Home » » VÀI NHẬN XÉT VỀ HỎA TINH VÀ MỘC TINH

VÀI NHẬN XÉT VỀ HỎA TINH VÀ MỘC TINH

Written By kinhtehoc on Thứ Tư, 25 tháng 1, 2012 | 21:09

HỎA TINH
NHỮNG ĐIỀU NÊN BIẾT
V.- Theo lời Huynh nói: Thì hiện giờ ở hai Bầu Hỏa Tinh và Thủy Tinh có nhơn vật theo đường tiến hóa của Nội Cảnh Tuần Hoàn. Vậy thì con người ở Hỏa Tinh ra sao? Họ có giống chúng ta chăng?
Đ.- Nhiều vị La hán, Cao đồ của Chơn sư, trong đó có Đức Leadbeater, có đến viếng Hỏa Tinh và Thủy Tinh, nhưng thường qua Hỏa Tinh ở lâu hơn Thủy Tinh, không rõ vì lý do nào.
Sau đây tóm tắt những lời nhận xét của các Ngài về hai Bầu Hành tinh đó. Chúng nó không giống với sự khảo cứu của các nhà Thiên văn hiện kim. Vậy tôi chỉ trình bày mà thôi; tin hay không tin là quyền của Huynh và các Đạo hữu.
Chắc chắn khi Huynh nghe nói: “Đến viếng” – Huynh muốn biết các vị ấy đi bằng cách nào?
Không phải đi bằng xác thân, cũng không phải đi bằng cái Vía, Hạ trí hay Thượng trí.
Theo nguyên tắc phải dùng Kim thân hay Tiên thể, bởi vì từ cõi Bồ đề sắp lên, các hành tinh đều thông đồng với nhau.
VÀI SỰ NHẬN XÉT VỀ HỎA TINH *
*Theo Thiên văn học thì:
1/ Trái đất ở cách mặt trời: 149.500.000 cây số.
2/ Hỏa Tinh ở cách mặt trời: 227.720.000 cây số.
3/ Thủy Tinh ở cách mặt trời: 57.850.000 cây số.
Vị trí:
Hỏa Tinh ở xa trung tâm mặt trời hơn Địa cầu. Cho nên ở trên đó người ta thấy mặt trời nhỏ bằng phân nửa mặt trời của ta thấy. Hỏa Tinh nhỏ hơn Địa cầu, nhưng già hơn. Không phải nó lớn tuổi hơn bởi vì 7 Bầu Hành tinh sanh ra trong một thời với nhau. Nhưng mà tại nó nhỏ hơn cho nên nó phải trải qua từ trạng thái tinh vân cho tới giai đoạn nguội dần có đất cát mau lẹ hơn Địa cầu.
Địa thế:
Trong cuộc Tuần hoàn thứ Ba, khi nhơn vật qua ở Hỏa Tinh thì trạng thái của Bầu này giống y như trạng thái của Địa cầu hiện giờ. Diện tích của biển giã lớn hơn diện tích của đại lục, nghĩa là nước nhiều hơn đất.
Trái lại, ngày nay ở Hỏa Tinh diện tích của đại lục lớn hơn diện tích của hải dương. Có nhiều miền hoang vu rộng lớn, trên mặt đất có phủ một lớp cát màu đỏ vỏ cam chói sáng rực rỡ.
Ấy là màu đặc biệt nó làm cho người ta dễ nhận thấy Hỏa Tinh trong lúc ban đêm.
Khí hậu rất tốt. Ở miền xích đạo ban ngày nóng tới 70 độ Farenheit tức là bằng 20 độ của bách độ hàn thử biểu của chúng ta thường dùng. Dân chúng tụ lại miền này vì ở đây có nhiều nước nôi đầy đủ và sự sống dễ dàng.
Mỗi đêm thường thường giá lạnh. Có một điều làm cho chúng ta lấy làm lạ là ở Hỏa Tinh quanh năm bầu trời trong vắt không có một đám mây. Lẽ tự nhiên, không có mưa mà cũng không có tuyết rơi. Khó mà phân biệt được mùa tiết.
Ngày của Hỏa Tinh dài hơn ngày của chúng ta vài phút nhưng mà năm lại dài bằng hai năm của chúng ta.
Dân cư:
Số người còn lại ở Hỏa Tinh rất ít vì họ theo “Con đường tiến hóa của Nội Cảnh Tuần hoàn”.
Họ giống như chúng ta, song tác nhỏ hơn. Người cao hơn hết không quá 1m60, phần đông thì là 1m50 bề cao. Ngực của họ rộng vì không khí ở Hỏa Tinh ít hơn ở cõi Trần, họ phải thở cho dài hơi, dưỡng khí mới vô trong máu đầy đủ.
Dân chúng chỉ thuộc về một giống dân mà thôi vì vậy gương mặt và màu da không khác nhau lắm.
Cũng như ở cõi Trần, có những người tóc đen, da hơi vàng, phần đông thì tóc vàng, con mắt xanh hay xanh tím, dung mạo giống như người Na Uy (Norwégien).
Y phục của họ màu sặc sỡ làm bằng một thứ hàng rất nhẹ phủ từ vai xuống chơn.
Họ đi chơn không, có khi mang một thứ dép làm bằng kim khí, có quai cột vào mắt cá.
Chế độ đa thê vẫn thịnh hành ở Hỏa Tinh.
Họ thích những bông hoa và có trồng nhiều loại.
Thành thị:
Thành thị của họ xây dựng theo những đô thị hoa viên. Nhà cửa thì cất chung quanh những sân ở phía trong, cả thảy đều có một từng nhưng choán một chỗ rộng lớn. Xem bên ngoài thì dường như chúng nó làm bằng pha lê có màu sắc, nhưng thật sự vật liệu của họ dùng trong suốt như thủy tinh và có những rãnh, ở ngoài nhìn vào không thấy ở trong, mà trái lại ở trong nhìn ra ngoài thì thấy vườn tược rõ ràng.
Họ không mang từ cục đá hay cục gạch đặng cất nhà như chúng ta vậy. Khi vẽ xong hình cái nhà thì họ làm cái khuôn bằng kim khí giống hệt họa đồ, rồi tô một lớp xi măng. Họ lấy cái chất lạ lùng giống như pha lê đó nấu cho chảy ra rồi đổ vào khuôn, tới chừng nào chất này nguội và cứng thì người ta lấy cái khuôn đi; cái nhà đã hoàn thành, người ta chỉ còn đánh bóng mặt ngoài mà thôi.
