chủ thể và tùy theo từng lúc. Nói như cụ Nguyễn Du: “Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ!” Sau cùng khách thể chỉ tồn tại cho một chủ thể. Chủ thể khám phá tính chủ thể của mình khi khám phá tính chủ thể của mọi tri giác. Cho dù chúng ta nghĩ rằng chính khách thể là cái mà những tri giác của hết thảy mọi chủ thể có chung, thì khách thể vẫn tương đối với “ý thức con người nói chung” và do đó người ta không thể tìm thấy một tính khách thể xác thực trong tri giác. Các tri giác về cũng một khách thể nào đó có thể khác nhau trong cùng một thời điểm. Tôi không thể tin rằng cây gậy nhúng trong nước là hai cây gậy dù tôi nhìn thấy nó bị gẫy do sự khúc xạ trong khi tôi cảm thấy nó thẳng khi sờ.
HỎI: Vậy phải chăng việc suy tư thừa nhận có hai thế giới?
ĐÁP: Hai thế giới đó là thế giới của vật chất, lãnh vực của toán lý, và thế giới của chủ thể, lãnh vực của những “phẩm tính thứ hai”. Và chúng ta có “nhị nguyên luận” và chính Descartes đã đem lại sự hình dung đầy đủ. Cuộc cách mạng của Descartes chủ yếu là tách tính chủ thể ra khỏi thực tại và tuyên bố rằng thực tại luôn là một thế giới khách quan nơi ngự trị các con số, những phương trình toán học và những cấu trúc vật lý của các sự vật. Ông phân biệt: (1) Vật chất, có trương độ, liên tục, đồng chất, không có chân không, lưu chất không thể nén được ở ba chiều kích và không có phẩm chất nào khác. Hết thảy đều là phẩm tính và con số ; sự khác nhau là do vận động và những hình thể (mà Descartes gọi là “hình dạng” ). Trong vũ trụ ấy là vũ trụ toán lý, chỉ có chỗ cho tính nhân quả của quy luật tất yếu; ở đó tất cả đều có tính cơ giới. (2) Ý thức con người, là cái “suy tư , ước muốn, cảm nhận, tưởng tượng, quan niệm”, là tính chủ thể thuần túy. (3) Thế giới của các hiện tượng và của động thái là những hỗn hợp của tính khách thể (vật chất và những quy luật tất định) và tính chủ thể (ý thức và những phẩm tính được tri giác).
HỎI: Việc khám phá “vũ trụ khả tri” thúc đẩy bước tiến của khoa học và các triết học về Hữu thể như thế nào?
ĐÁP: Thật vậy, vũ trụ khả tri ấy là vũ trụ của khoa học ở đó ngự trị tính nhân quả của quy luật toán lý. Một hệ thống nhân quả bất biến là cái nền của sự biến dịch; thực tại “chứa đựng” một bộ khung hợp lý nhờ đó nó chống lại sự tưởng tượng của chúng ta và sẵn sàng giúp ta hành động. Những tri giác không đi theo nhau trong một thứ tự bất kỳ nào; sự nối tiếp của chúng được thiết lập trên một Trật tự mà bản chất là hợp lý, được tính Tất yếu điều hành . “Người ta không thể hiểu tốt hơn khái niệm tính tất yếu trên đó thiết lập tính tất định, cần thiết cho mọi khoa học và mọi sự tiên liệu khi đặt nó đối lập với khái niệm ngẫu nhiên” (La Senne, Dẫn nhập vào triết học). Thật vậy ngẫu nhiên là không tất yếu; một biến cố gọi là ngẫu nhiên trong mức độ nó chỉ ở bên cạnh những hiện tượng khác và không có một liên kết cần thiết nào với chúng; nó cũng có thể có mặt hoặc không có mặt vào thời điểm xác định nó đến. Người ta chỉ có thể xác nhận mà không tìm cách hiểu, vì hiểu như chúng ta đã thấy chính là khám phá những nguyên nhân và sự liên kết sự kiện ấy với tất cả những sự kiện khác. Chính tính tất yếu cho phép thực tại không rơi vào tình trạng bất ổn mà tính ngẫu nhiên kéo nó vào. Nhờ sự ổn định và bất biến của tính Tất yếu, người ta có thể nói thực tại hiện hữu hay tồn tại. Khái niệm tất yếu thiết lập khái niệm hữu thể. Triết học tương ứng với quan niệm này là học thuyết duy lý, theo đó có một Trật tự trong tự nhiên và một trật tự thấm nhập vào Lý tính con người.
HỎI: Phải chăng Hữu thể bền vững ấy, bất biến và tất yếu ấy đã đánh mất hiện sinh?
ĐÁP: Thật vậy hiện sinh (existence) bị đánh mất vì chúng ta chỉ cần lập một bảng kê tất cả những gì bị loại bỏ khỏi vũ trụ khả tri ấy để cảm thấy Hữu thể (hay Tồn tại) ấy rất xa với thực tại. Nó đã loại bỏ: (1) Thời gian. Bergson đã chỉ ra trong cuốn “Tư tưởng và cái vận động” hai loại thời gian: thời gian mà khoa học quan niệm, ví dụ quãng đường bằng tốc độ nhân cho thời gian và thời gian sống. Cái thứ nhất luôn luôn là một khoảng thời gian , nghĩa là một thời gian nào đó trôi đi từ một thời gian khởi hành (to) đến một thời gian đến (tn). Trong một khoảng thời gian, người ta đếm con số đơn vị thời gian được đo bằng sự di chuyển mẫu (kim trên mặt đồng hồ). Thời gian khoa học do đó thấm đẫm lượng tính (sự đo lường, đơn vị, cách tính) và không gian (mặt đồng hồ hay đơn vị thời gian đưa lên tung độ hay hoành độ của biểu đồ…) Khi lặp lại kinh nghiệm, người ta trở về thời gian to. Thời gian sống, thời gian của đời tôi hoàn toàn khác. Ở đó những giờ dài hơn hoặc ngắn hơn tùy theo sự u sầu hay phấn khởi của tôi và nhất là nó không thể quay trở lại, tôi không bao giờ có thể trở lại thời điểm ban đầu. Vả lại theo Bergson, thời gian sống mà ông gọi là kỳ gian có một tính chất còn quan trọng hơn vì nó khác nhau đối với mỗi người (mỗi người có một nhịp sống kỳ gian riêng) và nó có tính sáng tạo (kỳ gian ấy làm xuất hiện không ngờ những thay đổi, những sự biến hình hay những hình thức mới). Ngoài khía cạnh ấy của thời gian sống đặc thù mà các triết học về Hữu thể loại bỏ, chúng ta cũng phải thêm Lịch sử hay sử tính. Thế giới khả tri vốn là một hệ thống tất yếu các quy luật và các nguyên nhân nên nó không có quá khứ, không có tương lai, nó ở trong vĩnh cữu. (2) Cái ngoại lý . Tất cả những gì bị loại bỏ nhân danh trật tự tất yếu của luận lý, vẫn tiếp tục phình ra trong đời sống. Cái phi lý và hư vô đã hẳn không có chỗ trong hữu thể thuần lý, thế nhưng chúng ta thấy nó trong đời sống hàng ngày trong sự tình cờ, tai nạn hay trong nỗi buồn phiền và lo lắng, cũng như trong tất cả những thực tại nhân sinh như sai sót, lỗi lầm, tự do chọn lựa giữa những khả thể và nhất là cái chết. (3) Ý thức. Nếu khách thể được nhận biết hợp lý, nó hiện hữu , cả bên ngoài ý thức mà chúng ta có về nó. Sự kiện trở thành hữu thức không thêm gì cho hữu thể của nó. Trái lại để có saisót, ảo tưởng, lỗi lầm phải giả định một ý thức, hữu thể của những điều đó là hữu thể hữu thức. Đối với những thực tại đó, ý thức không còn là một phụ tượng không thêm gì vào cho hữu thể nhưng đúng hơn là chính bản chất của chúng.
HỎI: Khái niệm về kinh nghiệm tiến hóa là gì?
ĐÁP: Khái niệm này phát sinh do việc xuất hiện của thực tại hữu thức trong thế giới.
Học thuyết duy nghiệm tìm kiếm một nhận thức đúng bởi tri giác. Do đó nó đặt khách thể ở bên ngoài và quan niệm ý thức thụ động trong tri giác.
Học thuyết duy lý tìm kiếm nhận thức về khách thể bởi Lý tính đặt nặng sự hiện hữu của một “khách thể khả tri” và quan niệm chủ thể thụ động trong sự “khám phá” hay trong trực giác về tương quan hợp lý có trong khách thể. Nếu chúng ta quan niệm ý thức như một hoạt động, dù ở bình diện tri giác hay ở bình diện thuần lý, kinh nghiệm phải thôi không còn là một sự thụ nhận để trở thành một hoạt động hay một thao tác. Tinh thần sẽ có mặt khắp nơi trong kinh nghiệm mà nó thực hiện và trong tương quan thuần lý mà nó khám phá. Thực tại không còn là một dữ kiện nhưng bởi đó trở thành một sự thực hiện. Vũ trụ không còn là hữu-thể-không -Lịch-sử để đến lượt nó trở thành một Hiện thể. Qua những trình bày trên, chúng ta thấy từ học thuyết duy lý đã kéo theo những học thuyết khác phát sinh do việc phê phán thuyết duy lý. Và việc phê phán ấy nổ ra theo bốn hướng chính: hướng canh tân học thuyết duy nghiệm, hướng triền khai các học thuyết duy tâm, các triết học về Lịch sử và các triết học về hiện sinh hay đời sống. Chúng ta sẽ tuần tự tìm hiểu các học thuyết ấy.
HỎI: Học thuyết duy lý là gì?
ĐÁP: Học thuyết duy lý là triết học của khoa học cổ điển và được xây dựng trên hai nền tảng (1) Sự hiện hữu của một TRẬT TỰ nghĩa là một cấu trúc hợp lý (hay đúng hơn là cấu trúc toán học) của vũ trụ và (2) Sự hiểu thấu TRẬT TỰ ấy của trí tuệ con người, nghĩa là khả năng của Lý tính khám phá và hiểu được trật tự ấy.
Khuyết điểm của kinh nghiệm không phản tỉnh là trình bày cùng lúc cái tùy phụ và cái tất yếu, cái ngẫu nhiên và cái xác định, cái đúng và cái sai. Chứng cứ là một đứa trẻ khi bắt chước người lớn thường lẫn lộn giữa cái chính yếu và cái tùy phụ ví dụ người cha cắt cây mọc quanh nhà làm thành một hàng rào thẳng thóm, đứa con nhỏ bắt chước và chỉ cắt có vài cây nhưng lại cắt trụi. Hoặc khi cô giáo vô tình viết sai chính tả trên bảng, các học sinh viết lại và viết sai theo. Qua những ví dụ ấy các bé chưa có sự phân biệt giữa cái chính yếu và tùy phụ, giữa cái tất yếu và ngẫu nhiên.
Lý tính can thiệp một cách tổng quát để tách kinh nghiệm ra khỏi những gì là ngẫu nhiên trong kinh nghiệm, để thanh lọc kinh nghiệm và chỉ giữ lại cái nền hợp lý. Ngay khi lý tính nhận ra cái nền ấy, nó có thể bỏ qua kinh nghiệm thường chỉ kéo theo những điều ảo tưởng.
Một ví dụ nổi tiếng có trong lịch sử là cuộc tranh luận về “chân không” của thế kỷ XVII. Descartes diễn dịch một cách hợp lý từ vật lý học của ông rằng “chân không không tồn tại”; Pascal lấy lại những kinh nghiệm của Torricelli khi ông này làm những thí nghiệm trên núi Puy-de-Dôme cho thấy chân không tồn tại trong ống nghiệm thủy ngân đo áp suất khi cột thủy ngân tuột xuống. Vậy tin ai được? kinh nghiệm hay lý tính. Cuộc tranh luận giữa các nhà bác học làm người này thích thú, người kia khó chịu. Thậm chí có một linh mục còn cho xuất bản một cuốn sách nhan đề “Chỗ đầy của chân không” !! Ngày nay chúng ta biết rằng Pascal và Descartes không nói về cùng một thứ chân không: trong ống nghiệm của Torricelli có chân không của không khí nhưng vẫn còn trường trọng lực hay như Descartes đã nói về trương độ (quảng tính) của sự vật “res extensa”. Nếu kinh nghiệm có thể dùng làm tấm ván nhún cho toán lý thì Lý tính sau đó chỉ tham chiếu kinh nghiệm bởi những lần thăm dò với khoảng cách ngày càng xa. Kinh nghiệm sau cùng bị Lý tính gạt ra ngoài. Không phải vận rủi làm các tay cờ bạc bị thua mà chính là những quy luật của phép tính xác suất, không phải việc thở làm chúng ta sống mà chính là luật sinh học về sự ô-xy hóa và những tính chất hóa học của hồng cầu. “Tự nhiên là một mạng lưới các quy luật hợp lý ẩn núp trong sương mù kinh nghiệm mà sự suy tư có phương pháp và hợp lý xua tan lớp sương mù ấy”. Trong tính tất yếu vật lý ấy ần núp tính tất yếu hợp lý giống nhau và đồng thời trong các sự vật và trong trí tuệ con người; vì lý do đó mà toán học được áp dụng vào vật lý học. Thật vậy, ý tưởng tất yếu không hề bị hạn chế trong ý thức chúng ta, trước sự suy lý của toán lý nghĩa là tính tất yếu thì hơn cả “một tình cảm bất lực, tuyệt vọng và hối tiếc”, theo cách diễn tả của Kierkegaard; nó là một tổng giác hay trực cảm của trí tuệ để thấy rằng những hệ quả là sự phát triển nội tại của sự định nghĩa ban đầu. Định lý “bình phương cạnh huyền bằng tổng bình phương của hai cạnh góc vuông” đã nằm trong định nghĩa về một đối tượng của trí tuệ : tam giác vuông. Do đó ý tưởng về tất yếu lệ thuộc chặt chẽ vào ý tưởng về nhân quả. Một khi định nghĩa hay công thức được đặt ra, những hệ quả được rút ra từ đó, như những hệ quả của vật lý theo sau các nguyên nhân của chúng. Đối với học thuyết duy lý, sự “ngẫu nhiên” là một ảo tưởng do hiện nay người ta không biết một số nguyên nhân nào đó; tự do (mà chúng ta sẽ bàn đến) không hề có tính sáng tạo: nơi mỗi cá nhân, tự do chính là ở chỗ đi từ bình diện hiện tượng và tính chủ quan đến bình diện các quy luật và sự tất yếu luận lý, nó là sự từ bỏ ảo tưởng và chấp nhận Trật tự.
Tuy nhiên chính niềm tin vào Lý tính cứu sống tính chất thật sự duy lý của các học thuyết duy khoa học (scientisme) hay duy trí (intellectualisme) chặt chẽ. Lý tính đối với Platon cũng như đối với Descartes hay Spinoza không chỉ là một khả năng khám phá Trật tự có trước, nó chính là một “cơ may cho con người”, một đức hạnh luân lý, là chính Ý chí. Bằng Lý tính, Descartes đề nghị con người cộng tác cho một Trật tự không ngừng sáng tạo, và Spinoza quan niệm sự tiến bộ của Lý tính là một tiến bộ hướng đến sự Thiện: khi khám phá trật tự hợp lý của vũ trụ, hiền giả hay hiền minh (sage) thiết lập trong bản thân mình một trật tự và khi học cách nhận biết điều gì hiện hữu (tồn tại) thật, người ấy không còn nguy cơ đánh mất chính mình trong những vẻ bề ngoài sai lầm, trong những ảo tưởng phù du và trong sự lẫn lộn của các đam mê.
HỎI: Học thuyết duy nghiệm là gì ?
ĐÁP: Học thuyết duy nghiệm trước tiên là một niềm tin mù quáng vào các tri giác trong kinh nghiệm, nhưng trên hết đó là một phản ứng chống lại học thuyết duy lý. Thật vậy Lịch sử triết học cho thấy luôn luôn có sự gia tăng của thuyết duy nghiệm sau những thời kỳ có sự thống lĩnh của một thuyết duy lý. Có một sự kiện mang tính tượng trưng là một tác phẩm của học thuyết hoài nghi thuần túy nhất nhan đề “Chống lại những giáo điều” mà tác giả là Sextus Empiricus, thế kỷ thứ II sau công nguyên. Biệt danh của vị y sĩ ấy, một người có lập trường đi theo kinh nghiệm chống lại uy quyền của luận lý, lại còn là thành viên trong phái của Pyrrhon cho thấy rằng phản ứng của duy nghiệm của thời kỳ ấy đã tiến gần đến thuyết hoài nghi. Vả lại phản ứng ấy đã phát sinh để chống lại một học thuyết duy lý: học thuyết của Platon. Chúng ta cũng sẽ thấy sau học thuyết Tô-ma là sự xuất hiện của học thuyết duy danh; sau học thuyết Descartes là sự phát triển của học thuyết duy hiện tượng, và chống lại Kant, có thuyết tiến hóa thực chứng.
