TƯ TƯỞNG DÂN
CHỦ
CỦA CÁC NHÀ
NHO DUY TÂN ĐẦU THẾ KỶ XX
Trần Đình
Hượu
Đã đúng 80 năm kể từ khi thành lập cũng như khi đóng cửa của
trường Đông kinh nghĩa thục, trung tâm truyền bá tư tưởng và phát động phong
trào dân chủ ở nước ta đầu thế kỷ. Không phải vì lý do “khánh tiết” như vậy mà
ta bàn về tư tưởng dân chủ của các nhà nho yêu nước. Dân chủ hóa là yêu cầu cấp
thiết của đất nước từ phong kiến đi lên xã hội chủ nghĩa đã đượt đặt ra từ khi
thành lập và được Đại hội Vi đặc biệt nhấn mạnh. Nội dung dân chủ trong tư tưởng
và trong thực tế, là những bậc thang trên chiều cao của tiến bộ xã hội, cho nên
hiểu tư tưởng dân chủ của các nhà Nho duy tân là xác định độ cao đó của nước ta
đầu thế kỷ.
Chưa bao giờ trong lịch sử nước ta những chữ dân trí, dân khí,
dân sinh, dân quyền, dân chủ, những vấn đề liên quan đến người dân được nhắc đi
nhắc lại nhiều như đầu thế kỷ này. Không phải trước kia, trong thời phong kiến
ta ít nói đến dân. Thực tế rất khó khăn, luôn luôn gặp thiên tai và ngoại xâm,
làm cho người cầm quyền trước đây đã ý thức được rõ ràng vai trò của người dân.
Không chỉ Trần Quốc Tuấn, Nguyễn Trãi nói về dân mà cả Gia Long, Minh Mạng, cả
Tự Đức nữa, theo những lời ghi trong Thực lục, cũng không ngớt nói về dân, và
cũng không phải khi nào làm thế cũng chỉ là để mị dân. Điều khác trước là các
nhà Nho duy tân nhấn mạnh dân là chủ. Với các nhà Nho quen theo danh, theo chữ
mà nhận nghĩa, dân là chủ cũng là dân chủ. Ngày nay, muốn hiểu đúng điều họ đã
nghĩ, chúng ta lại phải tìm nội dung thực chất của tư tưởng dân là chủ của họ
mới xác định được trình độ dân chủ mà họ đã đạt tới, mà họ mong vươn tới.
Đầu thế kỷ, vào quãng những năm 1905 – 1907, nhiều áng văn
chương đã kích động lòng yêu nước, quyết tâm đổi mới phá tan không khí im lìm,
rã rời của cả nước: Bài ca Á tế á của
một tức giả khuyết danh, Lưu cầu huyết lệ
tân thư, Hải ngoại huyết thư của Phan Bội Châu; Đề tỉnh quốc dân ca, Đầu chính phủ thư
của Phan Châu Trinh, Hợp đoàn doanh sinh thuyết của Nguyễn Thượng
Hiền, bài ca Phen này cắt tóc của
Nguyễn Quyền… Các tác giả nói đến vận mệnh nguy nan của đất nước nô lệ và lạc
hậu, đến cảnh khổ nhục của người dân mất nước, đến nhiệm vụ cấp bach cứu nước và
duy tân. Tội nợ là do vua quan, do chế độ chuyên chế, nhưng trách cứ thì phải
trách cứ ở dân. Trách nhiệm cứu nguy phải đặt lên vai dân. Vì dân mới là chủ.
Phan Bội Châu nói tha thiết:
Người, dân ta; của dân ta,
Dân là dân nước, nước là nước dân.
…Sông phía Bắc, bể phương Đông
Nếu không dân cũng là không có gì
(Hải ngoại huyết thư)
Với tư tưởng dân là chủ như thế, Phan Châu Trinh phủ định quyết
liệt chính quyền Nam Triều, Phan Bội Châu viết quốc sử thay cho gia sử, các cụ
vạch ra phương hướng cứu nước và con đường xây dựng tương lai. Đó là một bước
ngoặt về tư tưởng, một bước phát triển thật sự của tư tưởng chính trị.
