\Chương dẫn nhập:
Triết Học Tổng Quát
HỎI: Triết học tổng quát là gì ?
ĐÁP: Triết học tổng quát là một danh từ mới để chỉ siêu hình học, môn học ngày càng bị nhiều người nghi ngờ nhất là những nhà tư tưởng muốn đoạn tuyệt với một quá khứ trong đó đệ nhất triết học thường gắn liền với tôn giáo. Nhưng dưới tên gọi này hay tên gọi cũ thì siêu hình học vẫn là sự bàn cãi các vấn đề tối hậu về sự Sống và sự Chết, Hữu thể và Hư vô, vật chất và tinh thần, đời sống của thế giới và của con người. Những vấn đề ấy luôn luôn được đặt ra và thách đố con người. Siêu hình học vì thế đáp ứng một yêu sách nền tảng của trí tuệ con người, yêu sách hiểu biết ý nghĩa sau cùng của các sự vật, của ý thức hay của lịch sử.
HỎI: Người ta đến với nhu cầu tìm hiểu triết học như thế nào?
ĐÁP: Khi một người suy nghĩ trong một lãnh vực kiến thức nào đó, thấy mình tình cờ bị lôi kéo vào một nghiên cứu ngày càng được đào sâu hơn như nghiên cứu một quy luật có thể trở thành khái quát, một ý tưởng có thể “chuyển” sang những lãnh vực khác của khoa học để từ đó đem lại một ý nghĩa cho mọi vật. Trước xu hướng tự nhiên ấy của trí tuệ, các nhà chuyên môn phản ứng theo ba cách: – Họ có thể mạnh dạn đi vào con đường triết học tổng quát, đó là trường hợp của các nhà khoa học Alexis Carrel với cuốn “Con người, điều chưa biết đó”, Lecomte du Noũy với cuốn “Tương lai của tinh thần”, G. Mercier với cuốn “Tính năng động hướng thượng” hay gần đây hơn Wiener với cuốn “Điều khiển học” và nhiều người khác nữa đến từ mọi chân trời khoa học. – Họ có thể tham gia đến một mức độ nào đó việc phác họa một hướng đi cho tư tưởng họ nhưng dành cho các nhà triết học việc rút ra những kết luận. Chúng ta có trường hợp của Louis de Broglie với cuốn “Vật chất và ánh sáng”. – Sau cùng họ có thể từ chối “làm siêu hình học” vì nói chung đối với họ siêu hình học nằm bên ngoài mọi chứng cứ, mọi sự xác minh và kinh nghiệm và do đó làm cho công việc cặm cụi của các “triết gia” trở thành sự ngẫu hứng đáng ngờ. Tuy nhiên chúng ta thấy khi tuyên bố mạnh mẽ như thế, những nhà nghiên cứu đó cũng tìm thấy cho mình một siêu hình học đúng nghĩa, tức là một nhân sinh quan , một hệ thống về thế giới vì khi tuyên bố “không có gì ngoài kinh nghiệm”, người ta đã mặc nhiên “làm siêu hình học” mà không cần biện minh cho mình. Triết gia vì thế là người tiến hành việc tìm kiếm sự xác minh có phương pháp một luận đề tổng quát và đẩy luận đề ấy đến chỗ tận cùng mọi lý lẽ, sau đó chuyển nguyên lý ban đầu ấy sang hết thảy các vấn đề của các bộ môn khác (như đạo đức, chính trị, giáo dục…) để soi sáng chúng.
HỎI: Tính hệ thống của triết học là gì?
ĐÁP: Một triết học là một siêu hình học trong mức độ mà một chủ đề duy nhất được chuyển dịch vào mọi hình thức của kinh nghiệm; mọi triết học đều là một hệ thống. Phát biểu như thế có thể làm ngạc nhiên. Thật vậy có những triết gia muốn tránh xa hệ thống và tinh thần hệ thống đến nỗi họ cố ý từ khước việc trình bày có hệ thống triết học của họ. Từ Pascal đến Kierkegaard và Gabriel Marcel, các nhà triết học “lãng mạn” đã chống lại thuyết duy trí mà họ nghi ngờ là giả tạo trong lý luận. Nhưng những triết học ấy dù không được hệ thống hóa cũng đưa ra một số chủ đề. Có một ý tưởng, một tình cảm hay một thái độ xuyên suốt qua diễn tiến của tư tưởng. Và tuy không có hệ thống trong cách trình bày nhưng có sự tổ chức trong tư tưởng. Mặt khác nói rằng không thể có một hệ thống cũng là xây dựng một hệ thống, cũng như khi nói “không có một nguyên lý tuyệt đối” là đặt phát biểu ấy thành nguyên lý tuyệt đối, hoặc khi nói rằng “tất cả đều phi lý, không có gì là khả tri” là đưa ra một mệnh đề diễn dịch hay quy nạp từ những kinh nghiệm đề xuất và điều đó được đề nghị như một kết luận hợp lý.
Cũng trong quan điểm đó khi một người có những ý tưởng về đời sống, vật chất, Thượng đế, xã hội hay về lịch sử, bản tính con người, sự tiến bộ đạo đức mà không trình bày mối dây liên kết hợp lý giữa các ý tưởng ấy thì chưa đủ để khẳng định người đó là một triết gia.