HỎI: Thế nào là thuyết duy nghiệm hoài nghi?
ĐÁP: Nỗ lực mà Platon đòi hỏi là phải đoạn tuyệt hoàn toàn với thế giới khả giác để quay về với thế giới khả tri, thế giới của những Ý niệm mà tính bền vững và tính thường hằng bảo đảm tính khả tri, đối lập với sự Biến dịch không thể hiểu được của thế giới những cảm giác. Aristote mặc dù có sự đối lập rõ ràng với Platon nhân danh cái cụ thể và vật sống (Aristote là y sĩ, Platon là nhà toán học), và ông đã phục hồi kinh nghiệm có trước mọi ý niệm, nhưng ông nói rằng trí tuệ xây dựng khoa học khi phân biệt cái “phổ quát” nằm trong cái “đặc thù”, cái tất yếu nằm trong dữ kiện ngẫu nhiên và là Mô thức nội tại giải thích mỗi hiện tượng và mỗi tồn tại. Platon đã đặt các ý niệm trong một thế giới khác và để nhìn thấy chúng, cần phải quay lưng lại, buông bỏ thế giới khả giác: triết học của ông do đó là triết học về tính siêu việt; Aristote đặt các ý niệm trong những dữ kiện khả giác, và trí tuệ rút nó ra: triết học của Aristote do đó là triết học của tính nội tại; nhưng dù sao trong cả hai trường hợp, người ta cũng đi đến công thức : “Chỉ có khoa học của cái phổ quát và tất yếu” và các nhà duy nghiệm thời đó sẽ công kích hai ông chính vì hai ông vượt qua thế giới khả giác thuần túy. Các triết gia đối lập trước tiên khẳng định ý muốn của họ là “không hủy bỏ những biểu hiện (vẻ bên ngoài)” Rồi từ Pyrrhon đến Aenésidème, họ cho rằng phán đoán của chúng ta yếu kém, mà “con người là thước đo của mọi vật” như Protagoras đã nói, con người còn rất kiêu ngạo khi cho những tư tưởng của mình là chân lý khách quan. Đó là khía cạnh duy nghiệm của họ. Nhưng mặt khác họ lại thấy tính không bền vững và trôi qua của thế giới khả giác nên sau cùng họ chỉ còn biết ẩn náu trong thuyết hoài nghi, đó là khía cạnh hoài nghi trong triết học duy nghiệm của họ: không nhận thức nào là khả hữu.
HỎI: Thế nào là thuyết duy nghiệm duy danh?
ĐÁP: Sự cách tân của học thuyết Aristote vào thời trung đại làm xuất hiện một thuyết duy nghiệm mới. Thánh Tô-ma khẳng định rằng đối tượng của nhận thức là cái “phổ quát trực tiếp” nghĩa là Ý niệm nhưng ý niệm này chỉ tồn tại trong tự nhiên dưới hình thức cá thể hóa, vật chất hóa. “Tác nhân trí tuệ” khám phá những ý niệm và cho chúng sự tồn tại thuộc một loại mới, tồn tại theo tư tưởng. Tự thân những “phổ niệm” ấy, những “bản chất” (yếu tính) ấy của các sự vật và hữu thể luôn tồn tại,và chỉ mình trí tuệ nhận biết chúng. Chúng ta tìm lại được Thực tại của những Mô thể (Forme) khả tri. Ngay sau đó, phản ứng duy nghiệm được phát động nhân danh kinh nghiệm thuần túy: Occam chống lại thánh Tô-ma rằng chỉ có một thực tại, thực tại được tri giác, rằng các phổ niệm không có sự tồn tại nào bên ngoài ý thức, do đó chúng không liên quan gì đến cái thực hữu, đó chỉ là những từ ngữ. Thuyết duy danh ấy (do nomen: danh từ , dấu chỉ) trả những ý niệm và những tương quan của thế giới khả tri về bình diện hoàn toàn ngôn từ . Học thuyết duy danh đã phát động một “cuộc tranh luận về các phổ niệm”.
HỎI: Thế nào là thuyết duy nghiệm duy hiện tượng?
ĐÁP: Như chúng ta đã biết Descartes là một người bênh vực đặc biệt cho học thuyết duy lý. Vật lý học của ông dựa trên một siêu hình học về Hữu thể. Bên ngoài chúng ta có một Trật tự khách quan và những “yếu tính”, nghĩa là một “bản chất” của mỗi sự vật, bản chất này có thể được định nghĩa hợp lý và liên kết hợp lý với những bản chất khác. Cũng thế những Ý niệm khi được giải phóng khỏi sự tối tăm và sự mơ hồ của những dữ kiện khả giác, sẽ trở nên sáng sủa, rõ ràng tương ứng với những bản chất thuộc hữu thể (nghĩa là cái“tồn tại tự thân”). Vậy chúng ta có trong mình một nhận thức hình thành trước về các chân lý, đó là thuyết bẩm sinh (chân lý và các chân lý đã hình thành trước trong chúng ta). Ngay sau đó một phản ứng duy nghiệm đã phát triển để chống lại thuyết duy lý đó:
(1) Locke (1632-1704) tuyên bố rằng mọi nhận thức là kinh nghiệm và chỉ có thể đến từ kinh nghiệm. Chống lại thuyết bẩm sinh, ông viết “Nihil est in intellectu quod non prius fuerit in sensù”(Không có gì trong trí tuệ mà trước đó không có trong các giác quan) hay diễn ngữ nổi tiếng table rase: “Tinh thần của một đứa trẻ lúc sinh ra như một trang giấy trắng, nhà giáo có thể viết vào đó cái gì ông muốn”.
(2) Hume (1711-1776) đến lượt ông cũng không tin rằng có thể có một sự vật gì khác ngoài cái chúng ta tri giác (thuyết duy hiện tượng). Trong cuốn “Luận về bản chất con người” ông viết:“Chúng ta sẽ không bao giờ tiến thêm một bước bên ngoài mình và chúng ta không thể quan niệâm bất kỳ loại tồn tại nào ngoài những tri giác.” Đi sâu vào “bản chất của các vật thể”, “giải thích những nguyên nhân” các vận động của chúng đều nằm ngoài sự hiểu biết của con người; khoa học chỉ là sự lừa bịp. Các luật gọi là luật tự nhiên chỉ là sự phóng chiếu thói quen mà chúng ta có để nhìn các hiện tượng nối tiếp nhau. Sự chờ đợi hiện tượng tiếp theo khi hiện tượng quen thuộc đi trước vừa xuất hiện, đó là điều mà chúng ta gọi là sự “tất yếu khách quan”. Trong tâm lý học, người ta gọi đó là sự liên tưởng. Trên thuyết duy nghiệm triệt để này treo lơ lửng một thuyết hoài nghi không kém phần triệt để, nhưng Hume thoát được thuyết hoài nghi bởi sự tín nhiệm mù quáng vào đời sống và vào một sức mạnh phổ quát liên kết các ý tưởng (sức mạnh của tập quán hay lý tính), lôi kéo các hành tinh (lực hấp dẫn), liên kết các hữu thể và thiết lập nền tảng đạo đức (lực đồng cảm).
HỎI: Thế nào là thuyết thực chứng của Auguste Comte?
ĐÁP: Có những hình thức tinh tế của thuyết duy nghiệm xuất hiện trong thế kỷ XIX là thuyết thực chứng, thuyết tiến hóa và thuyết duy xã hội.
Như chúng ta đã biết, thuyết thực chứng của Auguste Comte chủ yếu bác bỏ siêu hình học giáo điều cổ điển và xây dựng thời kỳ thực chứng với sự lên ngôi của tinh thần khoa học. Đã hẳn tinh thần khoa học được định nghĩa như “việc sử dụng phối hợp kinh nghiệm và Lý tính”, nhưng nhất là nó được xác định với một định nghĩa mới về luật vật lý. Nó không còn là một phần của hệ thống khả tri, có thực thể và nguyên nhân; nó không còn là một yếu tính hay một bản chất để trở thành một chức năng (fonction), một tương quan bất biến mà sự quan sát thiết lập giữa hai hiện tượng. Học thuyết thực chứng từ chối “tìm kiếm các nguyên nhân”; nó chỉ tìm kiếm các tương quan giữa những dữ kiện được quan sát bên ngoài, nghĩa là giữa những tri giác. Thuyết thực chứng coi những luật-chức- năng này như những sự kiện ; nó không tìm cách chứng minh chúng. Với thuyết thực chứng, khoa học cổ điển đánh mất siêu hình học duy lý để tìm lại ưu tiên hàng đầu của kinh nghiệm. Sau này chúng ta sẽ thấy rằng khoa học hiện đại vừa duy nghiệm vừa duy lý, thực nghiệm và toán học, mọi lập luận khoa học chỉ được chứng minh bằng một kinh nghiệm (hay thí nghiệm) và mọi kinh nghiệm chỉ được hiểu bởi một lập luận. Điều chúng ta nhấn mạnh ở đây trong thuyết thực chứng là sự phục hồi kinh nghiệm. Tuy nhiên trước hết đây là một triết học về Lịch sử (với luật tam trạng). Điều này còn gặp thấy trong các triết học lịch sử khác sau đây.
HỎI: Thế nào là thuyết tiến hóa của Spencer?
ĐÁP: Khi sử dụng những khái niệm chính của thuyết biến chủng hay biến hóa (như của Darwin), thuyết tiến hóa của Spencer phát triển từ một thuyết duy nghiệm chặt chẽ. Trong cuốn “Những nguyên lý đầu tiên”, ông nói: “Ý thức được phát triển trong mức độ những dữ kiện của kinh nghiệm được sắp xếp thành nhóm, trong mức độ những cảm giác thường được lặp lại nhất và tương quan giữa chúng với nhau trở thành khá quen thuộc để được thừa nhận khi chúng thể hiện”. Vì thế nhận thức là một sự “nhận thức lại”. Khoa học, niềm đam mê mới này, từ khước hiểu thực tại hay giải thích nó và chỉ tìm cách xác nhận. Spencer cũng nói: “Khoa học không làm gì khác việc hệ thống hóa những kinh nghiệm của chúng ta và không mở rộng những giới hạn của kinh nghiệm dù chỉ một độ… Tất cả những gì mà chúng ta có thể làm là giải thích sự sắp xếp các sự vật như nó thể hiện với ý thức hạn chế của chúng ta; nhưng sự sắp xếp mà chúng ta nhận thấy có tương quan như thế nào với sự sắp xếp của thực tại chính là điều mà chúng ta không thể suy xét và càng không thể hiểu”.
HỎI: Thế nào là thuyết duy xã hội của Durkheim?
ĐÁP: Durkheim tự đặt mình vào vị trí trung gian giữa thuyết duy nghiệm và thuyết “tiên nghiệm cổ điển”; ông rút ra mọi sinh hoạt tâm lý và đạo đức từ kinh nghiệm của đời sống tập thể . Vả lại đối với các nhà xã hội học, kinh nghiệm của ý thức tập thể xem ra là suối nguồn của mọi phán đoán, mọi tư tưởng hợp lý và mọi nền đạo đức. Tóm lại, chúng ta đã thấy một cách cụ thể lược đồ toàn cảnh của những phản ứng duy nghiệm khác nhau để chống trả lại học thuyết duy lý khi thuyết duy nghiệm hoài nghi sự tồn tại của một trật tự nhân quả tất yếu cũng như niềm tin vào giá trị siêu hình của Lý tính để dừng lại ở một kinh nghiệm thuần túy và khi nó đồng ý cho là hợp pháp việc giản lược tất cả Thực tại vào sự tồn tại của chỉ một khách thể được quan sát. Vả lại nhận thức khả giác không thể thoát khỏi sự phê phán giá trị nhận thức của nó. Đối với người theo thuyết duy nghiệm chỉ có các hiện tượng; người ta không nên và cũng không thể suy diễn bất cứ tồn tại nào bên kia hiện tượng. Sự phủ nhận nguyên lý nhân quả (chỉ là sự nối tiếp nhau đối với ý thức) và nguyên lý bản thể (chỉ là một sự vật trừu tượng), lấy đi tất cả “nội dung biểu tượng” của tri giác. Chỉ còn lại một việc là tham dự – một cách tuyệt vọng như Pyrrhon hay với sự tín nhiệm mù quáng như Hume – vào “chuyến tàu của các ý niệm”, vào sự nối tiếp vốn đã vô cớ, của những hình ảnh được chúng ta điều chỉnh trên sân khấu nội tâm,… cũng không phải là “nội tâm chúng ta” vì sự thống nhất của cá nhân theo Hume là một sự suy diễn của lý trí.
HỎI: Ba cách hiểu sai nào về học thuyết duy tâm phải được loại bỏ?
ĐÁP: Cả thuyết duy nghiệm và thuyết duy lý đều thừa nhận tính khách quan của nhận thức ; chúng chỉ khác nhau khi quan niệm về phương tiện: với thuyết trước là kinh nghiệm khả giác, với thuyết sau là lý tính hay lý trí. Vả lại tính khách quan của nhận thức đã bị học thuyết duy tâm đặt thành vấn đề. Theo các đồ đệ của học thuyết duy tâm, cái mà chúng ta hiểu là tính khách quan thật ra là tính chủ quan vốn không thể bị giản lược hay thu nhỏ hay ít nhất tính khách quan luôn tương đối theo cách thức tri giác và hiểu biết của con người. Le Senne trong cuốn “Dẫn nhập vào triết học” đã viết: “Học thuyết duy tâm là triết học theo đó những sự vật chỉ tồn tại bởi hành động của một tinh thần suy nghĩ chúng”. Thế nhưng có những cách hiểu sai về thuyết duy tâm, hoặc hiểu sai theo nghĩa thông thường, hoặc coi nó là học thuyết duy chủ thể toàn diện không được ai ủng hộ, hoặc theo nghĩa bút chiến mà những người theo học thuyết duy vật thường gán cho nó.
(1) Cách dùng theo nghĩa thông thường: Trong ngôn ngữ thông thường, thuyết duy tâm đối lập với thuyết duy thực, con người duy tâm trái ngược với con người duy thực (hay duy hiện thực). Con người duy thực là người được phú bẩm một tinh thần thực tiễn, bám lấy những thực tại khả giác, tâm lý hay xã hội, luôn luôn giữ tư tưởng mình trong môi trường của các thực tại ấy … trái lại con người duy tâm được xác định như người không đếm xỉa gì đến những thực tại ấy, hoặc vì người ấy khinh chê chúng, hoặc vì không biết chúng và cứ theo đuổi những giấc mơ thần tiên hay ma quái để thực hiện những lý tưởng mà họ tự xây đắp cho mình; vì thế người ta sẽ nói rằng ý tưởng “bản chất con người là tốt lành” theo J.J. Rousseau là một thuyết duy tâm, hay những tuyên bố của Don Quichotte cho rằng mình phải lên đường hành hiệp vì kẻ thù của mình và của dân lành có mặt khắp mọi nơi.
(2) Thuyết duy tâm chủ quan. Đây là một hình thức châm biếm chống thuyết duy tâm. Các đối thủ của thuyết duy tâm thường cho rằng học thuyết này chủ trương một khẳng định tính chủ thể toàn diện của tri giác. Thế giới bên ngoài không tồn tại và là sản phẩm của bản ngã như một giấc mơ trường cửu. Mỗi người chúng ta bị giam hãm trong trong vũ trụ của những tình trạng ý thức, không thể ra khỏi biểu tượng của nó. Đó là một thuyết duy ngã (một mình với chính mình) hay thuyết duy chủ thể toàn diện. Và chúng ta có ở đây đúng ra không phải một triết học mà là một trường hợp bệnh lý, chứng tâm thần phân liệt, người bệnh hoàn toàn bị tách rời khỏi thế giới này và sống trong một thế giới những hình ảnh cá nhân ít nhiều có chủ điểm.