Những cửa cũng lạ, không có bản lề, không có chốt. Chúng nó thụt vô trong vách tường. Trong nhà và ngoài nhà có ghi sẵn những dấu ở dưới đất. Chỉ cần để chơn lên những dấu đó thì cánh cửa mở ra hay đóng lại.
Những cửa này thì làm bằng một thứ sắt. Dường như người ta không dùng cây đặng xây cất.
Tiếng nói:
Ở Hỏa Tinh người ta chỉ nói có một thứ tiếng mà thôi. Vì người ta sợ mất ngày giờ nhọc công cho nên người ta hết sức giản dị hóa nó.
Trừ ra những bộ lạc còn dã man thì dùng thứ tiếng của họ. Họ là dòng giống những người mới thoát kiếp thú nên bị bỏ lại trong lúc nhơn vật từ giã Bầu hành tinh đặng qua Địa cầu của chúng ta. Họ còn thấp thỏi hơn mấy bộ lạc ở Phi châu, Úc châu và Á châu nữa.
Cách ghi tư tưởng:
Người ở Hỏa Tinh có hai cách ghi những tư tưởng của họ.
Cách thứ nhứt: Nói vào một cái hộp nhỏ như ống nói của điện thoại của chúng ta. Mỗi tiếng nói ra đều nhờ cái máy ghi lại bằng một thứ dấu rất phiền phức trên một tấm kim khí. Khi nói xong người ta lấy tấm này ra khỏi hộp, trên mặt nó thì đầy những dấu kỳ dị, đỏ sậm, ai biết thứ chữ này mới đọc được.
Cách thứ nhì là viết tay: Những thứ chữ này là một thứ “chữ tốc ký” rất khó đọc; đối với chúng ta thì nó lạ lùng lắm mà nó lại viết mau như lời nói.
Những sách vở đều in bằng thứ chữ này. Chúng nó cuốn tròn lại, những trang sách thì bằng kim khí rất mỏng và rất dẻo không dễ nứt hay dễ gãy như loại kim khí của mình. Những chữ thì khắc nhỏ rí, muốn đọc phải dùng kiếng lúp phóng đại (loupe) gắn một cách khéo léo trên một cái chân. Trong cái chân có chứa một cái máy có thể lật những trang sách với một tốc độ mau hay chậm tùy theo ý muốn của độc giả, nhờ như vậy mà độc giả khỏi đụng tới cuốn sách.
Chính trị:
Nước chia ra làm nhiều lãnh vực lớn. Mỗi lãnh vực lớn gồm nhiều địa phận. Mỗi địa phận còn chia ra nhiều khu vực nhỏ nữa v. v. . . không khác tổ chức hành chánh của chúng ta chút nào. Trên hết là Vua, dưới quyền Ngài là các vị Phó Vương cai trị những lãnh vực lớn. Mỗi vị Phó Vương chỉ huy những vị Tổng Trấn của những địa phận, rồi cứ tiếp tục như thế xuống tới chức vụ của một viên Xã trưởng của một làng.
Các giai cấp thống trị đều độc tài và dân chúng có quyền kêu nài lên thượng cấp; nhưng ít có việc bất bình vì thường thường dân chúng phục tùng pháp luật hơn là thượng tố.
Cái đó cũng nhờ các nhà cầm quyền luôn luôn lo làm tròn bổn phận của mình. Người ta nói mấy vị này sợ những sự phiền phức xảy đến cho họ nhiều hơn là việc phải công bình chính trực.
Ở Hỏa Tinh, ngai vàng không truyền tử lưu tôn. Trước khi thăng hà, vua chọn một người tài đức đặng lên kế vị cho Ngài.
Chánh phủ lãnh phần nuôi dưỡng và dạy dỗ trẻ em. Ở mỗi lãnh vực cơ quan giáo dục chia chúng nó ra nhiều hạng tùy theo thiên tư của mỗi đứa.
Thế thì đường lối sinh sống của chúng nó đã định sẵn rồi. Nhưng khi chúng nó lớn khôn, biết phân biệt, chúng nó được quyền chọn lựa con đường của chúng nó đi.
Những trẻ nào thông minh mẫn tiệp, có căn tánh tốt, người ta để dạy riêng đặng sau chúng nó cầm quyền thống trị.
Nền văn minh:
Nền văn minh của người Hỏa Tinh vốn thuộc về loại tối thượng cổ. Họ giữ gìn những phong tục, những tập quán của tổ tiên họ trước khi mấy vị này qua Địa cầu.
Từ đó đến giờ họ thêm vào di sản nhiều sự phát minh khác.
Dường như điện lực là động lực duy nhứt dùng trên Hỏa Tinh. Những máy móc thế cho công việc của thủ công đều chạy bằng điện lực.
Hệ thống kinh đôi:
Bởi mặt đất ở Hỏa Tinh bằng phẳng nên người ta rất sợ nạn lụt lội. Trên đó cũng có những mùa nước nổi như sông Cửu Long của chúng ta. Vì vậy mà chỗ nào nước ứ đọng nhiều thì họ đào thêm một cái kinh thứ nhì song song với con kinh đã có để dẫn nước đi nơi khác.
Hệ thống kinh đôi trên Hỏa Tinh mà các nhà Thiên văn học của chúng ta đã diễn tả vốn do những kỹ sư đời xưa lúc chưa qua Bầu trái đất bày ra đặng lợi dụng nước ở những miền Bắc cực và Nam cực tràn xuống khi những khối băng tuyết tan rã.
Những dòng nước trên Hỏa Tinh chia ra muôn ngàn nhánh nhóc chảy khắp mọi nơi làm cho hai bên bờ, ruộng đất phì nhiêu, cỏ non tươi tốt, cây cối xum xuê, những khu rừng rậm chạy tận chơn trời.
Tất cả những sự kiện này làm ra một vòng đai màu sậm mà các nhà Thiên văn học nhìn qua viễn vọng kính thấy rõ khi Hỏa Tinh đi gần Địa cầu của chúng ta.
DUY VẬT CHỦ NGHĨA
Có một điều đáng làm cho ta chú ý là bây giờ đây, những nhà trí thức, những nhà bác học, những kỹ sư và hầu hết dân chúng trên Hỏa Tinh đều hoàn toàn theo Duy Vật Chủ Nghĩa.