Chương I:
Siêu Hình Học
HỎI: Siêu hình học có từ khi nào?
ĐÁP: Chúng ta vừa thấy trong phần dẫn nhập, siêu hình học là việc nghiên cứu những nguyên lý đầu tiên và ý nghĩa sau cùng của mọi sự. Chính từ ngữ cho chúng ta biết đó là môn học “đến sau việc nghiên cứu tự nhiên”; truyền thống lịch sử triết học cho rằng Aristote là người phát minh ra tên gọi ấy vì trong thư viện của ông, một cách tượng trưng ông đã để những thủ bản viết về triết học đệ nhất theo sau những sách vở viết về vật lý (méta- physique).
HỎI: Có chăng một môn siêu hình học?
ĐÁP: Hai triết gia lớn hiện đại đã chối bỏ nó là Emmanuel Kant (1724-1804) và Auguste Comte (1798-1857).
1. Kant trong cuốn “Phê phán lý tính thuần túy” 1781, và cuốn “Sơ luận về mọi siêu hình học trong tương lai muốn giới thiệu mình là khoa học” 1783, đã dùng siêu hình học của mình để phê phán siêu hình học trước đó. Theo ông , Lý tính được tạo thành để sắp xếp trật tự cho các hiện tượng tự nhiên. Chức năng của Lý tính áp đặt cho các hiện tượng những yêu sách về Tương quan, Mô thức, Lượng tính và Phẩm tính cũng như chức năng của tri giác Cảm tính là áp đặt cho các hiện tượng Không gian và Thời gian. Vì Lý tính con người và bởi Lý tính con người, Tự nhiên do đó có một cơ cấu, một trật tự và các quy luật. Chúng ta không thể biết Tự thân của tự nhiên và cũng không thể biết nó là gì. Thế giới các hiện tượng là thế giới của con người và chỉ thuộc về con người; Lý tính nhận biết mình qua thế giới hiện tượng vì chính Lý tính làm cho nó trở nên hợp lý. Nhưng khi Lý tính tìm cách vượt qua bình diện các hiện tượng, nghĩa là khi nó đi sâu vào siêu hình học để cố gắng hiểu biết thực- tại- tự- thân hay Hữu thể (cái Tồn tại) mà các hiện tượng chỉ là những biểu hiện (apparences) đối với con người, Lý tính đã chuyển vào việc nghiên cứu siêu hình ấy một cách không hợp lệ những yêu sách lập quy của Lý tính – những phạm trù tiên nghiệm – và do đó Lý tính không tránh khỏi việc dẫn đến những mâu thuẩn với Lý tính thuần túy nghĩa là dẫn đến những mệnh đề mâu thuẩn dù vẫn hợp lý, liên quan đến sự hiện hữu của thế giới, linh hồn, Thượng đế… Trong lãnh vực này Lý tính chứng minh bất cứ điều gì, vì nó được sử dụng bên ngoài chức năng bình thường và duy nhất của nó là hợp lý hóa kinh nghiệm. Sự -vật- tự- thân bên kia các hiện tượng, cái Tự thể (Noumène) như Kant nói vẫn luôn là bất khả tri, không thể đến với kinh nghiệm vì kinh nghiệm chỉ cho chúng ta biết các hiện tượng, cũng không đến với nhận thức hợp lý vì nhận thức này chỉ được sử dụng trong kinh nghiệm.
2. Auguste Comte trong cuốn “Bài học về triết học thực chứng”, 1830 và cuốn “Diễn văn về tinh thần thực chứng”, 1844 đặt mình vào một quan điểm hoàn toàn khác để chứng minh sự phù phiếm của siêu hình học. Luận đề của ông căn cứ vào một triết học về lịch sử. Theo ông lịch sử nhân loại đi qua ba “tình trạng” hay ba “thời kỳ” mỗi thời kỳ có một cách thức đặc thù để hiểu biết. Tình trạng đầu tiên hay tình trạng thần lý hoàn toàn có tính chất nhân hình luận. Con người hình dung vũ trụ theo hình ảnh của mình, tìm kiếm quy luật các sự vật trong những ý muốn giống với ý muốn của mình, trong những ý hướng (như thuyết vật linh cho rằng vạn vật có hồn), trong các thần linh (thuyết đa thần) hay một Thượng đế sáng tạo (thuyết độc thần). Tình trạng thứ hai hay tình trạng siêu hình là một tình trạng chuyển tiếp khi con người thay thế thần tính nhân hình bằng một thực thể trừu tượng, trong đó người ta tiếp tục tìm kiếm “bản tính thâm sâu của các hữu thể , những nguyên nhân đầu tiên và sau cùng của các hiện tượng, tóm lại những kiến thức tuyệt đối” . Vả lại thời kỳ này đã trở thành lạc hậu – và siêu hình học cũng thế – từ khi tình trạng cuối cùng của nhân loại đăng quang tức là thời kỳ thực chứng trong đó siêu hình học hiểu như việc tìm kiếm cái tuyệt đối trở nên vô ích và phù phiếm, từ nay khoa học thực chứng “từ chối việc tìm hiểu các nguyên nhân tối hậu của các hiện tượng và do đó không thừa nhận sự khả hữu của những khái niệm tuyệt đối, nhưng nhờ sự kết hợp quan sát và lý luận, khoa học thực chứng chỉ chuyên lo khám phá những quy luật của các hiện tượng, nghĩa là những tương quan bất biến của các hiện tượng xảy ra nối tiếp nhau hay xảy ra cùng lúc.