(3) Ý nghĩa bút chiến. Những người theo học thuyết duy vật, kế tục Marx đã lặp lại: “Lịch sử triết học là lịch sử của cuộc đấu tranh giữa chủ nghĩa (hay ‘học thuyết’) duy tâm và chủ nghĩa duy vật mà chiến thắng thuộc về chủ nghĩa duy vật”. Trong công thức này, “học thuyết duy tâm” trình bày tất cả chủ thuyết nỗ lực hướng sự suy tư ra khỏi những dữ kiện vật chất, khách quan và lịch sử , để đưa nó về việc chiêm niệm một trật tự siêu việt để giải thích các dữ kiện đó. Học thuyết duy tâm như thế bị nghi ngờ (hay bị buộc tội) là diễn ngữ của một tình trạng xã hội nào đó mà những người trục lợi tìm cách duy trì. Nó là một triết học được chế tác, ít nhiều hữu thức, để biện minh cho thực tại hay để làm thực tại bị mất tín nhiệm và có lợi cho “một thế giới khác” (hay đời sau hoặc kiếp sau). Dù đó là sự khinh chê thực tại hay lý tưởng hóa một tình trạng sự kiện, học thuyết duy tâm rõ ràng đối lập với một quan điểm duy vật lịch sử tập trung vào “những sự kiện kinh tế” và vào ý chí làm “biến đổi thế giới”. Học thuyết duy tâm luôn luôn bị lên án là ngụy tín (mauvaise foi), là thuốc độc tinh tế, sự lừa bịp và kẻ phá hoại hành động.
HỎI: Chủ nghĩa duy tâm đích thực là gì?
ĐÁP: Nói một cách chính xác, học thuyết duy tâm nghĩ rằng những sự vật không phải là những dữ kiện tồn tại như người ta tri giác chúng hay nhận thức chúng và sự tồn tại của chúng bao hàm hành động của một tinh thần tư duy chúng. Việc có hay không một tính ngoại giới, hay chính xác hơn một cái phi-ngã thì chưa có một triết gia duy tâm nào tỏ vẻ ngờ vực. Điều mà họ chủ trương là bản ngã và phi ngã có cùng bản chất vì cả hai đều là những thực tại tâm lý, hay đúng hơn những thực tại tinh thần. Chúng ta sẽ giải thích điểm này, nhưng điều quan trọng là phải hiểu mối quan hệ đồng thời vừa là huyết thống vừa là thù địch triệt để của thuyết duy tâm chính xác và thuyết duy vật.
“Bản ngã và phi ngã, ý thức và thế giới bên ngoài, tinh thần và vũ trụ có cùng một bản chất, và…” Đến đây thì thuyết duy tâm và duy vật đều đồng ý với nhau vì cả hai đều nghĩ rằng chỉ có một thực tại duy nhất, một bản thể duy nhất vì cả hai đều là thuyết nhất nguyên (monisme); nhưng những từ ngữ cuối câu phát biểu trên làm nổ ra sự đối kháng triệt để : thực tại duy nhất là vật chất đối với thuyết này, nhưng là tinh thần đối với thuyết kia. Hai thuyết nhìn các sự vật từ hai đối cực và chính vì thế mà họ lên án nhau đã nhìn “thế giới lộn ngược”. Marx duy vật nói về Hagel duy tâm: Triết học ông ta đúng từ đầu đếán cuối, nhưng ông ta bước đi bằng đầu. Lachelier duy tâm nói với các nhà tâm lý theo duy khách thể (objectiviste) của thời ông (những người duy vật) rằng quan điểm của họ là tốt, nhưng phải nắm lấy ở phần đuôi.
Bằng cách nào mà học thuyết duy tâm có thể nghĩ rằng ngã và phi ngã có cùng bản chất tâm lý hay tinh thần? Xem ra điều này xúc phạm đến cảm thức chung của nhiều người có quan điểm hiện thực về tự nhiên theo thuyết duy nghiệm mà chúng ta đã tìm hiểu. Nói cách khác, người ta dễ tin ngã và phi ngã có cùng bản chất là vật chất hơn là tinh thần, như thể khái niệm Vật chất rõ ràng hơn khái niệm Tinh thần. Đối với những người duy tâm Tinh thần thì “thật” hơn vật chất, vật chất chỉ tồn tại cho một tinh thần tư duy nó và không có sự tồn tại độc lập.
HỎI: Về mặt lịch sử các triết gia duy tâm triển khai luận đề của họ như thế nào?
ĐÁP: Chính Descartes đã mở đường cho duy tâm nên chúng ta phải nhắc lại Descartes trước khi đề cập đến những triết gia duy tâm đích thực.
(1) Cái “Cogito” của Descartes đã dọn đường cho học thuyết duy tâm. Chúng ta đã thấy trong phần đầu của cuốn “Những suy niệm về siêu hình học”, Descartes đã tìm thấy cái “Cogito” nghĩa là cái “Tôi tư duy” khi ông đi tìm một chân lý có thể chống lại sự hoài nghi làm ông lo lắng trước sự sụp đổ của mọi niềm tin. Xác nhận ấy chống lại sự hoài nghi vì để hoài nghi cần phải suy nghĩ; nó cũng chống lại giả thuyết trái ngược có một Ác thần chỉ tìm cách lừa gạt chúng ta vì để lừa gạt chúng ta, Aùc thần phải chờ khi chúng ta đã bắt đầu suy nghĩ. Sự kiện tôi cảm thấy mình là một “cái gì đó suy tư” là điều không thể hoài nghi. Tôi thấy mình tồn tại như một hữu thể suy tư . Đó là ý nghĩa duy nhất và bao quát của cái “Cogito ergo Sum” nổi tiếng. Sự hiển nhiên đầu tiên và sự tồn tại đầu tiên được hiểu là sự tồn tại không phải của một sự vật đặc thù mà của cái tôi-suy-tư, không có nó thì không có bất cứ sự tồn tại nào khác có thể hiểu được.
Nhưng khi đào sâu chân lý đầu tiên này, Descartes nhận thấy cái tôi-suy-tư không thể hiện hết Tư tưởng và cái “tôi” chỉ là một sự phân loại, đặt giới hạn và xác định một Tư tưởng vượt xa vô hạn cái tôi. Vì thế trong sự tồn tại của mình như một hữu thể tư duy, Descartes khẳng định sự hiện hữu của một Tư tưởng-Vô hạn mà ông gọi là Thượng đế. Và đó là thời gian thứ hai của suy niệm: “Tôi tồn tại, vậy Thượng đế tồn tại”.
Chỉ trong thời gian thứ ba, sau khi đã phân tích những hàm ngụ của sự hiện hữu vô cùng ấy của Thượng đế, Descartes nhìn thấy ngài là nguồn gốc của mọi sự hữu và khẳng định sự tồn tại của thế giới bên ngoài. Tư tưởng chỉ đi xuống lại với vật chất sau khi đã tin chắc có sự thân thuộc tinh thần giữa cái tôi-suy-tư và Thượng đế và chính điều này thiết lập thuyết duy lý của Descartes. Chỉ cần những người theo sau Descartes nghĩ rằng vật chất chính là một sự giới hạn mà cái tôi suy tư đem lại cho Hữu thể vô hạn, họ sẽ đi đến học thuyết duy tâm.
Tư tưởng vô hạn hay Thượng đế
SƠ ĐỒ COGITO CỦA DESCARTES
3 1. Cogito, sự hiển nhiên đầu tiên
2 2. Khám phá Tư tưởng vô hạn bên trên cái
Cogito 1 Cogito Vật chất 3. Luận đề Thượng đế sáng tạo vật chất và các tinh thần.
(2) Học thuyết duy tâm phi vật chất của Berkeley. Trước tiên Berkeley nhận thấy rằng “ tồn tại là tồn tại được tri giác “ (esse est percipi), nghĩa là điều mà chúng ta gọi là những sự vật hay những phẩm tính của chúng hay bất cứ sự gì “khách quan”, đều quy về những tri giác. Ích gì khi chúng ta nhìn chăm chú những thực tại bên ngoài, chia cắt chúng, phân tích chúng, nhìn chúng qua những máy móc, rốt cuộc rồi luôn luôn người ta cũng gặp một tri giác và không thể khác . Vả lại tri giác là một hiện tượng của ý thức, bản chất của nó không thuộc vật chất cũng không khách quan, nó thuộc tâm lý. (Ở đây chúng ta hãy ghi nhận rằng luận chứng chủ yếu định nghĩa tính khách quan bởi sự cộng đồng tri giác của một nhóm người sau cùng đưa đến việc định nghĩa nó như chủ quan tập thể và không bao giờ là khách quan.) Từ sự bảo đảm đầu tiên, Vũ trụ là một vũ trụ của tri giác mà bản chất sâu xa thuộc về tâm lý. Việc khám phá ra mệnh đề này làm Berkeley tràn ngập vui mừng và ông kêu lên, lúc đó ông được 22 tuổi: “Sau cùng tôi đã nắm được nguyên lý cao cả”. Berkeley rút ra nhiều hệ quả:
A. Vật chất không tồn tại, đó là một ý tưởng trừu tượng, một phát minh của các nhà bác học, hoàn toàn không thể chứng minh và người ta cũng không bao giờ có thể tri giác vật chất (thật vậy vì theo ông, hữu thể (cái tồn tại) chính là hữu thể được tri giác). Đó là thuyết phi vật chất.
B. Tuy nhiên thế giới bên ngoài thì hoàn toàn bên ngoài ý thức của tôi vượt xa vô hạn ý thức tôi từ mọi phía, vì thế có một bản ngã hạn chế và một phi-ngã vô hạn.
C. Bản ngã và phi ngã có cùng bản chất tâm lý , vì thế có một bản ngã là tinh thần và một Tinh thần Vô hạn hay Thượng đế. Khi không còn tính vật chất, vũ trụ trở thành điểm gặp gỡ, sự va chạm của hai hành động: ý thức cá nhân và Thượng đế vô cùng. Bản chất của thế giới là “một bức màn trong suốt qua đó Thượng đế tỏ hiện với con người”.
Berkeley yêu cầu chúng ta đừng nhìn Tự nhiên với tinh thần hoàn toàn ô nhiễm bởi những ý tưởng của khoa học; mặc kệ các nhà bác học (và đặc biệt ông chống lại Newton), có một cách nhìn Tự nhiên cho chúng ta thấy nó rất thần thánh, với một vẻ đẹp lạ lùng và thiêng liêng.
Nói một cách ít thi ca hơn, theo Berkeley, Tự nhiên không có hiện hữu tự thân, bền vững, nó là một tương quan giữa Thượng đế và mỗi tinh thần.
Thượng đế
Tự nhiên là giới hạn biểu hiện tương quan giữa
hai hành động: ý thức cá nhân và Tinh thần vô hạn.
3. Học thuyết duy tâm siêu nghiệm của Kant. Trong lời tựa của cuốn “Phê phán lý tính thuần túy” Kant viết: “Tôi đã làm một cuộc cách mạng như Copernic. Copernic đã chứng minh trái đất quay xung quanh mặt trời, thì với Kant khách thể nhận thức phải tương đối với chủ thể nhận thức, trong khi thuyết duy lý giáo điều thì trái lại bắt chủ thể phải tương đối với khách thể. Tinh thần không còn là tấm gương phản chiếu khách thể, nó trở thành điều kiện sự khả hữu của khách thể . Nó “làm thành” khách thể. Chủ thể của nhận thức không phải là “bản ngã duy nghiệm” nghĩa là cái tôi như một cá nhân mà là “bản ngã siêu nghiệm” nghĩa là “ý thức con người nói chung trong tôi”. Siêu nghiệm có nghĩa là đem lại cho kinh nghiệm một hình thức, tạo hình cho khách thể còn chính nó không là một khách thể của kinh nghiệm. Như vậy kinh nghiệm về hiện tượng là một kinh nghiệm của con người, gắn chặt với con người. Bên kia hiện tượng, “vật tự thân” như chúng ta đã biết không thể nhận thức được.
Tất cả xảy ra như thể trong nhận thức, chủ thể “mặc áo” cho vật tự thân hay cái không thể biết. Vậy những “mô thể” nào lần lượt tác động lên nhận thức?
Theo Kant có hai đợt liên tiếp nhau, một ở bình diện tri giác và một ở bình diện giác tính (hay trí năng; giác ở đây có nghĩa là hiểu)
A. Ở bình diện tri giác. Cảm tính của chúng ta không thụ động cũng không thụ nhận, nó đã là một hoạt động với những chức năng, những cơ cấu, những “mô thức tiên nghiệm”. Nó phóng chiếu lên sự vật tự thân trong chính hành động tri giác ; hai mô thức tiên nghiệm của nó là Không gian và Thời gian. Như thế, Không gian và Thời gian không phải là những thực tại khách quan, một “môi trường” trong đó các sự vật được đưa vào, đó là những mô thức tiên thiên của cảm tính nhân loại.
B. Ở bình diện giác tính. Những bụi bặm của các phẩm tính được cảm nhận, được tổ chức bởi hai trục Không gian và Thời gian, lại được tổ chức trong “bản chất” bởi việc phóng chiếu những “mô thức tiên thiên của giác tính” hay những “phạm trù của giác tính”. Đó là những hoạt động nội tại của khả năng nhận thức gồm có mười hai phạm trù tập trung trong bốn mô thức lớn: Số lượng, Chất lượng, Thể thức, Tương quan. Trong số lượng có phạm trù đơn tính, trong Chất lượng có phạm trù Thực tại, trong Thể thức có phạm trù tính Tất yếu, trong Tương quan có phạm trù tính Nhân quả, mỗi phạm trù có những hệ luận. Như thế khi hai hiện tượng xuất hiện là hai, có thật, tất yếu và liên kết với nhau bằng tương quan nhân quả thì chính chúng ta suy nghĩ chúng dưới những phạm trù số lượng, hiện hữu, tất yếu và nhân quả, nghĩa là dưới những khía cạnh ấy, chúng ta nhìn thấy chúng. Để hiểu rõ điểm này, bạn hãy tưởng tượng trong một đêm tối trời, bạn cầm trong tay một cái đèn với lồng kính màu đỏ. Tất cả những vật mà bạn soi sáng đều đỏ, và bạn càng đưa đèn đến gần để nhìn thấy màu “thật” của những vật ấy, bạn càng thấy chúng màu đỏ. Ví dụ khác: bạn hãy tưởng tượng một ông trưởng phòng nghiêm khắc làm cho các nhân viên phải kinh hoàng; mỗi lần ông ta đi ngang qua văn phòng, các nhân viên đều chỉnh tề, mọi việc đều ngăn nắp không chê vào đâu được, ngay khi ông quay lưng lại thì văn phòng lại ồn ào, lộn xộn, rồi khói thuốc, tiếng nhạc vang lên. Ông ta sẽ khẳng định văn phòng luôn có trật tự mà không biết rằng trật tự ấy là trật- tự -cho- ông. Theo Kant cũng như thế đối với trật tự tất yếu mà khoa học khám phá trong Tự nhiên, đó là một trật tự luận lý, thuộc trí tuệ, toán học, tất yếu … và các nhà bác học không nhận thấy rằng đó là trật tự của con người ở đó Lý tính đương nhiên được tìm thấy vì chính nó đã đưa vào. Một hình ảnh dễ dàng có thể minh họa ba thái độ duy lý, duy nghiệm và duy tâm, hay đúng hơn, các lý thuyết về nhận thức của Descartes, Hume và Kant. Bạn hãy tưởng tượng một chiếc xuồng trên mặt hồ, một người thợ săn ở trong xuồng và con mồi ở trên bờ : chiếc xuồng là vị trí của con người, cây súng săn là phương tiện nhận thức, con mồi và bờ là những khách thể hay những đích nhắm của nhận thức. Descartes nhận thấy rằng người ta có thể nhắm bắn, có sự ổn định trong nhận thức; Hume phân tích vị trí thợ săn và nhận thấy mặt hồ xao động và ông kết luận bắn từ một vị trí như thế không đạt được kết quả gì; Kant chấp nhận những kết luận của Hume liên quan đến vị trí, nhưng cho thấy rằng toàn cảnh cũng dao động cùng một nhịp độ và có thể nhắm bắn được vì có sự bất động tương đối.
4. Duy tâm tuyệt đối của Octave Hamelin. Trong cuốn “Những yếu tố chính của biểu tượng” (1907), Hamelin theo xu hướng những người kế tục Kant, đã loại bỏ sự vật tự thân như còn sót lại cuối cùng của chủ nghĩa duy lý và giải thích vũ trụ của ý thức từ sự Tương quan. Vì tất cả đều tương đối, không chỉ trong tự nhiên mà cả trong tư tưởng vì tư tưởng ở trong tương quan của các hạn từ (terme) với nhau. Vậy tương quan là nguyên lý phổ quát ở đó mọi vật phải được thể hiện vì tương quan tạo ra các từ ngữ và vượt qua chúng bởi một nhịp điệu nội tại gồm có Đề- Phản đề -Hợp đề.