Trước đây trong kinh điển Nho gia đã nói; "Dân là gốc nước, gốc
vững thì nước yên' (Kinh thư – Ngũ tử chi ca), "dân là quý, tiếp đó là xã tắc,
vua là thấp" (Mạnh Tử), "vua là thuyền, thứ dân là nước, nước có thể chở thuyền,
cũng có thể làm lật thuyền" (Khổng Tử gia ngũ).Vì là lời thánh hiền, chép trong
Kinh, Truyện nên những điều đó đã thành định luận, thành chân lý phổ biến. Nhiều
người đã dùng những câu dó làm căn cứ lập luận, nhắc nhở vua quan cầm quyền quan
tâm đến dân. Nhưng dầu người dân, cũng được hình dung là số đông (chúng), có lực
lượng, khả năng, vai trò lớn đến đâu hì vẫn là dân đen, vẫn là thừân tử của vua.
Nhà vua nắm chủ quyền theo thiên mệnh: không coi dân là vật sở hữu như chủ nô là
lãnh chúa mà coi dân là vật được giao phó, phụ thuộc vào mình vì được uỷ trị.
Trời giao dân cho vua để vua chăn dắt, nuôi nấng và dạy dỗ và vì vậy theo trị
đạo của Nho giáo, vua phải là cha mẹ dân và theo sách Đại học thì như vậy có
nghĩa là "dân chi sở hiếu, hiếu chi; dân chi sở ố, ố chi", yêu ghét đúng cái mà
dân yêu ghét (chương X). Theo cáhc hiểu như vậy, "dân là quý", dân cao hơn, phải
được coi trọng hơn xã tắc và người làm vua, "dân là gốc nước" đều phải hiểu theo
tinh thần quan bản vị, phải với một tiền đề dân nước ngôi vua đều thuộc về vua, chủ quyền thuộc về vua,
dầu chủ quyền theo thiên mệnh có khác với quyền sở hữu. Trên cơ sở của tư tưởng
chủ quyền như vậy, người làm vua phải ý thức đầy đủ sức mạnh của nước – cũng tức
là của mình - từ dân mà ra cho nên phải biết nuôi dân, bồi dưỡng sức dân, phải
biết "thời sử, bậc liễn" (Đại học) điều động không hại đến sản xuất, phải hiểu
cải tạo lý "có đức thì có người, có người thì có đất (nước), có đất nước thì có
của, có của thì có dùng (Đại học – chương X). Vì hiểu như vậy cho nên Minh Mạng,
một ông vua chuyên chế điển hình luôn luôn lấy nguyên tắc "dân vi bang bản" ra
đốc thúc quan lại làm việc, tất nhiên Minh Mạnh nhắc điều đó và cũng nhấn mạnh
trách nhiệm lo cho dân, dạy dân là của vua. Và cũng vì vậy mà Bảo Đại , sau Dảo
chính Nhật dám đưa "dân vi quý" làm nguyên tắc hiến cho "đế quốc". Dân, người bị
trị, được quan tam, được yêu thương, được tôn trọng nhưng là thuộc về vua, người
cai trị, người có chủ quyền. Đó là quan điểm dân của Nho gia.
Quan điểm "dân" của Nho gia hình thành rất sớm, trải qua đấu
tranh gay gắt với Mặc gia và Pháp gia, được ổn định và chế độ chuyên chế thừa
nhân là đạo lý, làm tinh thần lập pháp. Quan điểm đó vốn ra đời theo tinh thần
"tôn Chu", lấy xưa làm thầy nghĩa là noi theo truyền thống. Theo tư tưởng truyền
thốngđó, người dân phải sống theo mệnh Trời và mệnh vua. Vua là bậc "thánh nhân"
có đạo đức, được trời lựa chọn, giao cho trị nước, trị dân nê ntự xưng là "thiên
tử". Vua theo mệnh trời thực hiện sự thống nấht tức là lập ra một trật tự trên
dưới quy tụ tất cả vào một người là thiên tử. Chỗ dựa để trị nước là họ hàng và
người thân tín (thân cựu), làm vua không chỉ là làm kẻ bề trên, kẻ cầm đầu mà
còn là kẻ làm cha mẹ, kẻ làm thầy của dân. Thiên Thái Thế trong Kinh Thư nói:
"Trời thương hạ dân đặt vua cho họ, đặt thầy cho họ". Cho nên dân không phải là
cái vua có, vua chiếm được - một thứ của cải, súc vật mà là những con người được uỷ trị, và vì vậy trị
dân không phải bằng hình phạt mà bằng đức, bằng lễ, bằng giáo hoá. Trong thực tế
thì sự tập trung tuyệt đối quyền hành vào thiên tử, đường lối dựa vào họ hàng và
kẻ thân tín, sự phân biệt quân tử, tiểu nhân - người cai trị và kẻ lao động –
trong xã hội làm nổi bật sự bất công vô lý.