HỎI: Có ý kiến nào phản bác Kant?
ĐÁP: Cùng với những người đã phê bình Kant, chúng ta có thể nói rằng một “sự- vật- tự- thân” như điều kiện của các hiện tượng và Thực tại đầu tiên mà những hình thức tiên nghiệm của cảm năng và giác tính “mặc vào” để làm cho nó vừa khả giác vừa khả tri… cũng là một đòi hỏi của Lý tính khi đi tìm các nguyên nhân. Cái tự thể (hay vật tự thân, Noumène) mà Kant cố ý cho là không bị điều kiện hóa (nghĩa là tuyệt đối) cũng bị Lý tính điều kiện hóa, ít nhất về sự hiện hữu của nó. Những người kế tục Kant sẽ bỏ qua “vật- tự - thân” nhân danh lập luận đó. Chúng ta chỉ cần nói đơn giản rằng khi nói đến “vật- tự - thân” Kant đã làm siêu hình học. Cần phải nói thêm rằng trong tác phẩm sau đó của Kant “Phê phán Lý tính thực hành”, 1788, sau khi đã khẳng định Lý tính thuần túy không thể đạt đến tự thể, ông đã tìm kiếm và khám phá một phương tiện khác: là một phần của tự nhiên, với tư cách một con người, chúng ta có thể tìm thấy trong chính mình “Vật- Tự -Thân”, cái tuyệt đối đó. Và Kant cho thấy cái tuyệt đối ấy trong thiện ý ; Lý tính thực hành nghĩa là lương tâm đạo đức và niềm tin đạo đức cho phép chúng ta vì lợi ích của mình vượt qua bình diện các hiện tượng và tìm lại những điều vững chắc mà Lý tính thuần túy đã chối bỏ. Vì thế, Kant đã làm một siêu hình học trùng khớp với đạo đức học.
HỎI: Có ý kiến nào phản bác Auguste Comte?
ĐÁP: Phải nói rằng luật tam trạng của Comte hiểu như một nguyên lý giải thích sau cùng có thể được coi như siêu hình học. Đã hẳn, ông nói luật ấy có tính lịch sử và thực chứng và là cách trình bày các sự kiện nhưng nó là sự giải thích triết học các sự kiện. Mặt khác vì nó là một quy luật của Lịch sử (phổ quát) nó không giống “một tương quan bất biến giữa các sự kiện nối tiếp hay đồng thời”; nó không ở cùng một bình diện và độ lớn như những quy luật của các hiện tượng; nó là một quy luật phổ quát trứ danh cấm chỉ việc tìm tòi của siêu hình học ở thời kỳ thực chứng. Mâu thuẩn càng thấy rõ trong công thức thể hiện quan niệm thực chứng về thế giới: “Mọi sự đều tương đối, đó là nguyên lý duy nhất tuyệt đối”. Xuất phát từ sự quan chiêm Lịch sử không phải trên những hiện tượng thể lý nên chúng ta có lý do để nói rằng nói rằng nguyên lý ấy không còn liên quan đến “bản tính nội tại của các sự vật” nhưng đã trở thành luật tối thượng cho việc phát triển.
HỎI: Có chăng một kinh nghiệm trong siêu hình học?
ĐÁP: Hai triết gia mà chúng ta vừa đề cập trả lời là không. Kant nói rằng lãnh vực siêu hình học theo định nghĩa nằm ngoài kinh nghiệm. Comte nói rằng đó là một ảo tưởng và qua đó cho thấy một thái độ tinh thần đã bị lịch sử vượt qua. Nhưng như thế họ đã dùng từ ngữ “kinh nghiệm” trong ý nghĩa rất hạn hẹp, ý nghĩa của kinh nghiệm khách quan (có đối tượng hay khách thể). Hiểu như thế sẽ không có kinh nghiệm siêu hình và trong từ ngữ của hai ông, diễn ngữ (expression) ấy rõ ràng là mâu thuẩn. Nhưng trong một ý nghĩa rộng nhất, chúng ta có thể mô tả ba loại kinh nghiệm siêu hình: trực giác siêu hình, thử thách xác quyết và kinh nghiệm thần bí.
HỎI: Trực giác siêu hình là gì?