Những tương quan (liên kết nhưng không hòa trộn và phân biệt nhưng không tách rời) là thực tại năng động và sáng tạo làm thành hạn từ đầu tiên và quy luật tái cấu trúc biện chứng Thực tại.
Bộ ba. Tương quan như hạn từ đầu tiên kêu gọi phản nghĩa của nó là sự phân ly của các khoảnh khắc liên tiếp và của các sự vật. Đó là con số. Hợp đề Tương quan và Số cho Thời gian và chính nó trở thành hạn từ đầu tiên của bộ ba thứ hai. Biện chứng tiếp tục và toàn bộ viết thành lược đồ như sau: (đọc từ dưới lên trên và từ trái qua phải)
Nhân cách
Tính nhân quả – Tính cứu cánh
Tha tính – loại biệt
Vận động – Phẩm tính
Thời gian(3) – Không gian (Bộ ba 2: Thời gian- không gian –vận động)
Tương quan(1) – Số (2) (Bộ ba 1: Tương quan- Số- Thời gian)
Bộ ba sau cùng. Bộ ba thứ năm đó là Tính nhân quả(1) – Tính cứu cánh(2) – Nhân cách(3) là sự biến thái sau cùng của Tương quan làm chúng ta đi từ Nguyên tắc đến Bản chất và giờ đây từ Bản chất đến tinh thần. Với Tính nhân quả, vũ trụ có một trật tự, với Tính cứu cánh, nó mang một ý nghĩa. Vũ trụ được hoàn chỉnh với tương quan kép ấy; nhưng đó là một vũ trụ của biểu tượng và hợp đề sau cùng đem lại nhân cách một cách hiệu quả vừa là mục tiêu, vừa là nguyên nhân của chính nó. Như thế ý tưởng tương quan hay chính xác hơn, Tương quan như hành động của tư tưởng đủ để suy ra một cách biện chứng bản ngã và thế giới.
HỎI: Các triết học về lịch sử đổi mới những luận đề triết học ở những điểm nào?
ĐÁP: Trong những phản bác chống lại học thuyết duy lý giáo điều, và các triết học về Hữu thể, chúng ta đã thấy những học thuyết về nhận thức ấy để qua một bên Lịch sử, như là sự Biến dịch. Chúng ta gọi những Triết học về lịch sử là những học thuyết đưa sự Biến dịch của Nhân loại lên hàng đầu trong quan niệm chung về thế giới. Những triết học ấy được khai sinh chính trong những biến động của Lịch sử cuối thế kỷ XVIII và đầu thế kỷ XIX. Triết gia người Ý , Vico (1668-1744) là cha đẻ của triết học về lịch sử mà ông gọi là “Khoa học mới” và đối tượng là “tìm cách xác định những luật vĩnh cửu chi phối số phận của mọi dân tộc”. Dựa vào những nguyên lý của khoa học ấy, ông viết: “… chúng ta đã tìm kiếm và khám phá những nguồn gốc của các sự vật thần thánh và nhân bản.” Sau đó ông đưa ra quy luật sự “Tiến hóa của các dân tộc”: “Các dân tộc với mọi tập tục rất khác nhau và đa dạng tiến lên với sự đồng đều qua sự phân chia thành ba thời đại… thời đại của các thần linh, thời đại của các anh hùng, thời đại của những con người.” Chắc hẳn, đã có những quan niệm triết học về lịch sử trước Vico: các triết gia khắc kỷ với quan niệm về sự quy hồi vĩnh vửu của các sự vật; học thuyết của Manès, một triết gia Ba-tư với quan niệm về cuộc đấu tranh giữa Thiện và Ác xuyên qua các thời đại, thánh Augustin với cuộc đấu tranh giữa Thành đô Thượng đế với thành đô của dân thờ ngẫu tượng, Bossuet với sự quan phòng soi sáng cho Lịch sử phổ quát, và Voltaire trong cuốn “Luận về lịch sử” với khái niệm chu kỳ văn hóa chứng tỏ rằng đạo ki-tô thuộc về một chu kỳ đã lỗi thời, v.v… Tuy nhiên tất cả những triết học này đều là những siêu hình học đi tìm một sự minh họa trong lịch sử hơn là những triết học về lịch sử đúng nghĩa. Đối với Vico và những người kế tục ông , vấn đề là phải coi Lịch sử như một khoa học và từ đó rút ra ý nghĩa của lịch sử.; điều chủ yếu là dùng lịch sử như phương pháp triết học. Chúng ta thử xem qua những khuôn mặt lớn trong triết học về lịch sử.
1. Theo Hegel (1770-1832), Thực tại là Tinh thần, và Tinh thần không phải là một dữ kiện, nhưng tuyệt đối và siêu việt, nó tự hình thành, nó nhận thức về mình bởi và trong vở kịch lịch sử . Trong biện chứng sống động ấy của lịch sử, những nhà nước đóng vai trò của chúng trước mắt các cá nhân vì những định chế chính trị đánh dấu những giai đoạn của nhận thức tiến dần lên đó. Thật vậy tự do không phải là một dữ kiện của siêu hình học, cũng không phải là một kinh nghiệm riêng tư mà là sự thực hiện của Tinh thần, nghĩa là nó ở chỗ tận cùng của lịch sử , ở giới hạn cuối cùng của một sự tiến lên chậm chạp và bi thảm của lịch sử. Lịch sử là thực tại duy nhất, nó là tính hợp lý khắt khe nội tại là cái Lý tính duy nhất. Con người tưởng rằng mình làm lịch sử, nhưng họ như những nút chai trên biển mà những con sóng cuốn trôi những đam mê và dự tính của họ sử dụng hay vượt qua họ và hướng về một mục tiêu mà họ không biết. “Cái khối lượng bao la ấy của Ý muốn, của những lợi ích và hoạt động tạo nên những công cụ và phương tiện cho thần Vũ trụ hoàn thành mục đích của mình: nâng vũ trụ lên ý thức tự do và thực hiện nó “ (trong “Những bài học về triết học Lịch sử”)
Bước tiến ấy của lịch sử là biện chứng, nghĩa là một Lý tính nội tại và năng động. Hegel phân tích trên mọi bình diện sự khẳng định ấy về Tinh thần trong mọi hoạt động của ý thức và trong mọi biến cố của lịch sử .
2. Theo Auguste Comte (1798-1857), như chúng ta đã thấy “Quy luật của lịch sử” là luật tam trạng. Trong mỗi tình trạng hay thời kỳ (thần lý, siêu hình hay thực chứng) tương ứng một cách nhận thức, một thái độ tinh thần, một trình độ hiểu biết, cũng như một cơ cấu xã hội và một chính sách. Trong thời kỳ thực chứng khi con người đã thật sự khám phá chân trời hiện thực của mình, ý nghĩa của đời sống và chứng minh rằng lịch sử của các thời kỳ đi trước chuẩn bị cho thời kỳ sau cùng này. Nhân loại chứng kiến sự hợp lưu của hai tiến bộ: tiến bộ chính trị và tiến bộ khoa học. Một mặt, sau khi thời kỳ siêu hình phê phán và đánh đổ đối với những định chế và tâm thức của thời kỳ thần lý như tôn giáo, quân chủ chuyên chế, chủ nghĩa đế quốc xâm lược, nô dịch tôi tớ và đặc quyền của chủ, người ta đi đến một thời kỳ sau Cách mạng Pháp với một chương trình xây dựng một trật tự xã hội mới. Mặt khác người ta chứng kiến sự lên ngôi của xã hội học là khoa học thứ sáu và sau cùng theo thứ tự . Theo Comte, mỗi khoa học cũng phải đi qua một sự chuyển biến liên tục trên con đường trở thành một khoa học như khoa chiêm tinh trở thành thiên văn học, thuật giả kim trở thành hóa học. Trong trật tự của các khoa học cũng thế, mỗi bước tiến của một khoa học tạo nên tiến bộ cho khoa học kế tiếp và từ toán học đến thiên văn rồi vật lý, hóa học, sinh học. Tinh thần khoa học ngày một trưởng thành cùng lúc với việc hiểu thấu đáo cái cụ thể. Nhưng sự lên ngôi của xã hội học đem lại cho toàn bộ một ý nghĩa và một mục tiêu. Là Khoa học về nhân loại, về những nhu cầu có thật và bản chất chính xác của loài người, Xã hội học sẽ dẫn đến một tình cảm dành cho nhân loại. Chỉ có xã hội học mới giúp cho việc thiết kế một cơ cấu tổ chức mới đó là cơ cấu của nhà nước thực chứng có những đặc điểm như một xã hội thực chứng với sự cộng tác giữa người lao động và nhà cầm quyền, một tôn giáo của Nhân loại, một nhà nước theo đuổi mục tiêu sản xuất và không đàn áp chinh phục, v.v…
3. Karl Marx (1818-1883) đưa vào thực tiễn “tam trạng” và những ý tưởng của Auguste Comte mà những người đương đại cho là “mơ mộng”. Marx cũng thừa hưởng của Hegel quan niệm bi thảm về lịch sử . Nhưng thay cho “tinh thần”, Marx chủ trương những lực lượng kinh tế sẽ là động lực chủ yếu của lịch sử thể hiện sự vận hành quân bình hay bất thường của chúng. Ba tình trạng hay thời kỳ là thời kỳ chủ nghĩa tư bản ở đó là sự khai thác, bóc lột, những đặc quyền và chủ nghĩa đế quốc, kế đến là chuyên chính vô sản, thời kỳ chuyển tiếp để thủ tiêu chủ nghĩa tư bản và qua giáo dục chuẩn bị cho quần chúng những nhiệm vụ của tương lai; sau cùng là xã hội cộng sản trong đó tự do và sự phát triển của cá nhân được thực hiện. Sự vận hành ấy của lịch sử có tính bi thảm: chế độ tư bản nhường chỗ cho chế độ xã hội chủ nghĩa qua một cuộc đấu tranh ở đó những người vô sản, công dân của thành trì ngày mai có nhận thức về mình, về sức mạnh và tương lai của mình.
“Vào lúc mà cuộc đấu tranh giai cấp bước vào giờ quyết định, tiến trình phân hoá của giai cấp thống trị, của toàn bộ xã hội cũ, mang một tính chất dữ dội và quyết liệt đến nỗi một bộ phận nhỏ của giai cấp thống trị tách ra khỏi giai cấp của mình và liên minh với giai cấp cách mạng, giai cấp mang trong mình tương lai … nhất là bộ phận các nhà ý thức hệ tư sản đạt được sự hiểu biết học thuyết về toàn bộ vận động của lịch sử … Thế chỗ cho xã hội tư sản cũ với những giai cấp và đối kháng giai cấp sẽ xuất hiện một liên minh ở đó sự phát triển tự do của mỗi người là điều kiện của sự phát triển tự do của mọi người” (Tuyên ngôn của Đảng Cộng Sản)
HỎI: Học thuyết hiện sinh là gì ?
ĐÁP: Sự phê phán của Lý tính và học thuyết duy lý mà Bergson đã đưa ra một cách khắc khe, trả lại cho đời sống tính chất tự bản chất là phi lý và đem lại cho cái sống thực (vécu) ưu tiên hơn cái suy tư (pensé), do đó tìm lại luồng tư tưởng lãng mạn trước đó đã lâu của những người chống lại thuyết duy lý và đặc biệt của triết học Kierkegaard (1813-1855), đối thủ của Hegel khi ông đặt đối lập với “sự vận hành của Lịch sử đè bẹp những cá nhân trên đường nó đi qua” của Hegel bằng ý thức sắc bén về bi kịch hiện sinh của con người. Sự vận hành của Lịch sử có lẽ là một giả thuyết và cả lịch sử có lẽ cũng đè bẹp các triết học về Lịch sử và những lời tiên đoán của các tiên tri trong học thuyết ấy (Auguste Comte từ năm 1860 đã tiên đoán rằng người ta sẽ giảng học thuyết thực chứng trên diễn đàn của Nhà thờ Đức Bà Paris thay cho giáo lý công giáo đã lỗi thời!?); theo Kierkegaard, điều có thực hơn cả là những hoàn cảnh con người, những đời sống hay hiện sinh.
Theo một công thức nổi tiếng, học thuyết hiện sinh đảo thứ tứ tương quan yếu tính và hiện hữu. Quả thật như chúng ta đã thấy đối với học thuyết duy lý đã có một bản chất các sự vật được gọi là yếu tính, trong thế giới khả tri, tuyệt đối và vĩnh hằng.
Những yếu tính ấy thể hiện Thực tại đích thực, Chân lý và vô số những sự vật hiện hữu chỉ là phản ảnh, là tiền lẻ của những yếu tính ấy. Những sự vật hiện hữu này chỉ có giá trị tương đối đối với tư duy và khoa học. Theo học thuyết hiện sinh, không có những yếu tính thuộc loại đó; thực tại duy nhất là thực tại được sống, thực tại của những hiện hữu hay hiện sinh, cả khi chúng phi lý, tạm thời (sử tính của hiện sinh). Hệ quả là không có “bản chất” con người (của “ý tưởng” con người) và con người là một tương lai, là điều mà nó phải trở thành; Lý tính là một sự lừa bịp, thực tại duy nhất là “cảm nghiệm”: cảm nghiệm đời sống trong sự phi lý của nó, cảm nghiệm hư vô trong nỗi ưu phiền, cảm nghiệm trong lo âu xao xuyến rằng chúng ta là những hữu thể hướng về cái chết, tóm lại cảm nghiệm hiện sinh như một con đường mà chúng ta phải vạch ra nhưng không biết nó về đâu.
Theo sau Husserl (1859-1938), người mở đường cho hiện tượng luận (đối với ông những yếu tính là những hiện hữu) một phong trào triết học hiện sinh gồm hai dòng chính xuất hiện trong thời hiện đại: học thuyết hiện sinh vô thần với Heidegger ở Đức và Jean-Paul Sartre ở Pháp; học thuyết hiện sinh siêu việt với Karl Jasper ở Đức và Gabriel Marcel ở Pháp.
Những Học Thuyết Về Tri Thức
HỎI: Tri thức học là gì ?
ĐÁP: Siêu hình học bắt đầu bằng tri thức học (épistémologie) nghĩa là sự suy nghĩ về các phương tiện của nhận thức, đặc biệt kiến thức khoa học và giá trị của chúng. Nhận thức của cảm giác có giá trị gì? Nhận thức của lý tính có giá trị gì? Nhận thức của tình cảm có giá trị gì? Cũng như nhiều vấn đề mà Chân lý đặt ra. Khi đi tìm một điều chắc chắùn, người ta có thể theo nhữõng quan điểm khác nhau.
HỎI: Thái độ duy nghiệm ngây thơ là gì?
ĐÁP: Sự tin tưởng đầu tiên của lẽ thường là một thái độ duy nghiệm ngây thơ theo diễn ngữ của Le Senne trong cuốn “Nhập môn triết học”, 1949 nghĩa là chúng ta mong đợi những chỉ dẫn đích thực về thế giới bên ngoài từ những dữ kiện của các giác quan. “Để biết điều gì đang tồn tại, chỉ cần xác nhận bằng cảm nhận, nhìn xem, sờ mó, v.v… Nói cách khác tri giác là nhận thức đúng”. Hai hậu quả của học thuyết duy nghiệm hay niềm tin duy nhất vào kinh nghiệm là : (1) Thực tại là một vật chất với những phẩm tính như hình khối, quảng tính (trương độ), khối lượng, hình thể, màu sắc v.v…; nó nằm ngoài và độc lập với chúng ta; nó có trước sự hiểu biết mà chúng ta lãnh nhận và sẽ tiếp tục tồn tại “tự thân” khi chúng ta không còn tri giác nó nữa. Những đối tượng của tri giác thì hoàn tòan khách quan; (2) Thực tại của con người là một phần của vũ trụ hiện thực ấy.
HỎI: Thái độ duy nghiệm ấy gặp phải vấn đề gì với một kinh nghiệm đầy đủ hơn?