Mặc gia và Pháp gia là những học phái chống tư tưởng trên mỗi
ben theo một phía. Mặc Tử cũng chủ trương một chính quyền có hiệu lực và tập
trung, nhưng lại phản đối sự bất công, bất bình đẳng trong xã hội. Mặc ử lên án
"Vương công đại nhân" "bóc lột, sống dựa vào sức của "nông phu chức phụ" (dân
lao động). Ông đòi hỏi người cầm quyền "làm điều lợi, bỏ điều hại" cho dân, phải
chọn người hiền tài để làm và làm việc hình chính thực sự. Ông phản đối việc
dùng người dựa vào họ hàng, dựa vào đẳng cấp. Mặc Tử tôn thờ Trời, nhấn mạnh
"thiên chí", nhưng chống lại thuyết thiên mệnh. Ông nhấn mạnh dân đều là con
Trời để đòi hỏi một thứ bình đẳng xã hội, một cách tuyển chọn (bầu?) hiền tài và
một đời sống dựa vào lực (sức lao động?) của từng người. Đó là tư tưởng phản
kháng truyền thốngcủa bình dân, của những người nông phu, chức phụ.
Ở một phía khác, Pháp gia cũgn chủ trương xây dựng một chính
quyền thống nhất và tập trung nhưng không coi nguồn góc của nhà nước là ở mệnh
Trời. Người làm vua dùng sức mạnh mà gaình lấy nước, lấy dân. Nước và dân là của
vua, vua có toàn quyền sử dụng theo ý mình. Mọi việc chính sự là do vua và vì
vua. Dân là những con người có tính "tự vị" (ích kỷ, vì mình), ham sống, ham
giàu, ham sang, thích thưởng, sợ phạt. Cho nên cai trị phải biết dùng "thế"
(chức vụ), dùng "thuật" (thủ đoạn), biếtcách thưởng phạt, thưởng hậu và phạt
nặng, bắt dân làm việc. Pháp gia phản đối cái chức năng làm cha, làm thầy của
người cầm quyền, phản đối lối cai trị bưàng đức, bằng lễ mà chủ trương nắm quyền
làm chủ, cai trị bằng pháp lệnh. Pháp lệnh coi mọi người như nhau, không phân
biệt theo thân sơ, theo đẳng cấp, nhưng ai cũng như nhau vì mọi người đều chỉ là
súc vật[1].
Nho giáo thắng thế, đúng ra là được chế độ chuyên chế vừa lòng
lựa chọn làm quốc giáo, chủ yếu là ở mấy điểm:
- Chính quyền thống
nhất vào một mối.
- Ông vua thánh nhân
vừa là cha vừa là thầy, cai trị theo mệnh Trời.
- Xã hội phân biệt theo
họ hàng, đẳng cấp.
Còn cách cai trị thì trong Pháp ngoài Nho, dùng cả đức, lễ, dùng
cả Pháp, Thuật. Xã hội không còn phân biệt theo tiểu nhân, quân tử mà đã theo
"tứ dân": sĩ, nông, công, thương. Chủ thể vẫn là nông dân vàthợ thủ công. Thương
nhân là hạng "thực mạt" bị khinh bỉ. Sĩ giữ chức trách giáo hoá, làm đội dự bị
cho bộ máy quan lại, nên được trọng vọng, đặt lên hàng đầu, làm người thay mặt
cho dân. Trong xã hội mà Nho giáo độc quyền chi phối chính trị - Đạo gia và Phật
giáo đều thừa nhận hay lên án về mặt lý luận thì cũng đều chấp nhân trong thực
tế cách tổ chức chính trị - xã hội của Nho giáo - người thường dân có trước mặt
không chỉ ông vua chuyên chế cực quyền mà còn có cả sự phân biệt trọng quan
khinh dân, trọng sĩ khinh dân lao động, trọng nông ức thương. Người dân thường
không chỉ là "dân đen" phải phục tùng vua quan trong họ trong làng mà họ vẫn là
"dân ngu" cần được giáo hoá.