ĐÁP: Diễn ngữ này như chúng ta đã biết xuất hiện trong tâm lý học của Bergson. Nó diễn tả sự tổng hợp của trí tuệ và của bản năng nhờ đó chúng ta hiểu được bí mật của Thực tại luôn sống và chuyển động, đó là Kỳ gian (hay tồn tục, Durée) và trong kỳ gian sáng tạo là đà sống, ý nghĩa sau cùng của mọi vật. Vì thế đối với Bergson ở nguồn gốc của mọi triết học có một trực giác nhờ đó triết gia “hiểu” trong một khoảnh khắc và với một hành vi đơn giản điều gì tạo nên sự thống nhất của thực tại và ý nghĩa của cái hiện hữu. Trong cuốn “Tư tưởng và cái chuyển động”, Bergson cho rằng trực giác ấy rất đơn giản đến nỗi triết gia dùng cả đời mình để giải thích nó, khi cho nó một công thức ban đầu rồi sau đó không ngừng chỉnh sửa định nghĩa ban đầu về trực giác ấy. Mọi việc xảy ra như thể một ý tưởng, hay cả một hình ảnh được trình bày, bỗng nhiên mang hết trọng lượng của nội dung tiềm ẩn và nhờ nó mà mọi sự sáng tỏ. Trái lại “hiểu” một triết gia là cố gắng tìm lại qua những tác phẩm ý tưởng duy nhất và đơn giản là “kinh nghiệm siêu hình” của triết gia ấy. Với Berkeley đó có thể là một quang cảnh tự nhiên lột bỏ hết mọi khoa học, mọi trí tuệ và những ý tưởng trừu tượng, những bụi bặm mà con người làm cho bốc lên, và Tự nhiên được thanh lọc như thế trở thành một tương quan giữa “tôi” và Thượng đế ; với Kant có thể là sự biểu lộ của hoạt động không thể tưởng tượng nổi của Lý tính con người được thúc đẩy bởi một nhu cầu mãnh liệt về một trật tự phổ quát, áp đặt những quy luật cho các hiện tượng và thúc giục mọi người thực hiện một nền Cộng Hòa lý tưởng; với Bergson có thể là một nhịp đập của vũ trụ đan xen giữa sự căng thẳng tạo ra những hình thức sống… và sự giảm áp tạo ra vật chất, theo một đường lối tiến hóa nhằm thực hiện vô tận những tiềm năng của đà sống… Sự khác nhau giữa trực giác siêu hình và trực giác của nhà vật lý khi ông này khám phá một giả thuyết lớn (ví dụ như khi Archimède nhảy vào bồn tắm) chỉ khác nhau về tầm mức và chiều sâu vì rằng những “giả thuyết lớn” từ đó làm phát sinh một triết học là trung tâm của một quan niệm tổng quát về thế giới.
HỎI: Thử thách xác quyết là gì?
ĐÁP: Loại kinh nghiệm siêu hình thứ hai này khác với loại đầu tiên trước hết ở chỗ sự biểu lộ của Ý tưởng được thay thế bằng một kinh nghiệm lịch sử . Nói đúng hơn luôn luôn có cả hai và Ý tưởng thường chỉ biểu lộ trong một kinh nghiệm mà chúng ta có thể gọi là kinh nghiệm quyết đoán. Có những trường hợp chúng ta không thể nói đó là một thử thách xác quyết hay một trực giác siêu hình, một biến cố sống hay kết quả của một suy tư . Đó là trường hợp kinh nghiệm siêu hình của cái “Cogito” nơi Descartes. Mặc dù có những lời chê trách của Maine de Brian và sau đó của các triết gia hiện sinh, nhưng khi đọc lại những trang “Suy niệm” trong đó Descartes thuật lại trực giác của ông, dường như ông “cảm thấy” sự hoài nghi có phương pháp như cảm giác của một người đang chìm xuống nước, vì mọi thực tại bền vững đã hóa thành chất lỏng xung quanh ông, và ông “cảm thấy” cái Cogito như một sự giải thoát khỏi sự xao xuyến lo âu. Tuy nhiên có những trường hợp kinh nghiệm siêu hình xảy đến qua một kinh nghiệm sống và lập tức thể hiện thành một chiều kích làm đảo lộn.
Như trường hợp của Nietsche từ trên núi Alpes đi xuống, được âm nhạc của Wagner gợi hứng, ông đã khám phá nguyên lý cho triết học của mình khi nhìn thấy ở Frankfurt một đoàn kỵ binh diễu hành rầm rộ trước khi ra mặt trận… Ông nói khi nhắc lại kinh nghiệm ấy :“Tôi cảm thấy ý chí sống cao nhất và mạnh mẽ nhất không biểu lộ trong cuộc đấu tranh khốn khổ để sinh tồn, nhưng trong một ý chí chiến tranh, một ý chí thống trị, một ý chí quyền lực”. Cũng có một kinh nghiệm quyết đoán ở nguồn gốc của triết học của Jean –Paul Sartre, kinh nghiệm về hiện hữu (hay hiện sinh) trong cuốn “Buồn nôn”, 1938: “Và rồi tôi có một sự bừng sáng này. Nó làm tôi hụt hơi … nó đã ở đó, nó rõ ràng như ban ngày: hiện hữu thình lình được vén màn . Nó đã đánh mất vẻ vô hại của phạm trù trừu tượng … sự đa dạng của các sự vật, tính chất cá biệt của chúng chỉ là vẻ bề ngoài… chỉ còn có những khối kỳ quái và mềm nhão, rối tung và trần trụi, một sự trần trụi đáng sợ và thô tục… những tương quan mà tôi khăng khăng gìn giữ để trì hoãn sự sụp đổ của thế giới con người, những biện pháp, những số lượng, những sự hướng dẫn… tôi cảm thấy sự độc đoán của chúng; chúng không còn cắn vào các sự vật nữa. Và dù tôi không viết thành công thức rõ ràng, tôi đã tìm được chìa khóa của Hiện sinh, chìa khóa của sự buồn nôn nơi tôi, của chính đời sống tôi”.