ĐÁP: Trước tiên chúng ta gặp chính hiện tượng cảm giác: Nếu tri giác là “khách quan”, chúng ta buộc phải thừa nhận rằng nó cũng chủ quan. Vả lại chúng ta có những kinh nghiệm tri giác ảo, chẳng hạn trong lúc nằm mơ, và những tri giác sai lầm như tri giác của những người mắc bệnh mù màu đỏ, của những người bị ảo giác, hay của người tàn tật vẫn còn cảm nhận cảm giác tồn tại ở một chi đã bị cưa cụt. Căn cứ vào đâu để phán đoán một số tri giác là có thật và một sốâ khác là sai lầm? Đâu là những “dấu hiệu của thực tại”? Có phải đa số sẽ tạo nên giá trị khách quan ? Con số đông những người sai lầm không biến một lầm lẫn thành chân lý. Mặt khác chúng ta hoàn toàn vô cảm với những thực tại mà chúng ta biết là chắc chắn ví dụ như sự chuyển động của trái đất hay những tia tử ngoại, sự hoạt động của phần lớn các cơ quan nội tạng. Tóm lại chúng ta thừa nhận rằng bản chất của tri giác lệ thuộc vào cấu trúc của các giác quan và của ý thức chúng ta.
HỎI: Nhận thức thể hiện như một tương quan giữa một khách thể và một chủ thể như thế nào?
ĐÁP: Chúng ta có thể nghiên cứu những mô thức của tương quan ấy trong vấn đề tri thức. Chủ thể dường như làm nghèo nàn thực tại: các giác quan của chúng ta có giới hạn, mắt chúng ta chỉ tri giác những độ dài sóng trong khoảng từ 0,4 đến 0,8 mi-crôn, một số thú vật có những bộ phận với những chức năng giả định. Anatole France hỏi rằng : “ Thế giới sẽ là gì nếu chúng ta nhìn nó qua đôi mắt kép của con ruồi và bộ não của con đười ươi. Nhận thức tri giác của chúng ta xem ra đặc thù, cá nhân và bấp bênh”. Mặt khác, chủ thể còn làm “lệch lạc” hay biến dạng khách thể . Nhân cách, những tình cảm, cảm xúc và đam mê, những tập quán hay kinh nghiệm theo nghĩa rộng cho chúng ta những “cái nhìn” khác nhau về thực tại, và những hoàn cảnh được tri giác có những ý nghĩa thay đổi tùy theo từng chủ thể và tùy theo từng lúc. Nói như cụ Nguyễn Du: “Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ!” Sau cùng khách thể chỉ tồn tại cho một chủ thể. Chủ thể khám phá tính chủ thể của mình khi khám phá tính chủ thể của mọi tri giác. Cho dù chúng ta nghĩ rằng chính khách thể là cái mà những tri giác của hết thảy mọi chủ thể có chung, thì khách thể vẫn tương đối với “ý thức con người nói chung” và do đó người ta không thể tìm thấy một tính khách thể xác thực trong tri giác. Các tri giác về cũng một khách thể nào đó có thể khác nhau trong cùng một thời điểm. Tôi không thể tin rằng cây gậy nhúng trong nước là hai cây gậy dù tôi nhìn thấy nó bị gẫy do sự khúc xạ trong khi tôi cảm thấy nó thẳng khi sờ.
HỎI: Vậy phải chăng việc suy tư thừa nhận có hai thế giới?
ĐÁP: Hai thế giới đó là thế giới của vật chất, lãnh vực của toán lý, và thế giới của chủ thể, lãnh vực của những “phẩm tính thứ hai”. Và chúng ta có “nhị nguyên luận” và chính Descartes đã đem lại sự hình dung đầy đủ. Cuộc cách mạng của Descartes chủ yếu là tách tính chủ thể ra khỏi thực tại và tuyên bố rằng thực tại luôn là một thế giới khách quan nơi ngự trị các con số, những phương trình toán học và những cấu trúc vật lý của các sự vật. Ông phân biệt: (1) Vật chất, có trương độ, liên tục, đồng chất, không có chân không, lưu chất không thể nén được ở ba chiều kích và không có phẩm chất nào khác. Hết thảy đều là phẩm tính và con số ; sự khác nhau là do vận động và những hình thể (mà Descartes gọi là “hình dạng” ). Trong vũ trụ ấy là vũ trụ toán lý, chỉ có chỗ cho tính nhân quả của quy luật tất yếu; ở đó tất cả đều có tính cơ giới. (2) Ý thức con người, là cái “suy tư , ước muốn, cảm nhận, tưởng tượng, quan niệm”, là tính chủ thể thuần túy. (3) Thế giới của các hiện tượng và của động thái là những hỗn hợp của tính khách thể (vật chất và những quy luật tất định) và tính chủ thể (ý thức và những phẩm tính được tri giác).
HỎI: Việc khám phá “vũ trụ khả tri” thúc đẩy bước tiến của khoa học và các triết học về Hữu thể như thế nào?
ĐÁP: Thật vậy, vũ trụ khả tri ấy là vũ trụ của khoa học ở đó ngự trị tính nhân quả của quy luật toán lý. Một hệ thống nhân quả bất biến là cái nền của sự biến dịch; thực tại “chứa đựng” một bộ khung hợp lý nhờ đó nó chống lại sự tưởng tượng của chúng ta và sẵn sàng giúp ta hành động. Những tri giác không đi theo nhau trong một thứ tự bất kỳ nào; sự nối tiếp của chúng được thiết lập trên một Trật tự mà bản chất là hợp lý, được tính Tất yếu điều hành . “Người ta không thể hiểu tốt hơn khái niệm tính tất yếu trên đó thiết lập tính tất định, cần thiết cho mọi khoa học và mọi sự tiên liệu khi đặt nó đối lập với khái niệm ngẫu nhiên” (La Senne, Dẫn nhập vào triết học). Thật vậy ngẫu nhiên là không tất yếu; một biến cố gọi là ngẫu nhiên trong mức độ nó chỉ ở bên cạnh những hiện tượng khác và không có một liên kết cần thiết nào với chúng; nó cũng có thể có mặt hoặc không có mặt vào thời điểm xác định nó đến. Người ta chỉ có thể xác nhận mà không tìm cách hiểu, vì hiểu như chúng ta đã thấy chính là khám phá những nguyên nhân và sự liên kết sự kiện ấy với tất cả những sự kiện khác. Chính tính tất yếu cho phép thực tại không rơi vào tình trạng bất ổn mà tính ngẫu nhiên kéo nó vào. Nhờ sự ổn định và bất biến của tính Tất yếu, người ta có thể nói thực tại hiện hữu hay tồn tại. Khái niệm tất yếu thiết lập khái niệm hữu thể. Triết học tương ứng với quan niệm này là học thuyết duy lý, theo đó có một Trật tự trong tự nhiên và một trật tự thấm nhập vào Lý tính con người.
HỎI: Phải chăng Hữu thể bền vững ấy, bất biến và tất yếu ấy đã đánh mất hiện sinh?
ĐÁP: Thật vậy hiện sinh (existence) bị đánh mất vì chúng ta chỉ cần lập một bảng kê tất cả những gì bị loại bỏ khỏi vũ trụ khả tri ấy để cảm thấy Hữu thể (hay Tồn tại) ấy rất xa với thực tại. Nó đã loại bỏ: (1) Thời gian. Bergson đã chỉ ra trong cuốn “Tư tưởng và cái vận động” hai loại thời gian: thời gian mà khoa học quan niệm, ví dụ quãng đường bằng tốc độ nhân cho thời gian và thời gian sống. Cái thứ nhất luôn luôn là một khoảng thời gian , nghĩa là một thời gian nào đó trôi đi từ một thời gian khởi hành (to) đến một thời gian đến (tn). Trong một khoảng thời gian, người ta đếm con số đơn vị thời gian được đo bằng sự di chuyển mẫu (kim trên mặt đồng hồ). Thời gian khoa học do đó thấm đẫm lượng tính (sự đo lường, đơn vị, cách tính) và không gian (mặt đồng hồ hay đơn vị thời gian đưa lên tung độ hay hoành độ của biểu đồ…) Khi lặp lại kinh nghiệm, người ta trở về thời gian to. Thời gian sống, thời gian của đời tôi hoàn toàn khác. Ở đó những giờ dài hơn hoặc ngắn hơn tùy theo sự u sầu hay phấn khởi của tôi và nhất là nó không thể quay trở lại, tôi không bao giờ có thể trở lại thời điểm ban đầu. Vả lại theo Bergson, thời gian sống mà ông gọi là kỳ gian có một tính chất còn quan trọng hơn vì nó khác nhau đối với mỗi người (mỗi người có một nhịp sống kỳ gian riêng) và nó có tính sáng tạo (kỳ gian ấy làm xuất hiện không ngờ những thay đổi, những sự biến hình hay những hình thức mới). Ngoài khía cạnh ấy của thời gian sống đặc thù mà các triết học về Hữu thể loại bỏ, chúng ta cũng phải thêm Lịch sử hay sử tính. Thế giới khả tri vốn là một hệ thống tất yếu các quy luật và các nguyên nhân nên nó không có quá khứ, không có tương lai, nó ở trong vĩnh cữu. (2) Cái ngoại lý . Tất cả những gì bị loại bỏ nhân danh trật tự tất yếu của luận lý, vẫn tiếp tục phình ra trong đời sống. Cái phi lý và hư vô đã hẳn không có chỗ trong hữu thể thuần lý, thế nhưng chúng ta thấy nó trong đời sống hàng ngày trong sự tình cờ, tai nạn hay trong nỗi buồn phiền và lo lắng, cũng như trong tất cả những thực tại nhân sinh như sai sót, lỗi lầm, tự do chọn lựa giữa những khả thể và nhất là cái chết. (3) Ý thức. Nếu khách thể được nhận biết hợp lý, nó hiện hữu , cả bên ngoài ý thức mà chúng ta có về nó. Sự kiện trở thành hữu thức không thêm gì cho hữu thể của nó. Trái lại để có saisót, ảo tưởng, lỗi lầm phải giả định một ý thức, hữu thể của những điều đó là hữu thể hữu thức. Đối với những thực tại đó, ý thức không còn là một phụ tượng không thêm gì vào cho hữu thể nhưng đúng hơn là chính bản chất của chúng.
HỎI: Khái niệm về kinh nghiệm tiến hóa là gì?
ĐÁP: Khái niệm này phát sinh do việc xuất hiện của thực tại hữu thức trong thế giới.
Học thuyết duy nghiệm tìm kiếm một nhận thức đúng bởi tri giác. Do đó nó đặt khách thể ở bên ngoài và quan niệm ý thức thụ động trong tri giác.
Học thuyết duy lý tìm kiếm nhận thức về khách thể bởi Lý tính đặt nặng sự hiện hữu của một “khách thể khả tri” và quan niệm chủ thể thụ động trong sự “khám phá” hay trong trực giác về tương quan hợp lý có trong khách thể. Nếu chúng ta quan niệm ý thức như một hoạt động, dù ở bình diện tri giác hay ở bình diện thuần lý, kinh nghiệm phải thôi không còn là một sự thụ nhận để trở thành một hoạt động hay một thao tác. Tinh thần sẽ có mặt khắp nơi trong kinh nghiệm mà nó thực hiện và trong tương quan thuần lý mà nó khám phá. Thực tại không còn là một dữ kiện nhưng bởi đó trở thành một sự thực hiện. Vũ trụ không còn là hữu-thể-không -Lịch-sử để đến lượt nó trở thành một Hiện thể. Qua những trình bày trên, chúng ta thấy từ học thuyết duy lý đã kéo theo những học thuyết khác phát sinh do việc phê phán thuyết duy lý. Và việc phê phán ấy nổ ra theo bốn hướng chính: hướng canh tân học thuyết duy nghiệm, hướng triền khai các học thuyết duy tâm, các triết học về Lịch sử và các triết học về hiện sinh hay đời sống. Chúng ta sẽ tuần tự tìm hiểu các học thuyết ấy.
HỎI: Học thuyết duy lý là gì?
ĐÁP: Học thuyết duy lý là triết học của khoa học cổ điển và được xây dựng trên hai nền tảng (1) Sự hiện hữu của một TRẬT TỰ nghĩa là một cấu trúc hợp lý (hay đúng hơn là cấu trúc toán học) của vũ trụ và (2) Sự hiểu thấu TRẬT TỰ ấy của trí tuệ con người, nghĩa là khả năng của Lý tính khám phá và hiểu được trật tự ấy.
Khuyết điểm của kinh nghiệm không phản tỉnh là trình bày cùng lúc cái tùy phụ và cái tất yếu, cái ngẫu nhiên và cái xác định, cái đúng và cái sai. Chứng cứ là một đứa trẻ khi bắt chước người lớn thường lẫn lộn giữa cái chính yếu và cái tùy phụ ví dụ người cha cắt cây mọc quanh nhà làm thành một hàng rào thẳng thóm, đứa con nhỏ bắt chước và chỉ cắt có vài cây nhưng lại cắt trụi. Hoặc khi cô giáo vô tình viết sai chính tả trên bảng, các học sinh viết lại và viết sai theo. Qua những ví dụ ấy các bé chưa có sự phân biệt giữa cái chính yếu và tùy phụ, giữa cái tất yếu và ngẫu nhiên.
Lý tính can thiệp một cách tổng quát để tách kinh nghiệm ra khỏi những gì là ngẫu nhiên trong kinh nghiệm, để thanh lọc kinh nghiệm và chỉ giữ lại cái nền hợp lý. Ngay khi lý tính nhận ra cái nền ấy, nó có thể bỏ qua kinh nghiệm thường chỉ kéo theo những điều ảo tưởng.
Một ví dụ nổi tiếng có trong lịch sử là cuộc tranh luận về “chân không” của thế kỷ XVII. Descartes diễn dịch một cách hợp lý từ vật lý học của ông rằng “chân không không tồn tại”; Pascal lấy lại những kinh nghiệm của Torricelli khi ông này làm những thí nghiệm trên núi Puy-de-Dôme cho thấy chân không tồn tại trong ống nghiệm thủy ngân đo áp suất khi cột thủy ngân tuột xuống. Vậy tin ai được? kinh nghiệm hay lý tính. Cuộc tranh luận giữa các nhà bác học làm người này thích thú, người kia khó chịu. Thậm chí có một linh mục còn cho xuất bản một cuốn sách nhan đề “Chỗ đầy của chân không” !! Ngày nay chúng ta biết rằng Pascal và Descartes không nói về cùng một thứ chân không: trong ống nghiệm của Torricelli có chân không của không khí nhưng vẫn còn trường trọng lực hay như Descartes đã nói về trương độ (quảng tính) của sự vật “res extensa”. Nếu kinh nghiệm có thể dùng làm tấm ván nhún cho toán lý thì Lý tính sau đó chỉ tham chiếu kinh nghiệm bởi những lần thăm dò với khoảng cách ngày càng xa. Kinh nghiệm sau cùng bị Lý tính gạt ra ngoài. Không phải vận rủi làm các tay cờ bạc bị thua mà chính là những quy luật của phép tính xác suất, không phải việc thở làm chúng ta sống mà chính là luật sinh học về sự ô-xy hóa và những tính chất hóa học của hồng cầu. “Tự nhiên là một mạng lưới các quy luật hợp lý ẩn núp trong sương mù kinh nghiệm mà sự suy tư có phương pháp và hợp lý xua tan lớp sương mù ấy”. Trong tính tất yếu vật lý ấy ần núp tính tất yếu hợp lý giống nhau và đồng thời trong các sự vật và trong trí tuệ con người; vì lý do đó mà toán học được áp dụng vào vật lý học. Thật vậy, ý tưởng tất yếu không hề bị hạn chế trong ý thức chúng ta, trước sự suy lý của toán lý nghĩa là tính tất yếu thì hơn cả “một tình cảm bất lực, tuyệt vọng và hối tiếc”, theo cách diễn tả của Kierkegaard; nó là một tổng giác hay trực cảm của trí tuệ để thấy rằng những hệ quả là sự phát triển nội tại của sự định nghĩa ban đầu. Định lý “bình phương cạnh huyền bằng tổng bình phương của hai cạnh góc vuông” đã nằm trong định nghĩa về một đối tượng của trí tuệ : tam giác vuông. Do đó ý tưởng về tất yếu lệ thuộc chặt chẽ vào ý tưởng về nhân quả. Một khi định nghĩa hay công thức được đặt ra, những hệ quả được rút ra từ đó, như những hệ quả của vật lý theo sau các nguyên nhân của chúng. Đối với học thuyết duy lý, sự “ngẫu nhiên” là một ảo tưởng do hiện nay người ta không biết một số nguyên nhân nào đó; tự do (mà chúng ta sẽ bàn đến) không hề có tính sáng tạo: nơi mỗi cá nhân, tự do chính là ở chỗ đi từ bình diện hiện tượng và tính chủ quan đến bình diện các quy luật và sự tất yếu luận lý, nó là sự từ bỏ ảo tưởng và chấp nhận Trật tự.