Nhiệm vụ dân chủ hoá mà các nhà nho duy tân đầu thế kỷ đặt ra là
cho một người "dân" như vậy. Với người "dân đen", "dân ngu" vẫn được coi là quý,
là gốc của nước. Như vậy, muốn có quyền dân chuỷ tất phải giải quyết những vấn
đề không chỉ về dân quyền mà còn về nhân quyền, không chỉ về thân phận chính trị
mà còn về thân phận xã hội, về quan niệm nhân cách.
II
Với thực tế mất nước, xây dựng chính quyền thực dân, phát triển
kinh tế công thương nghiệp ở các thành
phố, nhà nho mất dần vai trò kẻ "tiên tri tiên giác", bị đẩy xuống hạng dân
thường. Nhà nho duy tân chứa chất một nhiệt tình yêu nước, thương dân nồng nàn,
càng ý thức được sâu sắc cái khổ, cái nhục của người dân mất nước. Họ nhìn ra
răm đường tai vạ của đất nước khi nằm trong tay một ông vua chuyên chế, khi sống
dưới chế độ vua quan. Tân thư, tân văn và cùng với nó "trào dâng, thác đổ" của
phong trào Duy tân ở Nhật Bản, Trung Quốc, "Sấm vang chớp giật" của tư tưởng dân
chủ châu Âu dội xuống làm cho họ bàng hoàng bừng tỉnh. Được mở mắt nhìn ra thế
giới, họ hào hứng tán thưởng cách kinh doanh làm giàu, say mê với tri thức, kỹ
xảo các nước tư bản - những cái đối lập với tình trạng trì trệ lạc hậu của ta –
và coi là lý tưởng của chế độ dân chủ tư sản – cái đối lập với chế độ chuyên chế
ở ta - cả một thế hệ các nhà nho mà phần lớn, những người cầm đầu là những nhà
khoa bảng nổi tiếng, say mê ca ngợi Khang, Lương, sùng bái Mạnh Đức tư cưu, Lư
Thoa. Họ kêu gọi giật giọng duy tân, đề xướng "dân là chủ".
Để khẳng định chân lý mới đó, các nhà Nho duy tân đã làm quen
với những tư tưởng tự do, bình đẳng, luật pháp, những vấn đề dân quyền của xã
hội phương Tây. Nhưng khi nói một cách thống thiết "muôn dân nô lệ dưới cường
quyền" (Phan Châu Trinh) thì người dân trước hết cũng được đặt trong thực tế mất
nước, trong quan hệ với nước bị mất về tay giặc ngoài và với vua quan chuyên
chế, chế độ nàh nước chịu trách nhiệm về việc mất nước đó. Và cường quyền trước
mặt là cường quyền của kẻ xâm lược thực dân. Cái được chú ý là chủ quyền quốc
gia chứ chưa phải là dân quyền, nhân quyền trong đời sống. Nói dân là chủ nhưng
dân là ai? được hình dung trong tập hợp thế nào? Trong một tình thế cấp bách,
nói như các cụ là ở vào thế như "lửa bén lông mi", cái trước mắt mà các cụ muốn
dân làm chủ là nhiệm vụ cứu nước. Không có gì sai lầm hay quỷ quyệt ở đây cả,
ngược lại mới đúng. Một sự thay đổi lớn như vậy đòi hỏi được biện giải. Phải tìm
cơ sở lý luận cho việc đưa dân thay vua làm chủ.
Trong thực tế thì tuy còn ngôi vua nhưng vua đã theo giặc, bỏ
mất quyền làm chủ. Tuy thế trước đó không lâu phong trào cưú nước rầm rộ khắp
toàn quốc vẫn được phát động dưới lá cờ Cần vương, theo tinh thấn Trung nghĩa.
