Home » » BUỔI HOÀNG HÔN CỦA NHỮNG THẦN TƯỢNG ( TIẾP THEO)

BUỔI HOÀNG HÔN CỦA NHỮNG THẦN TƯỢNG ( TIẾP THEO)

Written By kinhtehoc on Thứ Bảy, 14 tháng 1, 2012 | 00:46

NHỮNG KẺ MUỐN “CẢI THIỆN NHÂN LOẠI”
1.
Người ta biết điều tôi đòi hỏi nơi những triết gia: họ phải đặt mình bên kia thiện ác, - họ phải đặt ảo tưởng về phán đoán luân lý bên dưới họ. Sự đòi hỏi này là kết quả của một cuộc khảo sát mà tôi phát biểu lần thứ nhất: tôi đi tới chỗ kết luận rằng: không hề có những sự kiện luân lý. Phán đoán luân lý đồng ý với phán đoán tôn giáo trong sự tin tưởng vào những thực tại không có. Luân lý chỉ là một sự diễn giải một số những hiện tượng nào đó, nhưng là một sự diễn giải sai lầm. Phán đoán luân lý, hệt như phán đoán tôn giáo, thuộc về một bình diện ngu dốt nơi ý niệm về thực tại, sự phân biệt giữa thực và mộng tưởng chưa có: đến nỗi rằng, trên một bình diện tương tự, “chân lý” chỉ biểu thị những sự vật mà ngày nay chúng ta gọi là “tưởng tượng”. Đó là lý do tại sao phán đoán luân lý không bao giờ được coi là đứng đắn cả: như thế bao giờ nó cũng chỉ chứa đựng cái vô nghĩa. Nhưng, như một lý thuyết về ký hiệu, nó có một giá trị vô cùng quí báu: nó phát hiện, ít nhất cho những người hiểu biết, những thực tại quí giá nhất của những nền văn hóa và những thế giới bên trong chưa hiểu biết đủ để tự “hiểu” mình. Luân lý chỉ là ngôn ngữ của những dấu hiệu, một triệu chứng học, người ta phải biết trước nó chỉ cái gì để có thể rút lợi ích từ đó.

2.
Đây là thí dụ thứ nhất, hoàn toàn có tính cách tạm thời. Bất cứ thời nào người ta cũng muốn “cải thiện” con người cả: chính cái đó, trước hết, được gọi là luân lý. Nhưng dưới cùng một danh từ có thể ẩn dấu nhiều khuynh hướng khác biệt nhau nhất. Sự thuần hóa con vật người cũng như sự nuôi nấng một loại người nào đó đều có thể gọi là sự “cải thiện” được cả: chỉ có những danh từ thuộc về động vật học mới chỉ đúng những thực tại, - nhưng đó là những thực tại mà “kẻ cải thiện”, những giáo sĩ, quả thực, không biết gì cả, - không muốn biết gì cả... Gọi là “cải thiện” sự thuần hóa của một con vật, đối với lỗ tai của chúng ta nó hầu như một lời đùa cợt. Ai biết được điều xảy ra trong những chuồng thú, nhưng tôi không tin con vật được “cải thiện” ở đấy. Người ta làm yếu nó đi, người ta làm nó trở nên bớt nguy hiểm, bởi cảm thức suy nhược tinh thần của sự sợ hãi, bởi đau đớn, bởi sỉ nhục, bởi đói khát, người ta khiến nó thành con vật ốm đau bệnh hoạn - Chẳng khác gì con người thuần thục mà những giáo sĩ đã “cải thiện”. Trong những năm đầu thời Trung Cổ, khi Giáo Hội trước hết là một chuồng thú, khắp nơi người ta tổ chức những cuộc săn những loại thú “tóc vàng” đẹp đẽ nhất [34] - người ta “cải thiện” những dân Nhật Nhĩ Man quí phái chẳng hạn. Nhưng sau đó một kẻ dòng Nhật Nhĩ Man trông ra sao khi đã được “cải thiện” và đưa vào tu viện? Nó có vẻ như một bức hí họa của con người, một sự sa sẩy: người ta đã làm nó thành một kẻ “phạm tội”, nó bị nhốt trong lồng, người ta đã nhốt nó trong những khái niệm khủng khiếp... nó nằm đó, đau ốm, khốn khổ, lòng đầy hờn oán đối với chính mình; đầy thù hận đối với những bản năng hướng về đời sống, đầy nghi ngờ tất cả những gì còn khỏe mạnh và sung sướng. Tóm lại, nó là một “tín đồ Kitô giáo”... Nói theo danh từ sinh lý học: trong trận đấu với mãnh thú, làm nó bệnh hoạn có thể là cách duy nhất làm nó yếu đi. Đó là điều Giáo Hội đã hiểu: Giáo Hội đã làm hư hỏng con người, Giáo Hội đã làm nó suy yếu đi - nhưng Giáo Hội lớn tiếng tuyên bố đã “cải thiện” con người...