Tại đây không có nhà thờ, không có miếu đường, không có chỗ nào để hiến cho sự thờ phượng một vị Thần linh, không có mục sư và cũng không uy quyền Giáo hội.
Đối với dân chúng, cái chi mà được chứng minh một cách khoa học thì mới là sự thật. Còn tư tưởng, điều nào mà không chứng minh được thì là một sự điên cuồng và lại còn là một tội trọng bởi vì thái độ đó bị coi như là có tánh cách phá hoại sự an ninh công cộng.
Ta hãy tìm hiểu coi vì lý do nào vậy?
Đọc lại lịch sử người Hỏa Tinh, trong cái quá khứ xa xăm, chúng ta thấy nó có phần giống như lịch sử dân tộc chúng ta. Sử sách ở Hỏa Tinh không có ghi chép những chuyện bắt bớ, giam cầm, hành hạ và đàn áp các nhà tôn giáo và những người mà họ cho là có những tư tưởng phá hoại. Mấy người sau này chẳng những nỗ lực tìm những lý lẽ để binh vực họ mà họ lại còn cản trở sự tự do tư tưởng của kẻ khác nữa.
Vì vậy dư luận của quần chúng nhứt quyết không cho những phần tử gây rối loạn được tự do hành động.
Họ tuyên bố rằng: chỉ có khoa học Lý Hóa và Luận cứ thực nghiệm mới được sự tôn sùng tuyệt đối.
Ở Hỏa Tinh cũng có những biến cố, những hiện tượng mà khoa học không cắt nghĩa được. Nhưng dân chúng cho rằng tốt hơn là đừng nghĩ tới mấy vấn đề đó.
Thử hỏi thái độ của các nhà bác học ở Hỏa Tinh có giống thái độ của các nhà bác học của chúng ta hiện thời không?
Y HỌC PHÁT TRIỂN TỚI MỨC TỐI CAO
Điều làm cho chúng ta hết sức ngạc nhiên là ở Hỏa Tinh, khoa Y học đã phát triển tới mức tối cao. Tất cả những chứng bịnh đều bị diệt trừ, không một ai bị cảm sốt, nhức đầu, nóng lạnh, đau ruột, đau gan, đau thận, đau mắt chi cả. Người ta tránh được phần lớn dấu hiệu già nua như tóc bạc, răng long, da nhăn, má cóp. Người Hỏa Tinh sống lâu hơn chúng ta mà không thấy già. Khi tuổi đã quá cao và không còn muốn sống nữa thì họ thác một cách êm ái. Họ có thói quen lại một cái trường Khoa học giống như trường Giải phẩu của chúng ta và xin người ta làm cho họ thác mà không đau đớn. Thường thường những lời xin của họ được chấp thuận.
Tại Địa cầu chúng ta chỉ có một giống dân sống lâu và vô bịnh là những người Hung Za ở miền Hi Mã Lạp Sơn, phía Bắc xứ Cachemire. ( Xin đọc quyển Les Hounza. Un peuple qui ignore la maladie par Ralph Eircher – Traduit par Gabrielle Godet – Editions Victor Attinger)
NGƯỜI HỎA TINH CÓ BIỆT TÀI VỀ VIỆC TẬP LUYỆN THÚ VẬT NHÀ
Người Hỏa Tinh có biệt tài về việc tập luyện thú vật nhà. Về phương diện này họ giỏi hơn chúng ta thập bội, chúng ta chưa có bì kịp họ đâu.
Họ dạy dỗ nhiều loại thú vật cách nào không rõ mà hay cho đến đỗi mấy con thú này làm được một phần lớn công việc trong nhà và ngoài vườn mà không ai coi chừng hay chỉ huy chúng nó.
KHOA HUYỀN BÍ HỌC Ở HỎA TINH
Tuy nhiên đã nhiều thế kỷ rồi, ở Hỏa Tinh cũng như ở Địa cầu đều có một nhóm người tìm hiểu những luật bí ẩn thiên nhiên. Họ lập ra một hội kín để khảo cứu những vấn đề siêu hình. Họ tin rằng ngoài cõi đời mà họ đương ở đây còn nhiều thế giới thiêng liêng khác nữa. Họ rất am hiểu khoa từ điện, khoa Thần linh học và nhiều người đã mở được những quyền năng siêu việt.
Hiện giờ hội kín này đã bành trướng và do một vị Đệ tử của Chơn sư điều khiển. Họ tỏ ra rất thận trọng trong sự tuyển chọn một người hội viên mới.
Có vài nhà Huyền bí học trong hội kín tìm được phương thế qua cõi Trần chúng ta không khó khăn chi lắm.
Họ mượn xác đồng tử trong những cuộc chiêu hồn, họ cũng linh cảm nhiều nhà thi sĩ và văn hào đặng viết ra những tiểu thuyết nói về đời sống trên Hỏa Tinh. Lẽ dĩ nhiên, mấy vị này ngỡ là những điều của họ đã diễn tả vốn ở trong trí tưởng tượng của họ chớ không dè sự thật là họ nhờ các nhà Huyền bí học ở Hỏa Tinh giúp sức và cho họ những ý kiến.
Sự tiết lộ về Hỏa Tinh đối với chúng ta bao nhiêu đây tưởng cũng đủ lắm rồi, bây giờ xin thuật những sự quan sát của các vị Cao đồ về Thủy Tinh.
THỦY TINH
Về vị trí thì Thủy Tinh ở gần mặt trời hơn Hỏa Tinh và Địa cầu, cho nên ở tại Thủy Tinh người ta thấy mặt trời 7 lần lớn hơn mặt trời của chúng ta thấy thường ngày ở thế gian.
Vì vậy người ta đinh ninh rằng ở Thủy Tinh sức nóng vô cùng dữ dội không có loài vật nào sống và sinh sản ở Thủy Tinh được. Lý luận như vậy nghe qua rất đúng, nhưng người ta không biết rằng ở Thủy Tinh có một lớp khí bao bọc bầu không khí của nó. Lớp khí này làm ra một bức màn cản trở sức nóng của mặt trời, cho nên ở Thủy Tinh cũng có nhơn vật như ở cõi Trần vậy.