Phan ĐÌnh Phùng, tấm gương chói lọi của lòng yêu nước lúc đó đã nói: "nước mình
mấy nghìn năm nay, đát nước không rộng, quân lính không mạnh, tiền của không
giàu, cái chỗ dựa để dựng nước là nhờ có cái gốc vua tôi, cha con theo năm đạo
thường mà thôi". Một ông vua có thể bị mất ngôi, mất nước nhưng ngôi vua vẫn là
tượng trưng cho nước, vẫn là ngọn cờ tập hợp nhân dân. Sức mạnh tậph hợp, sức
mạnh thống nhất của ngôi vua dựa vào thuyết Thiên mệnh của Nho gia, nước là của
Trời giao cho vua, mà dân cũng là của trời giao cho vua. Cái cộng đồng người
sống trong nước được hình udng như một gia đình mà người gia trưởng là vua. Do
công ơn nuôi nấng, dạy dỗ mà người dân phải biết ơn vua, phục tùng vua, biết ơn
và phục tùng như con đối với cha. Quan hệ kinh tế, quan hệ xã hội tuỳ theo mệnh
vua. Yêu nước chỉ có thể là trung nghĩa. Gạt bỏ ngôi vua thì chỉ còn lại dân.
Dân là chủ. Nhưng dân quan hệ với nước thế nào, quan hệ với cái cộng đồng người
trên cả đất nước thế nào? Dựa vào cơ sở nào mà có chủ quyền, mà có nghĩa
vụ?
Theo lý luận ở phương Tây người ta tìm cơ sở đó ở bản nguyên con
người và xã hội. Mọi người sinh ra đều tự do và bình đẳng và xã họi gồm những cá
nhân tự do, theo tự nguyện khế ước mà tổ chức nhà nước, đặt ra pháp luật. Những
cá nhân trong xã hội là công dân trước pháp luật và nhà nước. Trong xã hội,
trước nhà nước và pháp luật, mọi công dân là bình đẳng, là những cá nhân có
quyền tự do, có quyền sở hữu và có quyền mưu cầu hạnh phúc. Sự công bằng của
luật pháp chính là sự tôn trọng những quyền đó, tôn trọng sự khế ước giữa quyền
lợi và nghĩa vụ. Những người tự do và bình đẳng quan hệ với nhau theo tinh thần
hữu ái. Đó là cơ sở lý luận chống phong kiến, hình thành trong cuộc đấu tranh
của các tầng lớp thị dân, của giai cấp tư sản. Cá nhân, cái thực thể được đưa
làm đơn vị xã hội, được chế độ dân chủ tư sản bảo vệ quyền lợi, được chú ý ở
nhiều mặt: xã hội, chính trị, kinh tế. Quyền dân chủ cho những cá nhân đó trước
hết nhằm làm cho nó làm chủ được vận mệnh của mình trong đời sống xã hội và
chống lại sự lạm quyền của nhà nước và pháp luật.
Những điều đó khi đến với các nàh Nho duy tân, được hoan nghênh
nhiệt liệt vì đó là thuốc giải độc cho bệnh chuyên chế. Nhưng thực tế nước ta
lúc đó chưa có tiền đề để tiếp nhận những vấn đề như vậy. Trước sự mất nước và
chế độ chuyên chế có tội làm mất nước, người dân được các cụ suy tôn làm chủ mà
các cụ trao cho họ, được hình dung ở những bình diện hoàn toàn khác. Không
xuấtphát từ cuộc đấu tranh chính trị - xã hội đòi tự do, bình đẳng và công bằng,
các cụ không quan tâm nhiều về bản nguyên của con người và xã hội, không nhìn
người dân là những con người được tập hợp như thế nào để thành xã hội, để có nhà
nước và pháp luật, những thực thể thiết yếu không thể bỏ qua khi bàn về nhân
quyền và dân quyền. Các cụ chỉ chú ý người dân của nước, người dân trong quan hệ
với nước. Nước theo cách nhìn của lối làm ăn mới không chỉ là lãnh thổ với phong
tục văn hiên riêng mà nhấn mạnh chứ đựng nhiều tài nguyên, còn dân sinh tự trên
lãnh thổ ấy thì được nhấn mạnh là thuộc cùng dòng giống. Bị một tư tưởng rất phổ
biến thời ấy ám ảnh là giống da vàng có nguy cơ diệt chủng vì người da trắng,
các cụ nhắc nhởdòng giống Tiên Rồng, con cháu Lạc Long và Âu Cơ - đẻ trăm trứng,
nở trăm con – không những cao quý vì linh thiêng và anh hùng, thống minh mà còn
sinh sản nhiều không thể diệt chủng. Đất nước, địa bàn sinh tụ của dòng giống là
gia tài, sản nghiệp, là tự điền hương hoả do tổ tiên để lại. Trong nước những
người dân vì là con cháu cùng của một giống nòi, có tính máu mủ ruột rà với nhau
nên liên kết lại theo nghĩa đồng bào. Còn với bên ngoài, với các nước, ta cũng
giống như trong quan hệ họ hàng, làng xóm:
Hồn xưa dòng dõi Lạc Long
Con nhà Nam Việt nười trong giống vàng
Chi na chung một họ hàng
Xiêm La, Nhật Bản cùng làng Á Đông.