3.
Chúng ta hãy xét một trường hợp khác của cái tự nhận là luân lý, trường hợp nuôi dưỡng một chủng loại đặc biệt nào đó. Thí dụ hùng vĩ nhất được cung hiến bởi luân lý Ấn Độ, được tôn giáo chuẩn nhận, là “Luật Manu”. Ở đây người ta đặt ra vấn đề phải nuôi không dưới bốn giai cấp cùng một lúc. Một giai cấp tăng lữ, một giai cấp chiến sĩ, một giai cấp thương gia và làm ruộng, và cuối cùng một giai cấp tôi tớ, giai cấp Sudra. Hiển nhiên ở đây chúng không có ở giữa đám người dậy thú nữa: một loại người một trăm lần dịu dàng và biết lẽ phải là điều kiện tiên quyết để đi tới chỗ quan niệm chương trình nuôi dưỡng như vậy. Người ta thở một hơi dài tự do khi ra khỏi bầu không khí Kitô giáo, bầu không khí của bệnh viện và của ngục tù, vào trong một thế giới lành mạnh hơn, cao ráo hơn và rộng rãi hơn? Tân Ước nghèo nàn xiết bao khi so với Manu và nó nặng mùi xiết bao! - Nhưng chính sự tổ chức này cũng cần phải khủng khiếp, - lần này không phải với dã thú mà với phản đề của nó với con người không được nuôi dưỡng, con người tạp nhạp, giai cấp Tchândâla [35]. Và lại một lần nữa nó không có cách gì làm yếu và vô hại hơn là cách làm cho nó bệnh hoạn - đó là cuộc tranh đấu với “đại đa số”. Có lẽ không có gì xúc phạm tình cảm của chúng ta cho bằng những biện pháp phòng ngừa của luân lý Ấn Độ. Sắc lệnh thứ ba chẳng hạn (Avadhna - sastra I) sắc lệnh về “rau cỏ nhơ bẩn” phán quyết rằng thực phẩm duy nhất dành cho giai cấp Tchândâla là hành và tỏi, nhân vì Thánh Kinh cấm cho họ mễ cốc hay trái cây có hạt hoặc nước hay lửa. Cũng sắc lệnh đó phán quyết rằng nước mà họ cần dùng không được lấy từ sông hay suối hoặc ao hồ, mà chỉ được lấy từ đầm lầy và những vũng nước chân thú vật. Họ còn không được phép giặt giũ quần áo và tắm rửa bởi vì nước họ được ban cho vì nhân đạo chỉ được dùng với mục đích duy nhất là giải khát. Sau cùng, những phụ nhữ Sudra không được phép giúp đỡ những phụ nhữ Tchândâla khi sinh đẻ, và những người phụ nữ sau này cũng không được phép giúp đỡ lẫn nhau... - Kết quả của những qui tắc vệ sinh này thấy rõ ngay: bệnh dịch chết người, bệnh phong tình ghê khiếp và như hậu quả của nó, một lần nữa “luật của lưỡi dao”, ban lệnh cắt bao bì qui đầu của những đứa bé trai và cắt bỏ labia minora [36] của những đứa bé gái. - Chính Manu nói: “Giai cấp Tchândâla là kết quả của ngoại tình, loạn luân và tội ác” (- đó là hậu quả thiết yếu của ý tưởng nuôi dưỡng). Quần áo chúng chỉ là những giẻ rách lấy từ những xác chết, chén bát là những bình, hũ bể, đồ trang sức là sắt gỉ, và ma quỷ là đối tượng thờ phượng của chúng; chúng phải đi lang thang hết nơi này tới nơi khác, không được nghỉ ngơi. Chúng không được viết từ trái sang phải và viết bằng tay phải; sự sử dụng tay phải và viết từ trái sang phải dành cho những người đức hạnh, cho những người thuộc chủng tộc cao quí.