Nhưng có khi xảy ra những trận giông tố dữ dội làm xáo trộn sự thăng bằng, sự yên tịnh của lớp khí bao bọc bầu không khí của hành tinh này. Cái tai hại lớn hơn hết là có những bão thọc phủng một lỗ trong lớp khí này và chỉ trong chốc lát thôi, một lằn sáng của mặt trời nương theo lỗ trống đó mà dọi thẳng xuống mặt đất, nó đốt cháy cây cối và giết hại sinh vật. Mà cũng may thay, những biến cố như thế vẫn ít khi xảy ra lắm.
Một vị Cao đồ nói: Tôi nhìn xuyên qua nóc của một cái hang không khác nào tôi nhìn xuyên qua nước. Tôi ngước mặt lên, tôi thấy mặt trời; ban đêm sao mọc như ở cõi Trần.
Tại sao như nhìn xuyên qua nước. Bởi vì bầu Thủy Tinh cấu tạo bằng chất dĩ thái (matière éthérique) nhiều hơn chất đặc, khác hơn cõi Trần của chúng ta.
Đất cát trên Thủy Tinh không có cứng rắn như ở Địa cầu, tuy chúng không trong trẻo như pha lê chớ trông suốt qua được.
Tôi biết giải thích như thế này rất khó hiểu bởi tại chúng ta chưa thấy dĩ thái ra sao, chúng ta chưa biết cái Phách của chúng ta cho nên khó tưởng tượng lắm.
Ở Hỏa Tinh và Thủy Tinh hấp lực ít hơn ở cõi Trần. Thân thể người Thủy Tinh nhẹ nhàng hơn thân thể của chúng ta. Họ có thể nhảy lên cao một cách dễ dàng và lẹ làng nữa.
Ở Thủy Tinh da trời xanh biếc. Mây ở rất cao.
Tại xích đạo có một vòng đai bằng cát.
Năm tháng ở Thủy Tinh vắn hơn ở cõi Trần. Một năm ở Thủy Tinh chỉ dài bằng 90 ngày của chúng ta.
Con người ở Thủy Tinh thì lùn, tác không quá 1m30 bề cao. Vóc vạc mảnh khảnh. Xương thì mềm như xương sụn (cartilage), da thịt nhẹ không có nặng nề như da thịt chúng ta bởi vì trong mình họ có nhiều chất dĩ thái. Màu da đỏ nâu. Tóc luôn luôn không phải màu đen, có bà tóc nhiều màu đỏ hoe.
Không thấy đàn ông có râu.
Sự thai nghén rất dễ dàng. Đứa nhỏ sanh ra thì có nhãn quang của cái Phách; nói cho dễ hiểu, nhãn quang là con mắt của cái Phách chớ thật sự nó là luân xa của cái Phách ở chính giữa hai chơn mày và đã hoạt động.
Đứa nhỏ thấy đồ vật để cách vách và nhìn xuống đất thì thấy tới đất cái.
Đức Leadbeater có thuật lại chuyện sau đây. Ngài thấy:
1/ Một đứa nhỏ đương xem một con rắn bò xuống hang. Con rắn vô sâu trong hang rồi mà đứa nhỏ cũng còn theo dõi những cách cử động của con rắn.
2/ Một người nông phu nhìn xuống đất đặng coi hột giống của mình gieo như thế nào, đã mọc mộng chưa.
3/ Một người thầy thuốc đương khám bịnh bằng nhãn quang rồi cho những luồng dĩ thái lành mạnh vô mình bịnh nhơn đặng y mau bình phục.
Người Thủy Tinh coi y phục như là để trang sức chớ không có lý do nào khác.
Khi họ nói chuyện với nhau thì người ta nghe như những tiếng nhạc êm ái.
Tánh tình dân chúng rất tử tế. Cũng như người ở Hỏa Tinh, họ theo con đường tiến hóa của Nội Cảnh Tuần Hoàn. Song có khác một điều là: Người Hỏa Tinh thuộc về cuộc Tuần Hoàn thứ Tư, còn họ thì thuộc về cuộc Tuần Hoàn thứ Ba, họ kém tiến hóa hơn người ở Hỏa Tinh.
Bởi dân số không đông đảo cho nên trên Thủy Tinh còn nhiều chỗ trống không người ở.
Không có thành thị. Nhiều nhà cất một chỗ với nhau làm ra một xóm rồi chung quanh thì trồng tỉa.
Tình thương đậm đà thâm thúy, khắn khít mặn nồng, nhưng đời sống bình thường không phải là đời sống phu phụ. Sự giao thiệp nam, nữ không lãnh một vai tuồng trọng yếu.
Cũng có những người dạy dỗ trẻ em, dân chúng.
Nhưng ở Thủy Tinh không có cái chi khêu gợi lòng sùng Đạo, hay là bắt buộc người ta phải cố gắng cho nhiều.
Những điều kiện thích hợp cho sự phát triển chậm chạp, bình thản.
Không có vấn đề giai cấp xã hội. Không có địa vị cao sang và cũng không có thứ bực thấp hèn.
Ấy là đời sống thuộc về Tộc Trưởng thuở xưa (vie partriacale).
DANH HIỆU NHỮNG VỊ ĐẮC ĐẠO THÀNH CHÁNH QUẢ
TRONG BỐN DÃY HÀNH TINH
1)- Danh hiệu những vị Đắc đạo thành Chánh quả ở Dãy Hành Tinh thứ Nhứt là A-SU-RA (ASOURAS). Tàu dịch âm là A-TU-LA.
2)- Danh hiệu những vị Đắc đạo thành Chánh quả ở Dãy Hành Tinh thứ Nhì là A-NHI-HOÁT-TA (AGNISHVATTAS).
3)- Danh hiệu những vị Đắc đạo thành Chánh quả ở Dãy Hành Tinh thứ Ba là Dãy Nguyệt Cầu hay Nguyệt Tinh (Chaîne Lunaire) xuống Trần thế giúp chúng ta, là BA-RIT-SA-BI-TRÍT (BARISHADS PITRIS).
4)- Danh hiệu những vị Đắc đạo thành Chánh quả tại Dãy Địa Cầu chúng ta hiện giờ là JI-HOĂNG-MÚT-TA (JIVANMUKTA); Phật Giáo gọi là ASEKA (A-SƠ-CA), Ấn Giáo gọi là ATITA.
CÔNG NGHIỆP CỦA NHỮNG VỊ A-SU-RA
a)- Những vị A-SU-RA lãnh nhiệm vụ tạo ra thân hình nhơn vật của Dãy Hành Tinh thứ Nhì.
b)- Qua Dãy Hành Tinh thứ Ba (Dãy Nguyệt Tinh), các Ngài lãnh nhiệm vụ của những vị AGNISHVATTAS.