Với những người quốc dân sống theo nghĩa đồng bào như vậy, cồng
đồng xã hội khôngphải thành lập theo khế ước, theo nguyên tắc tự nguyện, không
cần dựa vào sự sòng phẳng, công bằng về nghĩa vụ và quyền lợi . Động lực để làm
chủ hay chủ động làm tròn nghĩa đồng bào ruột thịt.
Làm chủ thể cho cuộc vận động dân chủ của các nhà Nho duy tân là
còn người "quốc dân - đồng bào" chứ không phải là con người "cá nhân – công dân"
như trong cách mạng dân chủ ở phương Tây. Con người quốc dân - đồng bào như thế
ra đời không những là sản phẩm của cuộc đấu tranh dân tộc nhằm giànhđộc lập mà
còn là sản phẩm của tư tưởng Nho giáo, nếp nghĩ theo nho giáo.
- Lấy gia đình mà hình
dung thế giới.
- Lấy cuộc sống làng họ
mà hình dung xã hội và nhà nước.
- Sống theo tình,
nghĩa, từ nghĩa đồng tông, đồng hương mà suy đến nghĩa đồng bào. Lấy ân tình với
tổ tiên đất nước, tình nghĩa với đồng bào thay thế nghĩa quân thần.
Với cách suy nghĩ đó thì tổ chức xã hội cũ có mở rộng, có thêm
bớt nhưng không có cải tổ cách mạng. Con người vẫn là thành viên của cộng đống
chứ không phải cá nhân, vẫn định tính bằng có đức - bên cạnh tư đức có thêm công
đức - chứ không phải là nhân cách độc lập . hơn thế nữa, làm đơn vị cho xã hội,
dân chủ đó là những con người với đủ quan hệ cha con, anh em, vợ chồng, tức là
hệ tiểu nông chứ không phải cá nhân của quan hệ tư sản. Người ta huy động hết
các quan hệ mẹ con, anh em, vợ chồng, bè bạn để thúc dục người quốc dân làm
nghĩa vụ với nước:
Sao cho ơn trả nghĩa đền
Để yên việc nước, kẻo phiền mẹ cha.
Làm trai yêu nước quên nhà,
Nước kia có vững thì nhà mới nên.
Nói quên nhà làm tạm xa,
tạm rứt bỏ chứ không phải gia đình mất ý nghĩa trong đời sống xã họi. Năm đạo
thường mà trước đây Phan Đình Phùng coi là chỗ dựa để không mất nước vẫn còn đủ
cả năm, chỉ bớt nghĩa vua tôi và thay bằng nghĩa đồng bào.
Những lời kêu gọi thiết tha, nóng bỏng nhiệt tình yêu nước và
cách mạng của các nàh nho duy tân lúc đó có sức lôi cuốn rất mạnh, đổi hẳn bộ
mặt tinh thần của đất nước, xây dựng thành một phong trào quần chúng rộng rãi từ
Bắc chí Nam. Chất men sau lòng, kích thích phong trào chính là tư tưởng dân là
chủ, nhưng như ta đã rõ, tư tưởng dân chủ của các cụ chứa đựng không nhiều yếu
tố cách mạng, không hứa hẹn những tiến bộ thực sự về quyền dân chủ cho người
dân.
III
Phong trào Duy tân kép dài không lâu, vừa nhen nhóm lên đã bị
thực dân Pháp đàn áp. Nhưng phong trào lan ra khá rộng và có rất nhiều nhà nho
các tỉnh tham gia. Dai đại biểu về tư tưởng mà cũng là hai lãnh tụ phong trào là
Phan Bội Châu và Phan Châu Trinh. Ta quen phân biệt Phan Châu Trinh là dân chủ
còn Phan Bội Châu là người bạo động, ít tư tưởng dân chủ hơn Phan Châu Trinh. Lý
do là Phan Châu Trinh chống Nam triều mà Phan Bội Châu phô Cường để là minh chủ.