Tuy nhiên chính niềm tin vào Lý tính cứu sống tính chất thật sự duy lý của các học thuyết duy khoa học (scientisme) hay duy trí (intellectualisme) chặt chẽ. Lý tính đối với Platon cũng như đối với Descartes hay Spinoza không chỉ là một khả năng khám phá Trật tự có trước, nó chính là một “cơ may cho con người”, một đức hạnh luân lý, là chính Ý chí. Bằng Lý tính, Descartes đề nghị con người cộng tác cho một Trật tự không ngừng sáng tạo, và Spinoza quan niệm sự tiến bộ của Lý tính là một tiến bộ hướng đến sự Thiện: khi khám phá trật tự hợp lý của vũ trụ, hiền giả hay hiền minh (sage) thiết lập trong bản thân mình một trật tự và khi học cách nhận biết điều gì hiện hữu (tồn tại) thật, người ấy không còn nguy cơ đánh mất chính mình trong những vẻ bề ngoài sai lầm, trong những ảo tưởng phù du và trong sự lẫn lộn của các đam mê.
HỎI: Học thuyết duy nghiệm là gì ?
ĐÁP: Học thuyết duy nghiệm trước tiên là một niềm tin mù quáng vào các tri giác trong kinh nghiệm, nhưng trên hết đó là một phản ứng chống lại học thuyết duy lý. Thật vậy Lịch sử triết học cho thấy luôn luôn có sự gia tăng của thuyết duy nghiệm sau những thời kỳ có sự thống lĩnh của một thuyết duy lý. Có một sự kiện mang tính tượng trưng là một tác phẩm của học thuyết hoài nghi thuần túy nhất nhan đề “Chống lại những giáo điều” mà tác giả là Sextus Empiricus, thế kỷ thứ II sau công nguyên. Biệt danh của vị y sĩ ấy, một người có lập trường đi theo kinh nghiệm chống lại uy quyền của luận lý, lại còn là thành viên trong phái của Pyrrhon cho thấy rằng phản ứng của duy nghiệm của thời kỳ ấy đã tiến gần đến thuyết hoài nghi. Vả lại phản ứng ấy đã phát sinh để chống lại một học thuyết duy lý: học thuyết của Platon. Chúng ta cũng sẽ thấy sau học thuyết Tô-ma là sự xuất hiện của học thuyết duy danh; sau học thuyết Descartes là sự phát triển của học thuyết duy hiện tượng, và chống lại Kant, có thuyết tiến hóa thực chứng.
HỎI: Thế nào là thuyết duy nghiệm hoài nghi?
ĐÁP: Nỗ lực mà Platon đòi hỏi là phải đoạn tuyệt hoàn toàn với thế giới khả giác để quay về với thế giới khả tri, thế giới của những Ý niệm mà tính bền vững và tính thường hằng bảo đảm tính khả tri, đối lập với sự Biến dịch không thể hiểu được của thế giới những cảm giác. Aristote mặc dù có sự đối lập rõ ràng với Platon nhân danh cái cụ thể và vật sống (Aristote là y sĩ, Platon là nhà toán học), và ông đã phục hồi kinh nghiệm có trước mọi ý niệm, nhưng ông nói rằng trí tuệ xây dựng khoa học khi phân biệt cái “phổ quát” nằm trong cái “đặc thù”, cái tất yếu nằm trong dữ kiện ngẫu nhiên và là Mô thức nội tại giải thích mỗi hiện tượng và mỗi tồn tại. Platon đã đặt các ý niệm trong một thế giới khác và để nhìn thấy chúng, cần phải quay lưng lại, buông bỏ thế giới khả giác: triết học của ông do đó là triết học về tính siêu việt; Aristote đặt các ý niệm trong những dữ kiện khả giác, và trí tuệ rút nó ra: triết học của Aristote do đó là triết học của tính nội tại; nhưng dù sao trong cả hai trường hợp, người ta cũng đi đến công thức : “Chỉ có khoa học của cái phổ quát và tất yếu” và các nhà duy nghiệm thời đó sẽ công kích hai ông chính vì hai ông vượt qua thế giới khả giác thuần túy. Các triết gia đối lập trước tiên khẳng định ý muốn của họ là “không hủy bỏ những biểu hiện (vẻ bên ngoài)” Rồi từ Pyrrhon đến Aenésidème, họ cho rằng phán đoán của chúng ta yếu kém, mà “con người là thước đo của mọi vật” như Protagoras đã nói, con người còn rất kiêu ngạo khi cho những tư tưởng của mình là chân lý khách quan. Đó là khía cạnh duy nghiệm của họ. Nhưng mặt khác họ lại thấy tính không bền vững và trôi qua của thế giới khả giác nên sau cùng họ chỉ còn biết ẩn náu trong thuyết hoài nghi, đó là khía cạnh hoài nghi trong triết học duy nghiệm của họ: không nhận thức nào là khả hữu.
HỎI: Thế nào là thuyết duy nghiệm duy danh?
ĐÁP: Sự cách tân của học thuyết Aristote vào thời trung đại làm xuất hiện một thuyết duy nghiệm mới. Thánh Tô-ma khẳng định rằng đối tượng của nhận thức là cái “phổ quát trực tiếp” nghĩa là Ý niệm nhưng ý niệm này chỉ tồn tại trong tự nhiên dưới hình thức cá thể hóa, vật chất hóa. “Tác nhân trí tuệ” khám phá những ý niệm và cho chúng sự tồn tại thuộc một loại mới, tồn tại theo tư tưởng. Tự thân những “phổ niệm” ấy, những “bản chất” (yếu tính) ấy của các sự vật và hữu thể luôn tồn tại,và chỉ mình trí tuệ nhận biết chúng. Chúng ta tìm lại được Thực tại của những Mô thể (Forme) khả tri. Ngay sau đó, phản ứng duy nghiệm được phát động nhân danh kinh nghiệm thuần túy: Occam chống lại thánh Tô-ma rằng chỉ có một thực tại, thực tại được tri giác, rằng các phổ niệm không có sự tồn tại nào bên ngoài ý thức, do đó chúng không liên quan gì đến cái thực hữu, đó chỉ là những từ ngữ. Thuyết duy danh ấy (do nomen: danh từ , dấu chỉ) trả những ý niệm và những tương quan của thế giới khả tri về bình diện hoàn toàn ngôn từ . Học thuyết duy danh đã phát động một “cuộc tranh luận về các phổ niệm”.
HỎI: Thế nào là thuyết duy nghiệm duy hiện tượng?
ĐÁP: Như chúng ta đã biết Descartes là một người bênh vực đặc biệt cho học thuyết duy lý. Vật lý học của ông dựa trên một siêu hình học về Hữu thể. Bên ngoài chúng ta có một Trật tự khách quan và những “yếu tính”, nghĩa là một “bản chất” của mỗi sự vật, bản chất này có thể được định nghĩa hợp lý và liên kết hợp lý với những bản chất khác. Cũng thế những Ý niệm khi được giải phóng khỏi sự tối tăm và sự mơ hồ của những dữ kiện khả giác, sẽ trở nên sáng sủa, rõ ràng tương ứng với những bản chất thuộc hữu thể (nghĩa là cái“tồn tại tự thân”). Vậy chúng ta có trong mình một nhận thức hình thành trước về các chân lý, đó là thuyết bẩm sinh (chân lý và các chân lý đã hình thành trước trong chúng ta). Ngay sau đó một phản ứng duy nghiệm đã phát triển để chống lại thuyết duy lý đó:
(1) Locke (1632-1704) tuyên bố rằng mọi nhận thức là kinh nghiệm và chỉ có thể đến từ kinh nghiệm. Chống lại thuyết bẩm sinh, ông viết “Nihil est in intellectu quod non prius fuerit in sensù”(Không có gì trong trí tuệ mà trước đó không có trong các giác quan) hay diễn ngữ nổi tiếng table rase: “Tinh thần của một đứa trẻ lúc sinh ra như một trang giấy trắng, nhà giáo có thể viết vào đó cái gì ông muốn”.
(2) Hume (1711-1776) đến lượt ông cũng không tin rằng có thể có một sự vật gì khác ngoài cái chúng ta tri giác (thuyết duy hiện tượng). Trong cuốn “Luận về bản chất con người” ông viết:“Chúng ta sẽ không bao giờ tiến thêm một bước bên ngoài mình và chúng ta không thể quan niệâm bất kỳ loại tồn tại nào ngoài những tri giác.” Đi sâu vào “bản chất của các vật thể”, “giải thích những nguyên nhân” các vận động của chúng đều nằm ngoài sự hiểu biết của con người; khoa học chỉ là sự lừa bịp. Các luật gọi là luật tự nhiên chỉ là sự phóng chiếu thói quen mà chúng ta có để nhìn các hiện tượng nối tiếp nhau. Sự chờ đợi hiện tượng tiếp theo khi hiện tượng quen thuộc đi trước vừa xuất hiện, đó là điều mà chúng ta gọi là sự “tất yếu khách quan”. Trong tâm lý học, người ta gọi đó là sự liên tưởng. Trên thuyết duy nghiệm triệt để này treo lơ lửng một thuyết hoài nghi không kém phần triệt để, nhưng Hume thoát được thuyết hoài nghi bởi sự tín nhiệm mù quáng vào đời sống và vào một sức mạnh phổ quát liên kết các ý tưởng (sức mạnh của tập quán hay lý tính), lôi kéo các hành tinh (lực hấp dẫn), liên kết các hữu thể và thiết lập nền tảng đạo đức (lực đồng cảm).
HỎI: Thế nào là thuyết thực chứng của Auguste Comte?
ĐÁP: Có những hình thức tinh tế của thuyết duy nghiệm xuất hiện trong thế kỷ XIX là thuyết thực chứng, thuyết tiến hóa và thuyết duy xã hội.
Như chúng ta đã biết, thuyết thực chứng của Auguste Comte chủ yếu bác bỏ siêu hình học giáo điều cổ điển và xây dựng thời kỳ thực chứng với sự lên ngôi của tinh thần khoa học. Đã hẳn tinh thần khoa học được định nghĩa như “việc sử dụng phối hợp kinh nghiệm và Lý tính”, nhưng nhất là nó được xác định với một định nghĩa mới về luật vật lý. Nó không còn là một phần của hệ thống khả tri, có thực thể và nguyên nhân; nó không còn là một yếu tính hay một bản chất để trở thành một chức năng (fonction), một tương quan bất biến mà sự quan sát thiết lập giữa hai hiện tượng. Học thuyết thực chứng từ chối “tìm kiếm các nguyên nhân”; nó chỉ tìm kiếm các tương quan giữa những dữ kiện được quan sát bên ngoài, nghĩa là giữa những tri giác. Thuyết thực chứng coi những luật-chức- năng này như những sự kiện ; nó không tìm cách chứng minh chúng. Với thuyết thực chứng, khoa học cổ điển đánh mất siêu hình học duy lý để tìm lại ưu tiên hàng đầu của kinh nghiệm. Sau này chúng ta sẽ thấy rằng khoa học hiện đại vừa duy nghiệm vừa duy lý, thực nghiệm và toán học, mọi lập luận khoa học chỉ được chứng minh bằng một kinh nghiệm (hay thí nghiệm) và mọi kinh nghiệm chỉ được hiểu bởi một lập luận. Điều chúng ta nhấn mạnh ở đây trong thuyết thực chứng là sự phục hồi kinh nghiệm. Tuy nhiên trước hết đây là một triết học về Lịch sử (với luật tam trạng). Điều này còn gặp thấy trong các triết học lịch sử khác sau đây.
HỎI: Thế nào là thuyết tiến hóa của Spencer?
ĐÁP: Khi sử dụng những khái niệm chính của thuyết biến chủng hay biến hóa (như của Darwin), thuyết tiến hóa của Spencer phát triển từ một thuyết duy nghiệm chặt chẽ. Trong cuốn “Những nguyên lý đầu tiên”, ông nói: “Ý thức được phát triển trong mức độ những dữ kiện của kinh nghiệm được sắp xếp thành nhóm, trong mức độ những cảm giác thường được lặp lại nhất và tương quan giữa chúng với nhau trở thành khá quen thuộc để được thừa nhận khi chúng thể hiện”. Vì thế nhận thức là một sự “nhận thức lại”. Khoa học, niềm đam mê mới này, từ khước hiểu thực tại hay giải thích nó và chỉ tìm cách xác nhận. Spencer cũng nói: “Khoa học không làm gì khác việc hệ thống hóa những kinh nghiệm của chúng ta và không mở rộng những giới hạn của kinh nghiệm dù chỉ một độ… Tất cả những gì mà chúng ta có thể làm là giải thích sự sắp xếp các sự vật như nó thể hiện với ý thức hạn chế của chúng ta; nhưng sự sắp xếp mà chúng ta nhận thấy có tương quan như thế nào với sự sắp xếp của thực tại chính là điều mà chúng ta không thể suy xét và càng không thể hiểu”.
HỎI: Thế nào là thuyết duy xã hội của Durkheim?
ĐÁP: Durkheim tự đặt mình vào vị trí trung gian giữa thuyết duy nghiệm và thuyết “tiên nghiệm cổ điển”; ông rút ra mọi sinh hoạt tâm lý và đạo đức từ kinh nghiệm của đời sống tập thể . Vả lại đối với các nhà xã hội học, kinh nghiệm của ý thức tập thể xem ra là suối nguồn của mọi phán đoán, mọi tư tưởng hợp lý và mọi nền đạo đức. Tóm lại, chúng ta đã thấy một cách cụ thể lược đồ toàn cảnh của những phản ứng duy nghiệm khác nhau để chống trả lại học thuyết duy lý khi thuyết duy nghiệm hoài nghi sự tồn tại của một trật tự nhân quả tất yếu cũng như niềm tin vào giá trị siêu hình của Lý tính để dừng lại ở một kinh nghiệm thuần túy và khi nó đồng ý cho là hợp pháp việc giản lược tất cả Thực tại vào sự tồn tại của chỉ một khách thể được quan sát. Vả lại nhận thức khả giác không thể thoát khỏi sự phê phán giá trị nhận thức của nó. Đối với người theo thuyết duy nghiệm chỉ có các hiện tượng; người ta không nên và cũng không thể suy diễn bất cứ tồn tại nào bên kia hiện tượng. Sự phủ nhận nguyên lý nhân quả (chỉ là sự nối tiếp nhau đối với ý thức) và nguyên lý bản thể (chỉ là một sự vật trừu tượng), lấy đi tất cả “nội dung biểu tượng” của tri giác. Chỉ còn lại một việc là tham dự – một cách tuyệt vọng như Pyrrhon hay với sự tín nhiệm mù quáng như Hume – vào “chuyến tàu của các ý niệm”, vào sự nối tiếp vốn đã vô cớ, của những hình ảnh được chúng ta điều chỉnh trên sân khấu nội tâm,… cũng không phải là “nội tâm chúng ta” vì sự thống nhất của cá nhân theo Hume là một sự suy diễn của lý trí.
HỎI: Ba cách hiểu sai nào về học thuyết duy tâm phải được loại bỏ?
ĐÁP: Cả thuyết duy nghiệm và thuyết duy lý đều thừa nhận tính khách quan của nhận thức ; chúng chỉ khác nhau khi quan niệm về phương tiện: với thuyết trước là kinh nghiệm khả giác, với thuyết sau là lý tính hay lý trí. Vả lại tính khách quan của nhận thức đã bị học thuyết duy tâm đặt thành vấn đề. Theo các đồ đệ của học thuyết duy tâm, cái mà chúng ta hiểu là tính khách quan thật ra là tính chủ quan vốn không thể bị giản lược hay thu nhỏ hay ít nhất tính khách quan luôn tương đối theo cách thức tri giác và hiểu biết của con người. Le Senne trong cuốn “Dẫn nhập vào triết học” đã viết: “Học thuyết duy tâm là triết học theo đó những sự vật chỉ tồn tại bởi hành động của một tinh thần suy nghĩ chúng”. Thế nhưng có những cách hiểu sai về thuyết duy tâm, hoặc hiểu sai theo nghĩa thông thường, hoặc coi nó là học thuyết duy chủ thể toàn diện không được ai ủng hộ, hoặc theo nghĩa bút chiến mà những người theo học thuyết duy vật thường gán cho nó.