AGNISHVATTAS là Tổ tiên của các vị Thiên thần (Pitris des Devas). Các Ngài chăm lo sự tiến hóa của các Thiên thần và coi sóc về sự mở mang Trí tuệ, bởi vì Trí tuệ của các Ngài thật là phi thườngchúng ta không tưởng tượng nổi.
c)- Qua Dãy Hành Tinh thứ Tư nầy các Ngài thuộc về hạng cao cấp hơn hết, những vị MANASAPUTRAS.
Chính là những vị MA-NA-SA-BU-TRA giúp con người tại quả Địa cầu mở mang trí tuệ một cách mau lẹ.
CHỚ NÊN LẦM LỘN DANH TỪ
A-SU-RA DÙNG Ở HAI CHỖ KHÁC NHAU
Xin nhắc lại Giống dân thứ Ba sanh ra thì Tiên Thánh mới cho ba nhóm Linh hồn đi đầu thai đặng lập ba bộ lạc khác nhau. Nhóm A, màu đỏ vỏ cam, kiêu căng tự phụ, chê những thân hình mà họ có bổn phận nhập vô, xấu xí quá, không xứng đáng với sự tiến hóa của họ. Họ ngỗ nghịch, không tuân theo mạng lịnh của Tiên Thánh; còn hai nhóm kia vâng lời.
Trong bộ Giáo Lý Bí Truyền (Doctrine Secrète) bà Blavatsky gọi họ là những vị A-Su-Ra (A-Tu-La trùng tên với những vị Siêu phàm Đắc đạo thành Chánh quả tại Dãy Hành Tinh thứ Nhứt.
Chính là Đức bà Annie Besant đã lầm lộn hai danh từ này trong khi bà viết quyển « Nhân Phổ » (La Généalogie de l’home) ba chỗ :
1- Trương 115.
2- Diagramme 1 – La Grande Hiérachie spirituelle.
3- Và Tableau D – Fonctions des Manasapūtras.
Tôi xin chép ba đoạn đó cho quí bạn xem.
PAGE 115. (LA GÉNÉALOGIE DE L’HOME)
De tels êtres formaient donc la première classes des Manasapūtras qui descendirent sur notre terre; ils avaient développé une intelligence extraordinaire. Ayant atteint l’humanité dans la première Chaîne planétaire, ils s’étaient développés pendant des aeons incalculables d’années dans les sphères plus subtiles, jouant le rôle de Pitris Barhishads dans la seconde Chaîne, et d’Agnishvatta Pitris dans la troisème. Dans la nôtre, la quatrième, ils survinrent, comme Fils de la Sagesse obscure, pour la grande bataille du quatrième Globe de la quatrième ronde de la quatrième Chaîne, le ne plus ultra de la séparation de la matière et le triomphe d’Ahamkara. Lorsque les ‘Fils’ recoivent du Logos Planétaire l’ordre de ‘créer leurs images’, ils commencent leur dernière lutte pour l’indépendence séparée, la lutte dont la fin leur enseignera la nature du Moi. Ils ne veulent pas créer. ‘Un tiers refuse, deux tiers obéissent. La malédiction est prononcée: ils renaîtront dans la quatrième, ils souffriront et feront souffrir.’ Ce seront les ‘Seigneurs à la Face sombre’, sur l’Atlantide en lutte avec les ‘Seigneurs à la Face éblouissante’, qui apprennent de leur terrible défaite la leçon finale, et chercheront l’unité dans les races les plus avancées de l’humanité. Ces Asuras forment le cinquième grand Ordre Créateur, celui de Makara, justement appelé le plus mystérieux de tous.
******************
DIAGRAMME 1.- LA GRANDE HIÉRACHIE SPIRITUELLE (5 è colonne).
La Hiérachie de Makara, son symbole est le pentagone. Ici apparît le double aspect physique et spirituel de la nature, le positif et le négatif, en lutte l’un avec l’autre. Ce sont les turbulents, les rebelles de bien des mythes. Une grand partie d’entre eux sont les Asuras, nés du 1er corps de Brahma, dit corps des Ténèbres.
Ce sont des êtres qui, sous de grands pouvoirs et une grande science spirituelle, cachent profondément enraciné le germe, l’essence d’Ahamkara, de cette faculté du Moi qui est nécessaire à l’évolution humaine.
(Những câu gạch dưới chân là sai)
**********************
Tableau D.- Fonction des Manasapûtras.
(Classe 1, 2è paragraphe)
Le principe qui les caractérise est l’Ahamkara, la faculté qui fait le Moi, la volonté d’être séparé. Ils sont toujours des rebelles, car l’Ahamkara se développe dans la lutte et l’isolement jusqu’à ce que la Moi ait appris que son expression la plus adéquate est la volonté divine, et alors l’Asura brise les entraves de la matière et apprend qu’il est un avec le Suprême, contre lequel il combattait.
Lorsqu’au début de la 4è Ronde ils reçurent du Logos l’ordre de créer des être à leurs images, ils refusèrent et furent alors condamnés à s’incarner, sous de mauvaises conditions dans la 4è Race. Ils y furent les ‘Seigneurs à la Face noire’ combattant en Atlantide les ‘Seigneurs à la Face Lumière’ et dans le terrible désastre qui s’ensuivit, ils apprirent la leçon final.
(Đoạn nầy sai)
************
LỜI ĐÍNH CHÍNH CỦA ĐỨC BÀ A. BESANT
Trong quyển ‘Con người từ đâu đến và đi về đâu’ chỗ chú giải 2 (Note 2) (L’Homme d’ il vient ? òu il va) Đức Bà A. Besant có viết mấy câu đính chính như sau đây về chữ Asura do Bà hiểu lầm.