Hai cụ Phan trong lịch sử cận đại nước ta là những nhân vật quan trọng về nhiều
mặt, đời hoạt động của hai người còn kép dài sau khi phong trào Đông kinh nghĩa
thục chấm dứt, hoạt động trongnhwngx điều kiện đã khác nhiều. Cho nên chúng tôi
chưa muốn bàn ở đây tư tưởng dân chủ của hai cụ, mà chỉ đề cập đến một vài cạnh
khía có liên quan đến những vấn đề đã nêu ở trên.
Phan Châu Trinh là người chống Nam triều rất quyết liệt. Phan
Châu Trinh cũng là người vạch trần những cái thối tha trong xã hội Việt Nam từ
chốn triều đình đến vùng thôn ấp, từ vua quan cho đến cường hào, thân sĩ, dân
thường. Ông làm cho người ta căm iận, ông làm cho người ta tởm lợm cái cảnh “cá
bậc đại thần ăn đầm, nằm đìa ở chốn triều đình”, các quan tỉnh huyện chỉ biết
“bắt phu, thu thuế cùng đi đón đi tiễn quý quan”, “đút lót người trên nhiễu kẻ
dưới”. Và ở thôn xóm lúc nhúc đầy hạng người: nhờ có chức vị đi lại “tráp giày
bệ vệ, rần rần ngựa xe”, những hạng
Thầy thư lại, bác kỳ hào,
Gặm xương mút tủy lao nhao như ruồi…
… Chú trùm, bác kỷ, thầy cai,
Lừa eo, thắt cổ chẳn ai mà chừa.
Theo Phan Bội Châu thì Phan Châu Trinh là người đi đầu đề xướng
dân chủ, và điều đó dẫn đến tranh luận, chia rẽ ý kiến, gây trở ngại cho cuộc
vận động võ trang bạo động của Phan Bội Châu. Nhưng hiện nay ta không có tài
liệu về phong trào tranh luận giữa các nhà Nho thuộc hai phía. Phan Châu Trinh
cũng không viết một bài nào nói rõ tư tưởng dân chủ của mình, ngoài bài diễn
thuyết quân trị và dân trị viết sau này vào năm 1925. Phan Bội Châu không phải
không thích dân chủ nhưng cụ cho rằng với thực trạng nước đã mất và dân trí kém
cỏi thì dân chủ còn là quá cao cả: “Nước không còn nữa thì chủ cái gì?” (Thư gửi
Phan Châu Trinh). Phan Bội Châu tập trung viết văn cổ động đoàn kết và cứu nước
giành độc lập. Nhưng về sau chính Phan Bội Châu lại đề cập đến nhiều cạnh khía
liên quan đến tư tưởng dân chủ. Hoặc là về quan niệm viết sử, hoặc là đề cao
người chống triều đình mà cụ cho là dân chủ, hoặc là viết chính cương, tuyên
ngôn của chính đảng, hoặc là mô tả sinh hoạt dân chủ trong Đảng, viết những bài
thơ tố cáo bất công xã hội, nói về dân quyền… Nhưng ý kiến cũng thường tản mạnh,
thiếu cái nhìn sâu sắc về các vấn đề chính trị - xã hội. Chính Phan Bội Châu lại
cho ta biết nhiều về cách hiểu tư tưởng dân chủ lúc đó, và qua cụ mà ta biết
những hạn chế của tư tưởng dân chủ thời đó.
Cả hai cụ Phan, khi tiếp nhận tư tưởng dân chủ, mong muốn đưa nó
ra cứu nước, đều gặp một khó khăn: người dân quá lạc hậu. Hai cụ dầu chủ trương
con đường khác nhau nhưng lại rất nhất trí là phải khai dân trí, chấn dân khí,
tức là tuyên truyền cổ động để nâng cao tinh thần yêu nước và duy tân, để mở
mang hiểu biết cho dân. Nhưng lấy ai để làm công việc “giáo hóa” đó?
Phan Bội Châu nghĩ đến nhà nho, những người đại biểu cho dân và
tin ở sức mạnh văn chương của họ.