4.
Những qui tắc này khá rõ ràng: qua chúng, ta thấy nhân tính của dòng Aryan, hoàn toàn sơ khai, chúng ta thấy ý tưởng “huyết thống tinh tuý” là sự ngược lại của một ý tưởng vô hại. Trái lại, nó trở nên rõ rệt trong dân tộc nào sự thù hận, sự thù hận giai cấp Tchândâla đối với “nhân tính” này đã được bất tử hoá, nơi nó đã trở thành thần thánh... Từ quan điểm này, Phúc Âm là những tài liệu thượng hạng; Sách của Enoch còn hơn thế nữa. - Kitô giáo nẩy sinh từ gốc rễ Do Thái, chỉ có thể hiểu được như sản phẩm của mảnh đất, trình bầy sự phản động chống lại luân lý nuôi dưỡng, dòng giống, đặc ân - đó là tôn giáo - chống lại Aryan đệ nhất: Kitô giáo, là sự đảo hoán mọi giá trị Aryan, sự chiến thắng của những giá trị Tchândâla, Phúc Âm giảng cho dân nghèo và hạ tiện, sự nổi loạn tập thể của tất cả những kẻ bị chà đạp, những kẻ bần cùng, xấu hổ, bạc phước chống lại “dòng giống”, - sự trả thù vĩnh viễn của giai cấp Tchâdâla trở thành tôn giáo của tình yêu...

5.
Luân lý của sự nuôi dưỡng và luân lý của sự thuần hóa vô cùng giá trị bởi những phương tiện chúng dùng để đạt tới cứu cánh, chúng ta có thể thiết định như qui luật thứ nhất của chúng ta rằng để làm ra luân lý, người ta phải có ý muốn vô điều kiện cái nghịch lại. Đó là vấn đề lớn lao, vấn đề kỳ quái mà tôi đeo đuổi từ lâu: tâm lý: của “những kẻ muốn cái thiện” nhân loại. Một sự kiện nhỏ và khá khiêm tốn, sự kiện tự nhận là pia fraus [4], đã mở cho tôi lối vào đầu tiên vấn đề này: pia fraus, di sản của tất cả những triết gia và giáo sĩ đã “cải thiện” nhân loại. Cả Manu lẫn Platon, cả Khổng Tử lẫn những giáo phụ Do Thái và Kitô giáo, chẳng người nào nghi ngờ quyền nói láo của họ. Họ cũng chẳng nghi ngờ nhiều quyền khác nữa của họ... Nếu muốn diễn tả thành định thức, người ta có thể nói: tất cả mọi phương tiện từ xưa tới nay được dùng nhằm mục đích làm cho con người đạo đức đều hoàn toàn vô luân.


Nguồn:  Friedrich Nietzsche, Buổi hoàng hôn của những thần tượng hay làm cách nào triết lý với cây búa , Nguyễn Hữu Hiệu dịch, Nxb. Hồng Hà, 1971. Bản điện tử do talawas.org thực hiện.


CHÚ THÍCH

[1] Từ quan điểm vĩnh cửu - (chú thích của người dịch).

[2] Sein, L'être, Being

[3] Schein, Apparence, apparence. - (chú thích của người dịch).

[4] Pháp văn trong nguyên bản: định kiến

[5] Héraclite là triết gia tiền-Socrate duy nhất tin vào Biến Dịch, vào hiển thể và những gì giác quan chứng nghiệm. - (chú thích của người dịch).

[6] Nguyên nhân của chính nó.

[7] Hữu thể chân thực nhất. -- (chú thích của người dịch).

[8] Täter und Tun - (chú thích của người dịch).

[9] Ich-Subsstanz.

[10] Vernunft Kategorien. “Phạm trù” (Kategoric) ở đây chỉ có nghĩa là phương tiện, không mang một âm hưởng nào “Phạm trù” của Kant cả - (chú thích của người dịch).

[11] “wahres Sein”

[12] Nicht-Sein

[13] Hay hư vô, Nicht

[14] Danh từ Phật giáo: Sắc giới - (chú thích của người dịch).

[15] Wahrheit = chân lý, tương đương với wahre Wet = thế giới chân thực.

[16] Nietzsche muốn nói tới Kant và tỉnh Königsberg, miền bắc nước Đức, nơi Kant sống và chết. - (chú thích của người dịch).

[17] NƠI ĐÂY BẮT ĐẦU ZARATHUSTRA (Và bắt đầu triết lý Nietzsche) - (chú thích của người dịch).

[18] Pháp văn trong nguyên bản: “Phải giết chết những đam mê”. - (chú thích của người dịch).