‘Dans la Doctrine Secrète, une difficulté procède de l’application de ce même nom Asuras à cause qui quittèrent la chaîne lunaire sur le premier globe de sa septième Ronde et causèrent des difficultés sur la terre en refusant de créer. Les lecteurs de la Généalogie de l’homme voudront bien tenir compte des corrections que nous apportons icie et des détails suivront . J’avais été moi même induite en erreur par le double sens du mot dans la doctrine secrète. Les être humains ne peuvent jamais exister en tant que tels sur plus de deux chaînes sucessives. Il leur faut avoir atteint la surhumanité pour y apparaître ainsi’
(A. Besant)
(Trong “Giáo Lý Bí Truyền’ có một sự rắc rối do việc áp dụng danh từ Asura cho những người rời bỏ Dãy Mặt Trăng trên Bầu thứ Nhứt của Cuộc tuần hoàn thứ Bảy, và gây ra những sự khó khăn tại quả Địa cầu khi họ không chịu sanh hóa. Xin quí độc giả lưu ý đến những sự sửa đổi nơi đây và những chữ viết thêm, tới đây tôi vẫn lầm lạc vì hai nghĩa của chữ Asura do Đức bà Blavatsky dùng trong quyển ‘Giáo Lý Bí Truyền’. Con người không thể nào có mặt quá hai Dãy Hành Tinh liên tiếp. Phải vào hạng Siêu phàm mới hiện ra được như thế).
Câu: Con người không thể nào có mặt quá hai Dãy Hành Tinh liên tiếp có nghĩa chi? Phải thí dụ mới dễ hiểu. Những người bị bỏ lại trong sự phán xét cuối cùng của Dãy Mặt Trăng qua Dãy Địa Cầu chúng ta đều thành Chánh quả, làm những vị Siêu phàm, chớ không phải qua Dãy Hành Tinh sau là Dãy thứ Năm cũng còn đầu thai làm con người nữa. Mặc dầu Đức bà A. Besant có cải chính, song tôi thấy ít có người để ý tới, có lẽ vì không đọc quyển ‘L’Homme d’òu il vient, òu il va’. Trong cuốn ‘Science et Théosophie’ cũng họp lại ý nghĩa câu của Đức bà A. Besant nói trong quyển ‘Nhân Phổ’ (La Généalogie de l’Homme).
Xin quí bạn nhớ rằng một người đã vào địa vị Siêu phàm thì đâu còn các tánh xấu của thế tục nữa. Cho tới ngày nay kinh sách Phật còn dùng danh từ A Tu La tức là A-Su-Ra với ý nghĩa bất hảo của nó, chớ không biết rằng Asura còn một nghĩa nữa là những vị Thiên Tôn thành Chánh quả của ngàn triệu năm trước ở Dãy Hành Tinh thứ Nhứt. Tôi viết đoạn nầy để làm sáng tỏ vấn đề, ngày sau các bạn thanh niên không còn lầm lộn nữa.
Ở BA DÃY HÀNH TINH TRƯỚC ĐƯỢC MẤY LẦN ĐIỂM ĐẠO
MỚI THÀNH CHÁNH QUẢ THOÁT ĐỌA LUÂN HỒI.
1)- Ở Dãy Hành Tinh thứ Nhứt được một lần Điểm đạo thì thành một vị Siêu phàm được giải thoát.
2)- Ở Dãy Hành Tinh thứ Nhì được ba lần Điểm đạo thì thành Chánh quả.
3)- Ở Dãy Hành Tinh thứ Ba (Dãy Nguyệt Tinh) được bốn lần Điểm đạo thì thành một vị Siêu phàm.
4)- Ở Dãy Hành Tinh thứ Tư là Dãy Địa Cầu chúng ta phải tới năm lần Điểm đạo mới được giải thoát.
Còn ba Dãy Hành Tinh sau không rõ.
CON NGƯỜI PHẢI ĐẦU THAI BAO NHIÊU LẦN
TRONG BẢY CUỘC TUẦN HƯỜN
Muốn biết con người phải đầu thai bao nhiêu lần trong bảy Cuộc tuần hườn thì ta làm một bài toán như sau đây:
Trên mỗi Bầu Hành Tinh có bảy Giống dân Chánh.
Mỗi Giống dân Chánh sanh ra bảy Nhánh lớn. Mỗi Nhánh lớn sanh ra bảy Nhánh nhỏ nữa.
Vậy thì có tất cả: 7x7x7= 343 Nhánh.
Mỗi Linh hồn tùy theo bực tiến hóa của mình phải đầu thai hai hay ba lần, có khi bốn lần vào một Nhánh đặng học hỏi và kinh nghiệm, nếu hai lần thì trong 343 Nhánh, con người phải đầu thai:
2 lần x 343 = 686 lần.
Nếu như đầu thai ba lần thì phải :
3 lần x 343 = 1029 lần.
Còn bốn lần thì:
4 lần x 343 = 1372 lần.
Ta hãy lấy bực trung ở mỗi Bầu Hành Tinh, mỗi Linh hồn đầu thai: 770 kiếp thôi.
Thì trên bảy Bầu Hành Tinh hay là một Cuộc tuần hườn con người phải đầu thai:
770 kiếp x 7 = 5.390 kiếp.
Con người phải đi hết bảy Cuộc tuần hườn mới có thể thành Tiên Thánh. Vậy thì con người phải đầu thai:
5.390 kiếp x 7 = 37.730 kiếp
Đây là nói một cách tổng quát, nếu bị bỏ lại trong sự Phán Xét Cuối Cùng của một Bầu Hành Tinh hay là sự Phán Xét Cuối Cùng của một Dãy Hành Tinh thì không biết bao nhiêu kiếp mà nói.
PHẢI TU HÀNH TRONG BAO NHIÊU KIẾP
MỚI ĐƯỢC GIẢI THOÁT LÀM MỘT VỊ SIÊU PHÀM
Có hai con đường dắt đến mục đích chung là đưa con người từ đồng bằng lên tới Thánh Điện ở trên núi.
Con đường thứ nhứt hình Khu Ốc vòng quanh theo núi bảy lần.
Con đường thứ nhì lại dốc đứng thẳng băng.
Con đường thứ nhứt tượng trưng cho con đường Đời, là con đường tiến hóa bình thường.
Con đường thứ nhì tượng trưng con đường Đạo, là con đường của người tu hành.
Con đường Tiến Hóa Bình Thường rộng thênh thang, rất êm đềm, đẹp đẽ. Trên con đường nầy trùng trùng điệp điệp những khách hành hương, đua nhau bước tới. Hai bên đường cây cao bóng mát, hoa thơm, cỏ lạ, muôn sắc khoe màu. Khách lữ hành được tự do, muốn đi thì đi, muốn nghỉ thì nghỉ, không bị câu thúc, ràng buộc. Mặc tình hái bông, bắt bướm, chạy giỡn, nô đùa, ca hát, nhảy múa hay nằm dài trên thảm cỏ non, nhìn xem chim trời bay lượn.