HỎI: Kinh nghiệm thần bí là gì?
ĐÁP: Ở đây chúng ta quan tâm đến kinh nghiệm này trong chiều hướng nó cũng tạo nên một kinh nghiệm siêu hình. Cuộc tranh luận luôn luôn để ngõ về những trường hợp bệnh lý (như mê sảng thần bí hay một số hình thức tâm thần cuồng loạn) không thể gạt bỏ đời sống của các thánh lớn trong lịch sử tôn giáo đã mô tả kinh nghiệm “hiệp nhất thần bí” của họ. Trong trường hợp thông thường, chắc hẳn chúng ta phải thận trọng và không hấp tấp để phân biệt điều gì là do bệnh hoạn và điều gì có liên quan đến sự đa dạng của trực giác. Nhưng “sở thích hoạt động, khả năng thích ứng và tái thích ứng với những hoàn cảnh, sự cương quyết kết hợp với tính mềm dẽo, sự nhận định có tính chất tiên tri giữa cái có thể và điều không thể, một tinh thần đơn sơ chiến thắng những điều phức tạp, và sau cùng một lương thức cao siêu” theo cách diễn tả của Bergson (“Hai suối nguồn của đạo đức và tôn giáo” 1932) nơi các thánh như Tê-rê-xa A-vi-la, Phan-xi-cô Aùt-xi-di, Vinh Sơn Phao lô… chẳng phải là những bằng chứng khiến chúng ta không thể đồng hóa các ngài với những người bệnh? Và nếu như thế chúng ta phải coi kinh nghiệm thần bí của các ngài có giá trị. Dù sao kinh nghiệm thần bí không giống những hình thức khác của kinh nghiệm siêu hình vì không đem lại nguyên lý cho một triết học, nhưng nó đem lại một xác tín và một sức mạnh làm biến đổi nhân cách và được diễn tả thành hành động mà không quan tâm đến một hệ thống hợp lý hay một sự giải thích suy lý. Vì thế kinh nghiệm thần bí là một kinh nghiệm tôn giáo và không thuần túy là siêu hình.
HỎI: Có chăng một phương pháp trong siêu hình học?
ĐÁP: Nếu những người có tinh thần thực chứng hồ nghi siêu hình học vì nó không bằng lòng với kinh nghiệm khoa học và việc nghiên cứu các hiện tượng. Mặt khác và điều này còn nghiêm trọng hơn là siêu hình học không có phương pháp phổ quát. Có hai lý do, một là siêu hình học không phải là một khoa học. Thật vậy có bao nhiêu nhà siêu hình học thì có bấy nhiêu phương pháp. Hai là một triết học tổng quát bao hàm một quan niệm về thực thể, một phương pháp khám phá và thông thường một phương pháp trình bày, hay ít nhất một cách đặt vấn đề . Một kinh nghiệm siêu hình, một trực giác về Ý tưởng của mình đối với triết gia bao hàm một trực giác về phương pháp của mình.
HỎI: Hãy cho một vài ví dụ về phương pháp.
ĐÁP: Chúng ta thử xem qua một vài ví dụ:
Triết học Descartes được sinh ra từ một thử thách xác quyết về tính không vững chắc của mọi sự vật mà người ta tưởng là đúng và từ trực giác siêu hình về cái “Cogito”. Ngay lập tức phương pháp của Descartea xuất hiện: nó gồm trong “sự hoài nghi có phương pháp” nghĩa là phương pháp đặt vấn đề đối với tất cả những gì chúng ta biết, tin tưởng và cảm nhận, để khám phá “cái gì chống cự được sự hoài nghi”, và đó là sự hiển nhiên ban đầu và từ sự hiển nhiên này, chúng ta sẽ có thể suy tư thật sự.
Triết học Hegel (1770-1832) là trực giác siêu hình phải được tìm thấy xuyên qua Lịch sử, sự hiện thực hóa của Tinh thần, sự hiện thực hóa mà Fichte đã nhìn thấy như sự thủ đắc kiến thức phổ quát của cá nhân, từ đó thấy được sức năng động của Tinh thần như hơi thở của tính hợp lý thổi vào Lịch sử .
Nhưng Ý tưởng ấy bao hàm phương pháp của nó: phải khước từ việc định nghĩa tinh thần một cách chân phương và tĩnh tại, trái lại phải chuyển việc nghiên cứu ấy vào Lịch sử để lịch sử chỉ cho chúng ta thấy Tinh thần đang trở thành. Thực tại được xây dựng trong tương quan với tinh thần và cùng với sự trở thành của tinh thần, đem lại cho lịch sử một ý nghĩa. Thay vì làm luận lý học khi định nghĩa tinh thần tĩnh tại, người ta phải “làm Lịch sử”. Phương pháp vì thế được bao hàm trong trực giác triết học.