(1) Cách dùng theo nghĩa thông thường: Trong ngôn ngữ thông thường, thuyết duy tâm đối lập với thuyết duy thực, con người duy tâm trái ngược với con người duy thực (hay duy hiện thực). Con người duy thực là người được phú bẩm một tinh thần thực tiễn, bám lấy những thực tại khả giác, tâm lý hay xã hội, luôn luôn giữ tư tưởng mình trong môi trường của các thực tại ấy … trái lại con người duy tâm được xác định như người không đếm xỉa gì đến những thực tại ấy, hoặc vì người ấy khinh chê chúng, hoặc vì không biết chúng và cứ theo đuổi những giấc mơ thần tiên hay ma quái để thực hiện những lý tưởng mà họ tự xây đắp cho mình; vì thế người ta sẽ nói rằng ý tưởng “bản chất con người là tốt lành” theo J.J. Rousseau là một thuyết duy tâm, hay những tuyên bố của Don Quichotte cho rằng mình phải lên đường hành hiệp vì kẻ thù của mình và của dân lành có mặt khắp mọi nơi.
(2) Thuyết duy tâm chủ quan. Đây là một hình thức châm biếm chống thuyết duy tâm. Các đối thủ của thuyết duy tâm thường cho rằng học thuyết này chủ trương một khẳng định tính chủ thể toàn diện của tri giác. Thế giới bên ngoài không tồn tại và là sản phẩm của bản ngã như một giấc mơ trường cửu. Mỗi người chúng ta bị giam hãm trong trong vũ trụ của những tình trạng ý thức, không thể ra khỏi biểu tượng của nó. Đó là một thuyết duy ngã (một mình với chính mình) hay thuyết duy chủ thể toàn diện. Và chúng ta có ở đây đúng ra không phải một triết học mà là một trường hợp bệnh lý, chứng tâm thần phân liệt, người bệnh hoàn toàn bị tách rời khỏi thế giới này và sống trong một thế giới những hình ảnh cá nhân ít nhiều có chủ điểm.
(3) Ý nghĩa bút chiến. Những người theo học thuyết duy vật, kế tục Marx đã lặp lại: “Lịch sử triết học là lịch sử của cuộc đấu tranh giữa chủ nghĩa (hay ‘học thuyết’) duy tâm và chủ nghĩa duy vật mà chiến thắng thuộc về chủ nghĩa duy vật”. Trong công thức này, “học thuyết duy tâm” trình bày tất cả chủ thuyết nỗ lực hướng sự suy tư ra khỏi những dữ kiện vật chất, khách quan và lịch sử , để đưa nó về việc chiêm niệm một trật tự siêu việt để giải thích các dữ kiện đó. Học thuyết duy tâm như thế bị nghi ngờ (hay bị buộc tội) là diễn ngữ của một tình trạng xã hội nào đó mà những người trục lợi tìm cách duy trì. Nó là một triết học được chế tác, ít nhiều hữu thức, để biện minh cho thực tại hay để làm thực tại bị mất tín nhiệm và có lợi cho “một thế giới khác” (hay đời sau hoặc kiếp sau). Dù đó là sự khinh chê thực tại hay lý tưởng hóa một tình trạng sự kiện, học thuyết duy tâm rõ ràng đối lập với một quan điểm duy vật lịch sử tập trung vào “những sự kiện kinh tế” và vào ý chí làm “biến đổi thế giới”. Học thuyết duy tâm luôn luôn bị lên án là ngụy tín (mauvaise foi), là thuốc độc tinh tế, sự lừa bịp và kẻ phá hoại hành động.
HỎI: Chủ nghĩa duy tâm đích thực là gì?
ĐÁP: Nói một cách chính xác, học thuyết duy tâm nghĩ rằng những sự vật không phải là những dữ kiện tồn tại như người ta tri giác chúng hay nhận thức chúng và sự tồn tại của chúng bao hàm hành động của một tinh thần tư duy chúng. Việc có hay không một tính ngoại giới, hay chính xác hơn một cái phi-ngã thì chưa có một triết gia duy tâm nào tỏ vẻ ngờ vực. Điều mà họ chủ trương là bản ngã và phi ngã có cùng bản chất vì cả hai đều là những thực tại tâm lý, hay đúng hơn những thực tại tinh thần. Chúng ta sẽ giải thích điểm này, nhưng điều quan trọng là phải hiểu mối quan hệ đồng thời vừa là huyết thống vừa là thù địch triệt để của thuyết duy tâm chính xác và thuyết duy vật.
“Bản ngã và phi ngã, ý thức và thế giới bên ngoài, tinh thần và vũ trụ có cùng một bản chất, và…” Đến đây thì thuyết duy tâm và duy vật đều đồng ý với nhau vì cả hai đều nghĩ rằng chỉ có một thực tại duy nhất, một bản thể duy nhất vì cả hai đều là thuyết nhất nguyên (monisme); nhưng những từ ngữ cuối câu phát biểu trên làm nổ ra sự đối kháng triệt để : thực tại duy nhất là vật chất đối với thuyết này, nhưng là tinh thần đối với thuyết kia. Hai thuyết nhìn các sự vật từ hai đối cực và chính vì thế mà họ lên án nhau đã nhìn “thế giới lộn ngược”. Marx duy vật nói về Hagel duy tâm: Triết học ông ta đúng từ đầu đếán cuối, nhưng ông ta bước đi bằng đầu. Lachelier duy tâm nói với các nhà tâm lý theo duy khách thể (objectiviste) của thời ông (những người duy vật) rằng quan điểm của họ là tốt, nhưng phải nắm lấy ở phần đuôi.
Bằng cách nào mà học thuyết duy tâm có thể nghĩ rằng ngã và phi ngã có cùng bản chất tâm lý hay tinh thần? Xem ra điều này xúc phạm đến cảm thức chung của nhiều người có quan điểm hiện thực về tự nhiên theo thuyết duy nghiệm mà chúng ta đã tìm hiểu. Nói cách khác, người ta dễ tin ngã và phi ngã có cùng bản chất là vật chất hơn là tinh thần, như thể khái niệm Vật chất rõ ràng hơn khái niệm Tinh thần. Đối với những người duy tâm Tinh thần thì “thật” hơn vật chất, vật chất chỉ tồn tại cho một tinh thần tư duy nó và không có sự tồn tại độc lập.
HỎI: Về mặt lịch sử các triết gia duy tâm triển khai luận đề của họ như thế nào?
ĐÁP: Chính Descartes đã mở đường cho duy tâm nên chúng ta phải nhắc lại Descartes trước khi đề cập đến những triết gia duy tâm đích thực.
(1) Cái “Cogito” của Descartes đã dọn đường cho học thuyết duy tâm. Chúng ta đã thấy trong phần đầu của cuốn “Những suy niệm về siêu hình học”, Descartes đã tìm thấy cái “Cogito” nghĩa là cái “Tôi tư duy” khi ông đi tìm một chân lý có thể chống lại sự hoài nghi làm ông lo lắng trước sự sụp đổ của mọi niềm tin. Xác nhận ấy chống lại sự hoài nghi vì để hoài nghi cần phải suy nghĩ; nó cũng chống lại giả thuyết trái ngược có một Ác thần chỉ tìm cách lừa gạt chúng ta vì để lừa gạt chúng ta, Aùc thần phải chờ khi chúng ta đã bắt đầu suy nghĩ. Sự kiện tôi cảm thấy mình là một “cái gì đó suy tư” là điều không thể hoài nghi. Tôi thấy mình tồn tại như một hữu thể suy tư . Đó là ý nghĩa duy nhất và bao quát của cái “Cogito ergo Sum” nổi tiếng. Sự hiển nhiên đầu tiên và sự tồn tại đầu tiên được hiểu là sự tồn tại không phải của một sự vật đặc thù mà của cái tôi-suy-tư, không có nó thì không có bất cứ sự tồn tại nào khác có thể hiểu được.
Nhưng khi đào sâu chân lý đầu tiên này, Descartes nhận thấy cái tôi-suy-tư không thể hiện hết Tư tưởng và cái “tôi” chỉ là một sự phân loại, đặt giới hạn và xác định một Tư tưởng vượt xa vô hạn cái tôi. Vì thế trong sự tồn tại của mình như một hữu thể tư duy, Descartes khẳng định sự hiện hữu của một Tư tưởng-Vô hạn mà ông gọi là Thượng đế. Và đó là thời gian thứ hai của suy niệm: “Tôi tồn tại, vậy Thượng đế tồn tại”.
Chỉ trong thời gian thứ ba, sau khi đã phân tích những hàm ngụ của sự hiện hữu vô cùng ấy của Thượng đế, Descartes nhìn thấy ngài là nguồn gốc của mọi sự hữu và khẳng định sự tồn tại của thế giới bên ngoài. Tư tưởng chỉ đi xuống lại với vật chất sau khi đã tin chắc có sự thân thuộc tinh thần giữa cái tôi-suy-tư và Thượng đế và chính điều này thiết lập thuyết duy lý của Descartes. Chỉ cần những người theo sau Descartes nghĩ rằng vật chất chính là một sự giới hạn mà cái tôi suy tư đem lại cho Hữu thể vô hạn, họ sẽ đi đến học thuyết duy tâm.
Tư tưởng vô hạn hay Thượng đế
SƠ ĐỒ COGITO CỦA DESCARTES
3 1. Cogito, sự hiển nhiên đầu tiên
2 2. Khám phá Tư tưởng vô hạn bên trên cái
Cogito 1 Cogito Vật chất 3. Luận đề Thượng đế sáng tạo vật chất và các tinh thần.
(2) Học thuyết duy tâm phi vật chất của Berkeley. Trước tiên Berkeley nhận thấy rằng “ tồn tại là tồn tại được tri giác “ (esse est percipi), nghĩa là điều mà chúng ta gọi là những sự vật hay những phẩm tính của chúng hay bất cứ sự gì “khách quan”, đều quy về những tri giác. Ích gì khi chúng ta nhìn chăm chú những thực tại bên ngoài, chia cắt chúng, phân tích chúng, nhìn chúng qua những máy móc, rốt cuộc rồi luôn luôn người ta cũng gặp một tri giác và không thể khác . Vả lại tri giác là một hiện tượng của ý thức, bản chất của nó không thuộc vật chất cũng không khách quan, nó thuộc tâm lý. (Ở đây chúng ta hãy ghi nhận rằng luận chứng chủ yếu định nghĩa tính khách quan bởi sự cộng đồng tri giác của một nhóm người sau cùng đưa đến việc định nghĩa nó như chủ quan tập thể và không bao giờ là khách quan.) Từ sự bảo đảm đầu tiên, Vũ trụ là một vũ trụ của tri giác mà bản chất sâu xa thuộc về tâm lý. Việc khám phá ra mệnh đề này làm Berkeley tràn ngập vui mừng và ông kêu lên, lúc đó ông được 22 tuổi: “Sau cùng tôi đã nắm được nguyên lý cao cả”. Berkeley rút ra nhiều hệ quả:
A. Vật chất không tồn tại, đó là một ý tưởng trừu tượng, một phát minh của các nhà bác học, hoàn toàn không thể chứng minh và người ta cũng không bao giờ có thể tri giác vật chất (thật vậy vì theo ông, hữu thể (cái tồn tại) chính là hữu thể được tri giác). Đó là thuyết phi vật chất.
B. Tuy nhiên thế giới bên ngoài thì hoàn toàn bên ngoài ý thức của tôi vượt xa vô hạn ý thức tôi từ mọi phía, vì thế có một bản ngã hạn chế và một phi-ngã vô hạn.
C. Bản ngã và phi ngã có cùng bản chất tâm lý , vì thế có một bản ngã là tinh thần và một Tinh thần Vô hạn hay Thượng đế. Khi không còn tính vật chất, vũ trụ trở thành điểm gặp gỡ, sự va chạm của hai hành động: ý thức cá nhân và Thượng đế vô cùng. Bản chất của thế giới là “một bức màn trong suốt qua đó Thượng đế tỏ hiện với con người”.
Berkeley yêu cầu chúng ta đừng nhìn Tự nhiên với tinh thần hoàn toàn ô nhiễm bởi những ý tưởng của khoa học; mặc kệ các nhà bác học (và đặc biệt ông chống lại Newton), có một cách nhìn Tự nhiên cho chúng ta thấy nó rất thần thánh, với một vẻ đẹp lạ lùng và thiêng liêng.
Nói một cách ít thi ca hơn, theo Berkeley, Tự nhiên không có hiện hữu tự thân, bền vững, nó là một tương quan giữa Thượng đế và mỗi tinh thần.
Thượng đế
Tự nhiên là giới hạn biểu hiện tương quan giữa
hai hành động: ý thức cá nhân và Tinh thần vô hạn.
3. Học thuyết duy tâm siêu nghiệm của Kant. Trong lời tựa của cuốn “Phê phán lý tính thuần túy” Kant viết: “Tôi đã làm một cuộc cách mạng như Copernic. Copernic đã chứng minh trái đất quay xung quanh mặt trời, thì với Kant khách thể nhận thức phải tương đối với chủ thể nhận thức, trong khi thuyết duy lý giáo điều thì trái lại bắt chủ thể phải tương đối với khách thể. Tinh thần không còn là tấm gương phản chiếu khách thể, nó trở thành điều kiện sự khả hữu của khách thể . Nó “làm thành” khách thể. Chủ thể của nhận thức không phải là “bản ngã duy nghiệm” nghĩa là cái tôi như một cá nhân mà là “bản ngã siêu nghiệm” nghĩa là “ý thức con người nói chung trong tôi”. Siêu nghiệm có nghĩa là đem lại cho kinh nghiệm một hình thức, tạo hình cho khách thể còn chính nó không là một khách thể của kinh nghiệm. Như vậy kinh nghiệm về hiện tượng là một kinh nghiệm của con người, gắn chặt với con người. Bên kia hiện tượng, “vật tự thân” như chúng ta đã biết không thể nhận thức được.
Tất cả xảy ra như thể trong nhận thức, chủ thể “mặc áo” cho vật tự thân hay cái không thể biết. Vậy những “mô thể” nào lần lượt tác động lên nhận thức?
Theo Kant có hai đợt liên tiếp nhau, một ở bình diện tri giác và một ở bình diện giác tính (hay trí năng; giác ở đây có nghĩa là hiểu)
A. Ở bình diện tri giác. Cảm tính của chúng ta không thụ động cũng không thụ nhận, nó đã là một hoạt động với những chức năng, những cơ cấu, những “mô thức tiên nghiệm”. Nó phóng chiếu lên sự vật tự thân trong chính hành động tri giác ; hai mô thức tiên nghiệm của nó là Không gian và Thời gian. Như thế, Không gian và Thời gian không phải là những thực tại khách quan, một “môi trường” trong đó các sự vật được đưa vào, đó là những mô thức tiên thiên của cảm tính nhân loại.