Quyết vùng dậy, dơ tay tả đản,
Đứng đầu tiên là bạn làng Nho
… Xin những bậc sĩ phu trong nước,
Có chữ rằng: “Đạo giác tư dân”
Đem lòng nghĩ đến quốc dân,
Lựa dần khuyên nhủ nhau dần từ đây.
Miệng diễn thuyết, dao này chém quỷ
Lưỡi hùng đàm gương ấy soi yêu.
Đối với dân trí, dân khí nước nhà, Phan Châu Trinh nhìn còn bo
quan hơn. Ngoài những bọn nịnh hót, luồn cúi, những bọn ỷ thần cậy thế, có tiền
thì ăn chơi: “Suốt cả thành thị cho đến hương thôn, đứa gian giảo thì như ma
quỷ, lừa gạt, bóc lột, cái gì mà chẳng dám làm; đứa hèn yếu thì như lợn, như bò,
giẫm cổ, đè đầu cũng không dám ho he một tiếng! Cả mấy mươi triệu người, như đàn
ruồi, lũ kiến, không còn chút nhân cách nào”, Phan Châu Trinh cũng không tin gì
ở đám hủ nho. Đám nhà Nho “ươn hèn, lười biếng, ù ù cạc cạc”. Nhưng nếu nhân dân
không có nhân cách thì sao xứng đáng có quyền dân chủ? Và lấy ai mà giành quyền
dân chủ? Giống như những nhà Nho, Phan Châu Trinh coi quần chúng chỉ là hạng
“tối tăm, mù mịt, mềm yếu, ươn hèn” – dân đen và dân ngu – và tự coi mình là
tiên tri, tiên giác, những “chí sĩ, nhân dân” tự nhận lấy trách nhiệm giáo dục
đám quần chúng ấy. Nhưng đám “chí sĩ nhân dân” ít ỏi – và theo tính khắt khe của
Phan Châu Trinh thì sẽ cực ít ỏi - sẽ cùng ai giành quyền dân chủ và giành quyền
dân chủ cho ai? Phải chăng những người tiên tri tiên giác có thẻ ban phát tư
tưởng dân chủ và quyền dân chủ cho mọi người? Có thể dùng tư tưởng dân chủ để
giáo hóa thì người tiên tri tiên giác cũng có thể dùng chế độ dân chủ - thể chế
chính trị - xã hội và luật pháp - để cưỡng chế mọi người. Hạ bệ được ông vua
nhưng còn ông cha và ông thầy trên đầu, người dân cũng còn thấy nặng, khó làm
chủ.
Từ quãng cách 80 năm, chúng ta nhìn lại một chặng đường của lịch
sử phát triển tư tưởng dân chủ. Quãng cách không quá gần mà cũng không quá xa
cho ta thấy dễ dàng thực chất nội dung và phương hướng phát triển của tư tưởng
dân chủ, cho ta thấy con đường dài mà chúng ta đã đi được từ đó đến nay. Tư
tưởng dân chủ của các nhà nho duy tân, những người tiền chiến nhất của thời đại
đó, có rất nhiều hạn chế. Quả thật thực tế đất nước và quan điểm giai cấp của
các cụ chưa cho phép các cụ nhìn ra nhiều vấn đề. Nhưng cũng phải nói vốn hiểu
biết và cách suy nghĩ kiểu nhà Nho không cho phép nhìn ra cái phi lý, tiếp nhận
cái hợp lý. Có sống trong khung cảnh bịt bùng thời đó mới thấy việc các cụ làm
lớn lao đến đâu, dũng cảm đến đâu; dân chủ vốn trái ngược vớ bản chất nhà Nho.
Việc làm của các cụ và những hạn chế mà
các cụ còn mắc cho ta thấy sức ràng buộc kinh người của Nho giáo. Yêu nước
thương dân đến như thế, nhiệt tình đổi mới đến như thế, đã thấy dược người hủ
nho dở đến như thế mà các cụ muốn vượt ra khỏi Nho giáo còn khó khăn hơn biết
bao!
[1]
Chống lại hai học phái đối lập đó,
Nho giáo cực lực bảo vệ quan diểm trật tự theo thân sơ trên dưới và quan điểm
trị dân bằng Đức và Lễ