Con đường thường được toại nguyện vì luôn luôn Hóa Công vẫn chìu chuộng trẻ dại lúc ban đầu.
Nhưng than ôi ! Hễ vay thì phải trả, trả rồi lại vay nữa, cứ vay trả, trả vay, trầm luân muôn kiếp.
Còn con đường thứ nhì thì chật hẹp, gồ ghề, cam go, hiểm trở, dẫy đầy đá sỏi nhọn như mũi tên, bén như dao cạo.
Bước không khéo thì đứt chơn đổ máu. Hai bên lề thì vực sâu, hố thẳm thấy ngợp mắt. Trên một khoảng con đường dài vắng tanh và buồn tẻ đối với thế tục, nhưng vô cùng vinh quang đối với các vị Thánh Nhơn, thỉnh thoảng người ta mới gặp vài ba người khách hành hương hăng hái leo trèo, dáng điệu mệt mỏi nhưng không ngã lòng. Họ cương quyết, bất chấp những gian lao khổ cực. Một thời gian sau, họ đạt được mục đích. Họ lên tới đỉnh núi và bước vào Thánh Điện, trước những bạn đồng hành lâu lắm vì mấy người này đi theo con đường vòng quanh rất chậm chạp.
Vậy thì ta có thể nói rằng số 37.730 kiếp để cho những người đi theo con đường tiến hóa bình thường của thế tục.
Còn người tu hành thì phải đi mau hơn.
Vậy ta hãy tính thử coi.
Thí dụ trong kiếp nầy ta cố gắng đem thực hiện những lời dạy trong quyển DƯỚI CHƠN THẦY.
- sáu kiếp sau được Điểm đạo lần thứ Nhứt.
- bảy kiếp kế tiếp được Điểm đạo lần thứ Tư, làm một vị La Hán.
- bảy kiếp chót sau nữa được Điểm đạo lần thứ Năm, làm một vị Siêu phàm, hoàn toàn giải thoát.
- Tất cả là 21 kiếp thay vì 37.730 kiếp như con người thường.
Nhưng ta có thể thâu ngắn lại không phải là 21 kiếp mà lối 13 – 14 kiếp nếu ta kiên tâm trì chí.
Sự tiến hóa trong đường Đạo không thể chỉ định bằng Toán Học Cấp Số (Progression Arithmétique) hay là Kỷ Hà Cấp Số (Progression Géométrique) như 2 – 4 – 6 – 8 hoặc 2 – 8 – 16.
Khi bước vào cửa Đạo rồi thì phải tính bằng lũy thừa (Exposant) như 2 – 4 – 16 – 256 – 65.536 – và 4.294.967.296.
Nhờ như vậy mới đi mau tới mục đích.
Vị Đệ tử không học gián tiếp như ngoài đời, mà dùng những quan năng như Thần Nhãn, Thiên Nhãn học hỏi trực tiếp nghĩa là thấy cách cấu tạo những nguyên tử, những tế bào v.v. . . sự phối hợp các tế bào đặng làm ra những cơ quan. Nói một cách khác là thấy sự hoạt động của sự sống trong các cơ thể, cách làm việc của các Ngũ Hành, thấy các vị Thiên Thần v.v. . . .
Khi thành một vị Chơn Tiên rồi thì có đủ quyền năng dự vào sự tạo lập một Dãy Hành Tinh hay là về cõi khác.
MỘT BẰNG CHỨNG CỤ THỂ
VỀ SỰ BIẾT ÁP DỤNG LUẬT TRỜI.
Nghe đoạn trên đây nói rằng: Một khi bước vào Đường Đạo rồi thì sự tiến hóa phải tính bằng lũy thừa, chắc chắn có nhiều bạn hoài nghi, chẳng biết tại sao tu hành mà lại đi mau tới mục đích như thế.
Tôi xin đưa ra một bằng chứng cụ thể cho quí bạn xem thì rõ sự biết áp dụng Luật Trời đem lại một cái kết quả mau lẹ là dường nào.
Quí bạn hãy đem một ấm nước để ngoài trời. Nắng và gió sẽ làm cho nước bốc thành hơi rồi bay đi nhưng có lẽ từ hai mươi ngày tới một tháng sắp lên không chừng, cái ấm mới cạn khô.
Bây giờ quí bạn đem cái ấm bắt lên lò rồi đun lửa. Trong chốc lát nước sôi rồi cái ấm mới cạn lần.
Nhưng mà thời gian từ khi bắt cái ấm lên lò cho tới khi nó cạn khô, lâu hay mau tùy thuộc nhiên liệu của quí bạn dùng.
Nếu là than thì mau hơn củi, điện thì mau hơn than, nguyên tử lực thì mau hơn điện.
Còn Vrill [[1]] thì mau hơn nguyên tử lực nữa.
Thế thì trong nửa giờ hoặc 20 phút, 15 phút hay 3 – 4 phút nước trong ấm sẽ bay đi hết, thay vì phải chờ đợi luật thiên nhiên hành động trong vòng hai ba chục ngày.
Vậy, ta có thể nói rằng: Ánh sáng mặt trời tượng trưng cho Luật Tiến Hóa bình thường, nó biến đổi nước tượng trưng con người ra Tiên Thánh song phải mất một thời gian rất lâu, tính cả trăm triệu năm.
Còn việc dùng nhiên liệu là áp dụng Luật Trời vào đời sống hằng ngày. Cái kết quả hết sức mau lẹ, người đời không tưởng tượng nổi vì chưa có kinh nghiệm. Xin nhớ rằng: Câu ‘SAU KHI BƯỚC VÀO CỬA ĐẠO có nghĩa là: SAU KHI ĐIỂM ĐẠO LẦN THỨ NHỨT CHỚ KHÔNG PHẢI MỚI TU HÀNH MÀ ĐƯỢC TIẾN MAU NHƯ THẾ’.
Chúng ta bắt đầu Học Đạo và Hành Đạo thì giống như một đứa bé một hai tuổi mới tập đi. Phải té lên té xuống không biết bao nhiêu lần trước khi đi vững tức là khi đã lớn khôn. Phải tu hành từ kiếp nầy qua kiếp kia, mới mong thấy được chút ánh sáng, chớ nào phải chỉ đọc qua vài cuốn sách về Huyền Bí Học hay là hiểu nghĩa vài bài Kinh mà đắc đạo thành Chánh quả.