B. Ở bình diện giác tính. Những bụi bặm của các phẩm tính được cảm nhận, được tổ chức bởi hai trục Không gian và Thời gian, lại được tổ chức trong “bản chất” bởi việc phóng chiếu những “mô thức tiên thiên của giác tính” hay những “phạm trù của giác tính”. Đó là những hoạt động nội tại của khả năng nhận thức gồm có mười hai phạm trù tập trung trong bốn mô thức lớn: Số lượng, Chất lượng, Thể thức, Tương quan. Trong số lượng có phạm trù đơn tính, trong Chất lượng có phạm trù Thực tại, trong Thể thức có phạm trù tính Tất yếu, trong Tương quan có phạm trù tính Nhân quả, mỗi phạm trù có những hệ luận. Như thế khi hai hiện tượng xuất hiện là hai, có thật, tất yếu và liên kết với nhau bằng tương quan nhân quả thì chính chúng ta suy nghĩ chúng dưới những phạm trù số lượng, hiện hữu, tất yếu và nhân quả, nghĩa là dưới những khía cạnh ấy, chúng ta nhìn thấy chúng. Để hiểu rõ điểm này, bạn hãy tưởng tượng trong một đêm tối trời, bạn cầm trong tay một cái đèn với lồng kính màu đỏ. Tất cả những vật mà bạn soi sáng đều đỏ, và bạn càng đưa đèn đến gần để nhìn thấy màu “thật” của những vật ấy, bạn càng thấy chúng màu đỏ. Ví dụ khác: bạn hãy tưởng tượng một ông trưởng phòng nghiêm khắc làm cho các nhân viên phải kinh hoàng; mỗi lần ông ta đi ngang qua văn phòng, các nhân viên đều chỉnh tề, mọi việc đều ngăn nắp không chê vào đâu được, ngay khi ông quay lưng lại thì văn phòng lại ồn ào, lộn xộn, rồi khói thuốc, tiếng nhạc vang lên. Ông ta sẽ khẳng định văn phòng luôn có trật tự mà không biết rằng trật tự ấy là trật- tự -cho- ông. Theo Kant cũng như thế đối với trật tự tất yếu mà khoa học khám phá trong Tự nhiên, đó là một trật tự luận lý, thuộc trí tuệ, toán học, tất yếu … và các nhà bác học không nhận thấy rằng đó là trật tự của con người ở đó Lý tính đương nhiên được tìm thấy vì chính nó đã đưa vào. Một hình ảnh dễ dàng có thể minh họa ba thái độ duy lý, duy nghiệm và duy tâm, hay đúng hơn, các lý thuyết về nhận thức của Descartes, Hume và Kant. Bạn hãy tưởng tượng một chiếc xuồng trên mặt hồ, một người thợ săn ở trong xuồng và con mồi ở trên bờ : chiếc xuồng là vị trí của con người, cây súng săn là phương tiện nhận thức, con mồi và bờ là những khách thể hay những đích nhắm của nhận thức. Descartes nhận thấy rằng người ta có thể nhắm bắn, có sự ổn định trong nhận thức; Hume phân tích vị trí thợ săn và nhận thấy mặt hồ xao động và ông kết luận bắn từ một vị trí như thế không đạt được kết quả gì; Kant chấp nhận những kết luận của Hume liên quan đến vị trí, nhưng cho thấy rằng toàn cảnh cũng dao động cùng một nhịp độ và có thể nhắm bắn được vì có sự bất động tương đối.
4. Duy tâm tuyệt đối của Octave Hamelin. Trong cuốn “Những yếu tố chính của biểu tượng” (1907), Hamelin theo xu hướng những người kế tục Kant, đã loại bỏ sự vật tự thân như còn sót lại cuối cùng của chủ nghĩa duy lý và giải thích vũ trụ của ý thức từ sự Tương quan. Vì tất cả đều tương đối, không chỉ trong tự nhiên mà cả trong tư tưởng vì tư tưởng ở trong tương quan của các hạn từ (terme) với nhau. Vậy tương quan là nguyên lý phổ quát ở đó mọi vật phải được thể hiện vì tương quan tạo ra các từ ngữ và vượt qua chúng bởi một nhịp điệu nội tại gồm có Đề- Phản đề -Hợp đề.
Những tương quan (liên kết nhưng không hòa trộn và phân biệt nhưng không tách rời) là thực tại năng động và sáng tạo làm thành hạn từ đầu tiên và quy luật tái cấu trúc biện chứng Thực tại.
Bộ ba. Tương quan như hạn từ đầu tiên kêu gọi phản nghĩa của nó là sự phân ly của các khoảnh khắc liên tiếp và của các sự vật. Đó là con số. Hợp đề Tương quan và Số cho Thời gian và chính nó trở thành hạn từ đầu tiên của bộ ba thứ hai. Biện chứng tiếp tục và toàn bộ viết thành lược đồ như sau: (đọc từ dưới lên trên và từ trái qua phải)
Nhân cách
Tính nhân quả – Tính cứu cánh
Tha tính – loại biệt
Vận động – Phẩm tính
Thời gian(3) – Không gian (Bộ ba 2: Thời gian- không gian –vận động)
Tương quan(1) – Số (2) (Bộ ba 1: Tương quan- Số- Thời gian)
Bộ ba sau cùng. Bộ ba thứ năm đó là Tính nhân quả(1) – Tính cứu cánh(2) – Nhân cách(3) là sự biến thái sau cùng của Tương quan làm chúng ta đi từ Nguyên tắc đến Bản chất và giờ đây từ Bản chất đến tinh thần. Với Tính nhân quả, vũ trụ có một trật tự, với Tính cứu cánh, nó mang một ý nghĩa. Vũ trụ được hoàn chỉnh với tương quan kép ấy; nhưng đó là một vũ trụ của biểu tượng và hợp đề sau cùng đem lại nhân cách một cách hiệu quả vừa là mục tiêu, vừa là nguyên nhân của chính nó. Như thế ý tưởng tương quan hay chính xác hơn, Tương quan như hành động của tư tưởng đủ để suy ra một cách biện chứng bản ngã và thế giới.
HỎI: Các triết học về lịch sử đổi mới những luận đề triết học ở những điểm nào?
ĐÁP: Trong những phản bác chống lại học thuyết duy lý giáo điều, và các triết học về Hữu thể, chúng ta đã thấy những học thuyết về nhận thức ấy để qua một bên Lịch sử, như là sự Biến dịch. Chúng ta gọi những Triết học về lịch sử là những học thuyết đưa sự Biến dịch của Nhân loại lên hàng đầu trong quan niệm chung về thế giới. Những triết học ấy được khai sinh chính trong những biến động của Lịch sử cuối thế kỷ XVIII và đầu thế kỷ XIX. Triết gia người Ý , Vico (1668-1744) là cha đẻ của triết học về lịch sử mà ông gọi là “Khoa học mới” và đối tượng là “tìm cách xác định những luật vĩnh cửu chi phối số phận của mọi dân tộc”. Dựa vào những nguyên lý của khoa học ấy, ông viết: “… chúng ta đã tìm kiếm và khám phá những nguồn gốc của các sự vật thần thánh và nhân bản.” Sau đó ông đưa ra quy luật sự “Tiến hóa của các dân tộc”: “Các dân tộc với mọi tập tục rất khác nhau và đa dạng tiến lên với sự đồng đều qua sự phân chia thành ba thời đại… thời đại của các thần linh, thời đại của các anh hùng, thời đại của những con người.” Chắc hẳn, đã có những quan niệm triết học về lịch sử trước Vico: các triết gia khắc kỷ với quan niệm về sự quy hồi vĩnh vửu của các sự vật; học thuyết của Manès, một triết gia Ba-tư với quan niệm về cuộc đấu tranh giữa Thiện và Ác xuyên qua các thời đại, thánh Augustin với cuộc đấu tranh giữa Thành đô Thượng đế với thành đô của dân thờ ngẫu tượng, Bossuet với sự quan phòng soi sáng cho Lịch sử phổ quát, và Voltaire trong cuốn “Luận về lịch sử” với khái niệm chu kỳ văn hóa chứng tỏ rằng đạo ki-tô thuộc về một chu kỳ đã lỗi thời, v.v… Tuy nhiên tất cả những triết học này đều là những siêu hình học đi tìm một sự minh họa trong lịch sử hơn là những triết học về lịch sử đúng nghĩa. Đối với Vico và những người kế tục ông , vấn đề là phải coi Lịch sử như một khoa học và từ đó rút ra ý nghĩa của lịch sử.; điều chủ yếu là dùng lịch sử như phương pháp triết học. Chúng ta thử xem qua những khuôn mặt lớn trong triết học về lịch sử.
1. Theo Hegel (1770-1832), Thực tại là Tinh thần, và Tinh thần không phải là một dữ kiện, nhưng tuyệt đối và siêu việt, nó tự hình thành, nó nhận thức về mình bởi và trong vở kịch lịch sử . Trong biện chứng sống động ấy của lịch sử, những nhà nước đóng vai trò của chúng trước mắt các cá nhân vì những định chế chính trị đánh dấu những giai đoạn của nhận thức tiến dần lên đó. Thật vậy tự do không phải là một dữ kiện của siêu hình học, cũng không phải là một kinh nghiệm riêng tư mà là sự thực hiện của Tinh thần, nghĩa là nó ở chỗ tận cùng của lịch sử , ở giới hạn cuối cùng của một sự tiến lên chậm chạp và bi thảm của lịch sử. Lịch sử là thực tại duy nhất, nó là tính hợp lý khắt khe nội tại là cái Lý tính duy nhất. Con người tưởng rằng mình làm lịch sử, nhưng họ như những nút chai trên biển mà những con sóng cuốn trôi những đam mê và dự tính của họ sử dụng hay vượt qua họ và hướng về một mục tiêu mà họ không biết. “Cái khối lượng bao la ấy của Ý muốn, của những lợi ích và hoạt động tạo nên những công cụ và phương tiện cho thần Vũ trụ hoàn thành mục đích của mình: nâng vũ trụ lên ý thức tự do và thực hiện nó “ (trong “Những bài học về triết học Lịch sử”)
Bước tiến ấy của lịch sử là biện chứng, nghĩa là một Lý tính nội tại và năng động. Hegel phân tích trên mọi bình diện sự khẳng định ấy về Tinh thần trong mọi hoạt động của ý thức và trong mọi biến cố của lịch sử .
2. Theo Auguste Comte (1798-1857), như chúng ta đã thấy “Quy luật của lịch sử” là luật tam trạng. Trong mỗi tình trạng hay thời kỳ (thần lý, siêu hình hay thực chứng) tương ứng một cách nhận thức, một thái độ tinh thần, một trình độ hiểu biết, cũng như một cơ cấu xã hội và một chính sách. Trong thời kỳ thực chứng khi con người đã thật sự khám phá chân trời hiện thực của mình, ý nghĩa của đời sống và chứng minh rằng lịch sử của các thời kỳ đi trước chuẩn bị cho thời kỳ sau cùng này. Nhân loại chứng kiến sự hợp lưu của hai tiến bộ: tiến bộ chính trị và tiến bộ khoa học. Một mặt, sau khi thời kỳ siêu hình phê phán và đánh đổ đối với những định chế và tâm thức của thời kỳ thần lý như tôn giáo, quân chủ chuyên chế, chủ nghĩa đế quốc xâm lược, nô dịch tôi tớ và đặc quyền của chủ, người ta đi đến một thời kỳ sau Cách mạng Pháp với một chương trình xây dựng một trật tự xã hội mới. Mặt khác người ta chứng kiến sự lên ngôi của xã hội học là khoa học thứ sáu và sau cùng theo thứ tự . Theo Comte, mỗi khoa học cũng phải đi qua một sự chuyển biến liên tục trên con đường trở thành một khoa học như khoa chiêm tinh trở thành thiên văn học, thuật giả kim trở thành hóa học. Trong trật tự của các khoa học cũng thế, mỗi bước tiến của một khoa học tạo nên tiến bộ cho khoa học kế tiếp và từ toán học đến thiên văn rồi vật lý, hóa học, sinh học. Tinh thần khoa học ngày một trưởng thành cùng lúc với việc hiểu thấu đáo cái cụ thể. Nhưng sự lên ngôi của xã hội học đem lại cho toàn bộ một ý nghĩa và một mục tiêu. Là Khoa học về nhân loại, về những nhu cầu có thật và bản chất chính xác của loài người, Xã hội học sẽ dẫn đến một tình cảm dành cho nhân loại. Chỉ có xã hội học mới giúp cho việc thiết kế một cơ cấu tổ chức mới đó là cơ cấu của nhà nước thực chứng có những đặc điểm như một xã hội thực chứng với sự cộng tác giữa người lao động và nhà cầm quyền, một tôn giáo của Nhân loại, một nhà nước theo đuổi mục tiêu sản xuất và không đàn áp chinh phục, v.v…
3. Karl Marx (1818-1883) đưa vào thực tiễn “tam trạng” và những ý tưởng của Auguste Comte mà những người đương đại cho là “mơ mộng”. Marx cũng thừa hưởng của Hegel quan niệm bi thảm về lịch sử . Nhưng thay cho “tinh thần”, Marx chủ trương những lực lượng kinh tế sẽ là động lực chủ yếu của lịch sử thể hiện sự vận hành quân bình hay bất thường của chúng. Ba tình trạng hay thời kỳ là thời kỳ chủ nghĩa tư bản ở đó là sự khai thác, bóc lột, những đặc quyền và chủ nghĩa đế quốc, kế đến là chuyên chính vô sản, thời kỳ chuyển tiếp để thủ tiêu chủ nghĩa tư bản và qua giáo dục chuẩn bị cho quần chúng những nhiệm vụ của tương lai; sau cùng là xã hội cộng sản trong đó tự do và sự phát triển của cá nhân được thực hiện. Sự vận hành ấy của lịch sử có tính bi thảm: chế độ tư bản nhường chỗ cho chế độ xã hội chủ nghĩa qua một cuộc đấu tranh ở đó những người vô sản, công dân của thành trì ngày mai có nhận thức về mình, về sức mạnh và tương lai của mình.
“Vào lúc mà cuộc đấu tranh giai cấp bước vào giờ quyết định, tiến trình phân hoá của giai cấp thống trị, của toàn bộ xã hội cũ, mang một tính chất dữ dội và quyết liệt đến nỗi một bộ phận nhỏ của giai cấp thống trị tách ra khỏi giai cấp của mình và liên minh với giai cấp cách mạng, giai cấp mang trong mình tương lai … nhất là bộ phận các nhà ý thức hệ tư sản đạt được sự hiểu biết học thuyết về toàn bộ vận động của lịch sử … Thế chỗ cho xã hội tư sản cũ với những giai cấp và đối kháng giai cấp sẽ xuất hiện một liên minh ở đó sự phát triển tự do của mỗi người là điều kiện của sự phát triển tự do của mọi người” (Tuyên ngôn của Đảng Cộng Sản)
HỎI: Học thuyết hiện sinh là gì ?
ĐÁP: Sự phê phán của Lý tính và học thuyết duy lý mà Bergson đã đưa ra một cách khắc khe, trả lại cho đời sống tính chất tự bản chất là phi lý và đem lại cho cái sống thực (vécu) ưu tiên hơn cái suy tư (pensé), do đó tìm lại luồng tư tưởng lãng mạn trước đó đã lâu của những người chống lại thuyết duy lý và đặc biệt của triết học Kierkegaard (1813-1855), đối thủ của Hegel khi ông đặt đối lập với “sự vận hành của Lịch sử đè bẹp những cá nhân trên đường nó đi qua” của Hegel bằng ý thức sắc bén về bi kịch hiện sinh của con người. Sự vận hành của Lịch sử có lẽ là một giả thuyết và cả lịch sử có lẽ cũng đè bẹp các triết học về Lịch sử và những lời tiên đoán của các tiên tri trong học thuyết ấy (Auguste Comte từ năm 1860 đã tiên đoán rằng người ta sẽ giảng học thuyết thực chứng trên diễn đàn của Nhà thờ Đức Bà Paris thay cho giáo lý công giáo đã lỗi thời!?); theo Kierkegaard, điều có thực hơn cả là những hoàn cảnh con người, những đời sống hay hiện sinh.
Theo một công thức nổi tiếng, học thuyết hiện sinh đảo thứ tứ tương quan yếu tính và hiện hữu. Quả thật như chúng ta đã thấy đối với học thuyết duy lý đã có một bản chất các sự vật được gọi là yếu tính, trong thế giới khả tri, tuyệt đối và vĩnh hằng.
Những yếu tính ấy thể hiện Thực tại đích thực, Chân lý và vô số những sự vật hiện hữu chỉ là phản ảnh, là tiền lẻ của những yếu tính ấy. Những sự vật hiện hữu này chỉ có giá trị tương đối đối với tư duy và khoa học. Theo học thuyết hiện sinh, không có những yếu tính thuộc loại đó; thực tại duy nhất là thực tại được sống, thực tại của những hiện hữu hay hiện sinh, cả khi chúng phi lý, tạm thời (sử tính của hiện sinh). Hệ quả là không có “bản chất” con người (của “ý tưởng” con người) và con người là một tương lai, là điều mà nó phải trở thành; Lý tính là một sự lừa bịp, thực tại duy nhất là “cảm nghiệm”: cảm nghiệm đời sống trong sự phi lý của nó, cảm nghiệm hư vô trong nỗi ưu phiền, cảm nghiệm trong lo âu xao xuyến rằng chúng ta là những hữu thể hướng về cái chết, tóm lại cảm nghiệm hiện sinh như một con đường mà chúng ta phải vạch ra nhưng không biết nó về đâu.
Theo sau Husserl (1859-1938), người mở đường cho hiện tượng luận (đối với ông những yếu tính là những hiện hữu) một phong trào triết học hiện sinh gồm hai dòng chính xuất hiện trong thời hiện đại: học thuyết hiện sinh vô thần với Heidegger ở Đức và Jean-Paul Sartre ở Pháp; học thuyết hiện sinh siêu việt với Karl Jasper ở Đức và Gabriel Marcel ở Pháp.