Triết học Bergson, như chúng ta đã thấy được thúc đẩy bởi một trực giác siêu hình về một sự sống của vũ trụ, hòa nhịp với hoạt động đặc thù của sức căng sáng tạo và sự giảm áp vật chất hóa. Phương pháp để đi đến quan niệm ấy chỉ có thể là trực giác, nghĩa là “đồng cảm” qua đó chúng ta không ngừng nhìn thế giới như một toàn thể các sự vật, để xâm nhập vào cái bí ẩn của đà sống . Sự lệch hướng và xung động tự nhiên không ngừng hướng hành động chúng ta vào vật chất, phương pháp của Bergson sẽ giúp đào sâu và mở rộng việc nội quan để đạt đến trong chúng ta “cái tôi sâu thẳm” và qua nó, đạt đến đà sống.
Người ta cũng có thể rút ra phương pháp của Kant mà điều chủ yếu là làm xuất hiện hoạt động của Lý tính, tìm kiếm những điều kiện khả hữu của khoa học và đạo đức học v.v… Luôn luôn phương pháp liên kết một cách đơn giản với trực giác siêu hình vì phương pháp là luận lý học hay cách lý luận của trực giác siêu hình. Trong triết học, trái với trong khoa học, phương pháp không ở hàng đầu ; phương pháp triết học phải được mục tiêu soi sáng và một cách nào đó nó có tính cứu cánh (téléologique). Người nào tiến hành nghiên cứu có phương pháp những vấn đề siêu hình đồng thời nghĩ rằng phương pháp làm việc của mình cũng là một “phương pháp siêu hình” thì đến một lúc nào đó một trực giác siêu hình sẽ xuất hiện, người đó sẽ nhận ra rằng công việc của mình trước đây là sự mò mẫm, lúc đó những vấn đề sẽ được đặt ra một cách khác và do đó phải đề cập chúng bằng một phương pháp khác.
HỎI: Siêu hình học có những tương quan nào với các ngành học khác, ví dụ với tâm lý học?
ĐÁP: Chúng ta đã biết trong lịch sử tâm lý học luôn có tương quan với siêu hình học và tâm lý học đã phát triển thành một khoa học khách quan chủ yếu với việc loại bỏ siêu hình học ra khỏi việc nghiên cứu tâm lý. Sự chuyển biến ấy xảy ra khi người ta thay những nền tảng siêu hình truyền thống bằng những nền tảng siêu hình của tất định khoa học. Điều chắc chắn là một mặt việc nghiên cứu nguyên lý đầu tiên của các thực tại tâm lý sẽ đưa về siêu hình học và mặt khác có thể giản lược siêu hình học thành một tâm lý học cũng như tâm lý học thành một siêu hình học.
HỎI: Việc tìm kiếm nguyên lý ban đầu của các thực tại tâm lý như thế nào?
ĐÁP: Thực tại ban đầu tự nhiên có thể hiểu được là chính chúng ta; do đó có một nỗ lực đi đến siêu hình học ngang qua tâm lý học và biến việc nội quan thành sự suy tư phản tỉnh. Ví dụ đặc biệt nhất là trường hợp của Maine de Biran(1766-1824). Ông bắt đầu với việc nghiên cứu “những nền tảng của tâm lý học”, sau đó ông khám phá trong kinh nghiệm nỗ lực hiện tượng đầu tiên và hiện sinh hơn cả cái Cogito và chân thật hơn cảm giác. Trên kinh nghiệm tâm lý-siêu hình ấy, Maine de Biran đã xây dựng sự thành tựu của bản ngã hữu thức chống lại cái phi ngã, cảm thức về tính nhân quả, ý chí , v.v. Lachelier (1832-1918) trong cuốn “Tâm lý học và Siêu hình học” trình bày một quan điểm vừa chống lại trường phái chiết trung của Victor Cousin vừa chống lại tâm lý học duy khách thể . Ông cho rằng tất cả đều có nền tảng là “tính tự phát tuyệt đối của tinh thần”, điểm tựa của mọi chân lý và mọi đời sống. Qua những ví dụ trên (có khá nhiều), chúng ta thấy rằng bất kỳ quan điểm nào về toàn thể đời sống tâm lý vượt qua việc mô tả một trình độ biệt lập đều hướng về siêu hình học trong mức độ nó tìm kiếm một “nguyên lý ban đầu”.
HỎI: Phải chăng người ta có thể giản lược siêu hình học thành tâm lý học?