[19] Dòng Trappe, dòng luyện tâm, nổi tiếng vì kỷ luật khắt khe. - (chú thích của người dịch).

[20] Instinkte des Lebens, Thoát ra ngoài sự câu thúc của ngôn ngữ, “Instinkte des Lebens”, ở đây còn có thể hiểu như “khuynh hướng về đời sống”. Trái với tất cả những nền luân lý khác đàn áp cuộc sống, đầy những cấm kỵ, hướng về điều “thiện” như một cứu cánh tuyệt đối, đức lý lành mạnh theo Nietzsche nhằm xiển dương cuộc đời, kích thích bản năng sinh động, hướng về một cuộc sống giải thoát, nguy hiểm, mãnh liệt. Tư tưởng sau có thể nói lên chủ trương của tất cả những nền đức lý lành mạnh (gesunde Moral) ấy: “Tất cả những gì sống đều thiêng liêng.” (everything that lives is holy - William Blake, America) và “Cuộc sống đích thực của những giác quan và xác thịt tôi siêu thăng những giác quan và xác thịt tôi” (the real life of my senses and flesh transcending my senses and flesh - Walt Whitman, Leaves of Grass) - (chú thích của người dịch).

[21] das Leben selbst zwingt uns, Werte anzusetzen; das Leben selbst wertet durch uns, wenn wir Werte ansetzen...

[22] Lời của Pilate khi rửa tay trao Jésus Christ do dân Do Thái “Ecce homo” có nghĩa là: “Đây là con người đó!” hay “Hãy nhìn người này!” (Saint Jean, XIX, 5) - (chú thích của người dịch).

[23] Ở đây chúng ta không thể không nhắc tới Spinoza, một trong những triết gia mà Nietzsche coi như tiền bối của mình, với chủ trương đón nhận tìm hiểu và không bao giờ lên án con người tương tự: “Seduce curavi, humanas actiones non redere non lugere neque detestari, sed intelligere”, Tractatus politieus (1677) ch. 1, 4. “Tôi đã cố gắng một cách thận trọng để không chế giễu hay thương hại hoặc ghê tởm những hành vi con người, mà chỉ để thấu hiểu chúng” - (chú thích của người dịch).

[24] Wir verneinen nicht leicht, wir suchen unsre Ehre darin, Bejahende zu sein. Tất cả định tắc luân lý của Nietzsche nằm trong một chữ “Ừ” hoặc “Phải” hay “Vâng” (Yea) trước cuộc đời, trước tất cả những nguồn vui, trước tất cả khổ đâu, trước tất cả dâu biển tang tương thê thảm và khủng khiếp của cuộc đời. Con người lý tưởng của Nietzsche khẳng định giống như những nhân vật bi tráng trong bi kịch Hy Lạp sau khi đã trải qua tất cả khảm kha bất bình: “Tất cả đều tốt lành.” (Tout est bien) - (chú thích của người dịch).

[25] Pháp văn: Phép ăn uống kiêng cữ.

[26] Hãy tin kẻ đã thí nghiệm!

[27] In Formel: seine Tugend ist die Folge seines Glücks...- (chú thích của người dịch).

[28] Hạng người “thời đại” Nietzsche khinh bỉ -- (chú thích của người dịch).

[29] Alles Gute ist Instinkt.

[30] Việc trước, tiền sự của một sự việc hay sự kiện gì. - (chú thích của người dịch).

[31] Phần xấu xa đáng xấu hổ. - (chú thích của người dịch).

[32] Thần kinh giao cảm. - (chú thích của người dịch).

[33] Nguyên nhân đệ nhất. - (chú thích của người dịch).

[34] Nietzsche dùng chữ này đầu tiên trong “Phổ hệ luân lý”, chỉ những con người hùng mạnh cao quí như những anh hùng của Homère, những hải tặc Viking - (chú thích của người dịch).

[35] Giai cấp hạ lưu ngoài lề xã hội - (chú thích của người dịch).

[36] Môi nhỏ. - (chú thích của người dịch).
Share this article :
 
Support : Creating Website | phuctriethoc | NGUYỄN VĂN PHÚC
Copyright © 2013. NGUYỄN VĂN PHÚC - All Rights Reserved
By Creating Website Published by KINH TẾ HỌC
Proudly powered by NGUYỄN VĂN PHÚC
NGUYỄN VĂN PHÚC : Website | Liên hệ | phuctriethoc@gmail.com
Proudly powered by Triết học kinh tế
Copyright © 2013. NGUYỄN VĂN PHÚC - All Rights Reserved