ĐÁP: Thật vậy, siêu hình học có thể được coi như một sản phẩm của tinh thần và như thế sản phẩm này được coi như một đối tượng. Việc “giản lược” hay thu nhỏ siêu hình học như thế được thực hiện từ nhiều quan điểm. Auguste Comte đã giản lược siêu hình học thành một biểu hiện tâm lý của một thời kỳ nào đó trong quá trình tiến hóa của nhân loại, một sản phẩm của tuổi thiếu niên nằm giữa giai đoạn thơ ấu của thần lý và giai đọan trưởng thành của khoa hoc thực chứng. Cũng thế Karl Marx (1813-1883) đã triển khai một luận đề cho rằng những ý tưởng triết học, cũng như những ý tưởng đạo đức, tôn giáo hay chính trị chỉ là một biểu hiện của một tình trạng chính trị nào đó trong xã hội. Ông viết trong “Tuyên ngôn của Đảng Cộng Sản”: “Đâu cần phải thông minh sắc xảo để hiểu rằng những quan điểm, khái niệm, ý niệm của con người, tóm lại ý thức của họ thay đổi theo sự thay đổi xảy ra trong những điều kiện sống, những tương quan xã hội và đời sống tập thể của họ. Lịch sử các ý tưởng chứng minh điều gì nếu không phải là sự sản xuất trí thức biến đổi theo sự sản xuất vật chất?”. Còn có sự giản lược siêu hình học thành sự “thăng hoa của bản năng” trong công trình của Freud và những người kế tục ông; khi đồng hóa siêu hình học với tôn giáo và các huyền thoại, với nghệ thuật và những sản phẩm của trí tượng tượng, Freud đi đến chỗ trình bày các hệ thống triết học như sự chuyển dịch vào bình diện tinh thần những thái độ đối với đời sống có nguồn gốc thật sự trong các mặc cảm vô thức. Dù là học thuyết bi quan hay lạc quan, duy lý hay duy tâm, thì tất cả đều bị giản lược vào sự soạn thảo tinh vi của lực ái dục (Libido) và siêu ngã, cũng như Thượng đế là sự thăng hoa hình ảnh người cha và những câu chuyện trong Kinh thánh sẽ có những giải thích bằng phân tâm học. Thế nhưng tâm lý học từ siêu hình học đem lại một phương tiện tốt để phê phán và giúp phân biệt lúa mì với cỏ lùng trong việc nghiên cứu các hệ thống. Chúng ta không nghi ngờ ảnh hưởng của tính cách, môi trường, thời đại đối với một số vấn đề mà triết học đặt ra, theo một cách thức nào đó với những từ ngữ biến đổi mau chóng. Tuy nhiên cũng nên tự hỏi liệu có một “triết học vĩnh cửu” và liệu có thể áp dụng sự giản lược lịch sử hay tâm lý cho chính các hệ thống triết học đã thực hiện việc giản lược. Thật vậy tại sao hệ thống của Marx chẳng phải là sự diễn tả những vấn đề kinh tế của châu Aâu trong những năm 1850? Tại sao hệ thống của Auguste Comte không phải là biểu hiện của thái độ duy khoa học trong thời đại nổ ra cuộc cách mạng công nghiệp? Tại sao hệ thống của Freud không phải là biểu hiện của một hoàn cảnh tạm lý đầy mặc cảm và đó là hoàn cảnh của chính Freud? Bởi những nghịch lý ấy, chúng ta thấy rằng những hệ thống “làm việc giản lược hay thu nhỏ” tự cho mình nằm bên ngoài sự giản lược mà chúng áp dụng cho các hệ thống khác, và như thế dù muốn hay không chúng cũng đã ở trong quan điểm của triết học vĩnh cửu (các triết học khác lỗi thời trong khi các triết học làm công việc giản lược không bị lỗi thời v.v…).
HỎI: Siêu hình học từ tâm lý học tập trung vào vấn đề gì?
ĐÁP: Siêu hình học từ tâm lý học tương ứng với môn học mà chúng ta gọi là tâm lý học duy lý. Phần này của siêu hình học bàn về những vấn đề mà tâm lý học còn bỏ ngõ và đặc biệt những vấn đề của tinh thần và của tự do.
HỎI: Tương quan với đạo đức học: phải chăng đạo đức học vừa là hệ quả vừa là thách đố của siêu hình học?
ĐÁP: Mọi triết học đều đi tới sự khôn ngoan và đó là ý nghĩa của triết học theo từ nguyên: yêu mến sự khôn ngoan và như chúng ta đã biết đó chính là toàn bộ các quy tắc sống. Socrate trong cuốn Phédon (đối thoại của Platon về tính bất tử của linh hồn, tả lại cảnh Socrate trong tù ngày ông chết) chứng tỏ với các bạn ông rằng ông không sợ chết vì ông đã có những xác tín siêu hình, rồi ông bình thản uống độc dược cuối buổi gặp gỡ với bạn bè. Triết gia Pyrrhon (đứng đầu trường phái hoài nghi thế kỷ thứ III trước công nguyên) không tin vào lý tính cũng như các cảm giác sau cùng đi đến thái độ triết học là im lặng và thờ ơ hoàn toàn với mọi việc. Hành vi của ông là hệ quả hợp lý của quan điểm triết học của ông. Diogène Laerce, một sử gia cùng thời nói rằng “đời sống của Pyrrhon chứng minh cho học thuyết của ông, ông không tránh né điều gì, không giữ cho mình điều gì, chịu đựng tất cả…” Trái lại một triết học tổng quát mà sau cùng không đi đến một đạo đức học sẽ bị coi là một sự lừa phỉnh và chỉ được các triết gia tồi bảo vệ. Nietzsche trong cuốn “Ecce Homo” đã công kích mạnh mẽ những nhà tư tưởng đã chấp nhận nguyên lý phổ quát của Darwin “đời sống là một cuộc đấu tranh trong đó những sinh vật có khả năng nhất sẽ sống còn”, nhưng họ không đủ can đảm để rút ra quy luật đạo đức cho mình trong trường hợp đó: sức mạnh là đức hạnh tối thượng, sự yếu đuối là một lỗi lầm. Ông viết: “Sự khích lệ bí mật của những nhà tư tưởng tự do ở Pháp, từ Voltaire cho đến Auguste Comte, không phải là chạy theo đuôi lý tưởng ki-tô giáo, nhưng là ra giá cao hơn cho lý tưởng đó… khi mà trong cuộc đấu tranh là Đời Sống ấy, điều chúng ta cần không phải là lòng nhân hậu, nhưng là sức mạnh, không phải là sự khiêm nhường mà chính là ý chí quyền lực; …. Và sự bình đẳng và nền dân chủ là trái với sự chọn lọc và sinh tồn của người có năng lực nhất”. Như thế đạo đức học phải chứng minh cho siêu hình học. Điều ngược lại là không đúng, một siêu hình học chứng minh cho một đạo đức học là một điều vô nghĩa vì siêu hình học là việc truy tìm cái tuyệt đối, và trong trường hợp này, siêu hình học sẽ trở thành tương đối. Trong đời sống thường ngày, người nào biện minh một cách hậu thiên một hành động bằng một nguyên lý phổ quát đương nhiên bị kết án là đã phát minh ra nguyên lý đó vì cần có một nguyên nhân để giải thích và người đó bị coi là vô đạo đức và ngụy biện.
HỎI: Đạo đức học đặt ra những vấn đề siêu hình nào?
ĐÁP: Vấn đề chủ yếu là nguồn gốc của các mệnh lệnh của lương tâm. Ở đây người ta cũng có thể giản lược khi đưa chúng về sự giải thích theo tâm lý học ví dụ Freud giải thích bằng sự hình thành của siêu ngã (sur-moi) với sự phóng chiếu hình ảnh của người cha; hay sự giải thích theo xã hội học ví dụ Durkheim giải thích bằng áp lực trên cá nhân do các biểu tượng của ý thức tập thể. Trong trường hợp này đạo đức học không lệ thuộc vào siêu hình học, nhưng vào kinh nghiệm cá nhân hay tập thể. Nó chỉ liên hệ với siêu hình học trong trường hợp ngược lại; trong mức độ mà những mệnh lệnh đó có tính dứt khoát, nghĩa là tuyệt đối, “siêu việt tự nhiên và xã hội”.
HỎI: Tương quan giữa siêu hình học và khoa học?
ĐÁP: Có sự đối lập đã thành cổ điển. Ngoài những luận cứ của Auguste Comte, chúng ta đã biết sự đối lập ấy tiến hành trên những khái niệm về kinh nghiệm và về phương pháp.
Tuy nhiên toàn bộ khoa học dựa trên một học thuyết duy hiện thực và duy lý vì khoa học tin vào kinh nghiệm và giả định một trật tự luận lý trong tự nhiên.
Meyerson trong cuốn “Về sự giải thích trong các khoa học” nói: “Toàn bộ khoa học dựa trên niềm tin vào tồn tại độc lập với ý thức… Nó đòi phải có khái niệm về sự vật” và chúng ta hiểu đó cũng là một quan điểm siêu hình mặc nhiên. Sau cùng, phải nhớ lại “cây minh triết” mà Descartes, người sáng lập môn toán lý đã mô tả trong lời tựa cuốn “Những nguyên lý” : “Vì triết học là một cái cây mà rễ là siêu hình học, thân là vật lý học và ba cành chính của nó là y học, cơ học và đạo đức học”.. Trong câu trích dẫn, phải hiểu vật lý học bao gồm tất cả những khoa học tự nhiên.
HỎI: Tương quan giữ siêu hình học và tôn giáo?
ĐÁP: Những tương quan ấy có thể rất gần, Auguste Comte đã nhấn mạnh theo ông siêu hình học là hình thức lý luận suông của tôn giáo. Thật vậy nói rằng siêu hình học rất gần tôn giáo là chính xác vì cả hai đều đặt ra cho mọi người vấn đề cái Tuyệt đối. Nhưng tôn giáo giải quyết vấn đề của nguyên lý ban đầu bằng những đường lối riêng (sự hiện hữu của Thượng đế, đức tin, tín lý, sự mạc khải), trong khi siêu hình học luôn luôn là một hệ thống luận lý chỉ cần đến Lý tính và kinh nghiệm cá nhân và có thể xây dựng hệ thống xung quanh sự phủ nhận Thượng đế ví dụ như triết học của David Hume, học thuyết hiện sinh vô thần, v.v… cũng như xung quanh sự khẳng định Thượng đế. Khi một siêu hình học đi đến chỗ thừa nhận Thượng đế hiện hữu thì thái độ này thuần trí thức hay duy trí và thiếu khía cạnh cảm xúc và tương quan cá nhân mà chỉ có đức tin tôn giáo thiết lập. Vì thế Pascal đã đặt đối lập “Thượng đế của các triêt gia và các nhà thông thái” với “Thượng đế của Jésus-Christ”. Đức tin tôn giáo có thể đề cao một siêu hình học nhưng nó không làm nên thành phần phải có hay buộc phải có của tôn giáo.