Thiết tưởng chúng ta nói về các cõi Trời như Trung giới, Thượng giới, Bồ Đề, Niết Bàn hay là những Thể con người như: Phách, Vía, Trí, song chúng ta không thấy mấy cõi đó hay là mấy Thể đó ra sao cả.
Thật sự chúng ta còn đương ở trong chốn tối tăm chẳng khác nào những người mù. Chúng ta chỉ lập lại một cách bất toàn, những lời của các vị Đạo Cao Đức Trọng thuật lại cho chúng ta nghe. Các Ngài đã sáng mắt, các Ngài đã ra ngoài ánh sáng nên thấy rõ mọi sự vật. Những điều của các Ngài chỉ dạy là những sợi dây thép giăng thẳng băng để cho chúng ta vịn theo đó mà đi tới, khỏi sa hầm sụp hố. Cũng có thể nói rằng: các Ngài đốt đuốc Huệ soi đường cho chúng ta thấy mà đi.
Nếu chúng ta bất tuân những lời giáo huấn, chẳng chầy thì kíp chúng ta sẽ té nặng, không khi nào tránh khỏi được.
Chúng ta đâu khác những người chưa học Đạo, chúng ta cũng có gia đình, cũng có những công việc làm ăn sanh sống, nhưng chỉ có sự may mắn một điều là hiểu được chút ít Chơn lý mà thôi.
Hãy khiêm tốn một chút.
HÃY TỰ BIẾT MÌNH TRƯỚC ĐÃ RỒI SAU MỚI HỌC HỎI CƠ TRỜI VÀ TIẾN XA ĐƯỢC. ĐÚNG VỚI CÂU ĐÃ KHẮC TRÊN NGẠCH CỬA THÁNH ĐIỆN DELPHES: “NGƯƠI HÃY BIẾT NGƯƠI RỒI NGƯƠI SẼ BIẾT VŨ TRỤ VÀ CÁC VỊ THƯỢNG ĐẾ”.
Nếu chúng ta buộc lòng phải nói tới sự liên lạc giữa các Thể của con người với các cõi Trời chỉ vì nếu không rõ điều nầy thì khó mà tu luyện đặng đi đến mức trọn sáng, trọn lành được. Chỉ có thế thôi.
KẾT LUẬN
Vậy thì mỗi người có quyền tự do chọn lựa con đường đi hạp với mình. Không ai được phép ngăn cản hay ép buộc ta phải đi theo con đường nầy và bỏ con đường kia.
Tuy nhiên chúng ta nên phân biệt cái nào lợi, cái nào hại, cái nào hữu ích nhiều cái nào hữu ích ít rồi sẽ nhứt định không muộn.
Chúng ta đừng quên rằng chúng ta còn ở trong Trời thì phải tuân theo Luật Trời, chúng ta không cưỡng lại được đâu. Dầu chúng ta không muốn đi tới, Luật Tiến Hóa cũng lôi cuốn chúng ta đi theo nó.
Chúng ta sanh ra trong cái nôi rồi lần lần lớn lên, kế già yếu rồi tới một ngày kia phải nắm hai bàn tay trắng mà xuống mồ, phủi rồi công danh sự nghiệp, mà e cho những cái gì ta mến yêu, quí chuộng sẽ lìa bỏ chúng ta tiêu tan ra mây khói trước khi ta từ giã cõi Trần nầy. Nhưng không phải chết là hết. Ta còn phải tái sanh, kiếp sau phải trở lại thế gian cũng với hai bàn tay trắng, ta chỉ đem theo mình tánh tốt, tánh xấu, với quả lành, quả ác mà ta đã gây ra ở những kiếp trước.
Dầu ta có lý luận rằng: nhắm mắt rồi thì không còn gì nữa, cũng vô ích, không bao giờ cải được Thiên mạng, mà cũng không sống được muôn năm đặng ngồi trên đống vàng toại hưởng vinh hoa, phú quí.
Mặc dầu ai ai cũng thấy, sớm mai vầng Thái dương lố dạng ở hướng Đông, rồi chiều ẩn mình ở hướng Tây, và tin rằng mặt Trời mọc, mặt Trời lặn đi nữa thì thật sự Trái đất cũng xây quanh mặt Trời, và mặt Trăng vẫn xây quanh Trái đất. Hết ngày trở lại đêm, hết đêm trở lại ngày. Bốn mùa tám tiết vẫn cứ vần xây. Hết Xuân qua Hạ, hết Hạ tới Thu, hết Thu sang Đông, hết Đông trở lại Xuân như cũ.
Những luận thuyết và những hành động của con người không sửa đổi Luật Trời chút nào cả. Phải có kinh nghiệm. Kinh nghiệm nhiều chừng nào mới sợ oai Trời nhiều chừng nấy, mới không dám làm theo ý muốn quấy quá, ngông cuồng của mình đặng thấy CÁI HIỆU QUẢ NHỨT THỜI, bất chấp sự đau khổ của kẻ khác. Có vay thì có trả, chạy trốn đường nào cũng không khỏi. Cái quả tới mau hay chậm tùy theo thứ nhân đã gieo. Trồng lúa có thứ ba tháng, có thứ sáu tháng mới gặt. Còn trồng xoài thì 4 – 5 năm mới hái trái. Chớ đâu phải bất câu việc nào cái hậu quả cũng đến liền tay, như liệng giấy vào lửa thì nó bắt cháy phừng lên, mặc dầu có quả báo nhãn tiền mà ta đã thường thấy.
Hễ là Luật Trời thì đừng vi phạm, nếu vi phạm thì sẽ có việc phản động lại đặng tái lập sự quân bình: “THIÊN VÕNG KHÔI KHÔI, SƠ NHI BẤT LẬU”. Không bao giờ sai.
“GIEO GIÓ GẶT BÃO” vẫn đúng.
Thế thường khoe khoan sức mạnh của mình mà quên phứt sức mạnh của Trời. Hãy coi sức mạnh của Tạo Công, nó làm cho các Hành tinh xây chung quanh Mặt trời mà không bao giờ rời khỏi vị trí của chúng nó.
Nếu sai luật pháp một tí thì chúng nó đã đụng với nhau và đã nổ tung, biến thành tro bụi hồi đời nào rồi, chớ còn đâu tới ngày nay đặng cho chúng ta xem coi với những Viễn Vọng Kính của Thiên Văn Đài.
Một phần nhỏ nhít của sức mạnh thiên nhiên đã phô trương cho con người thấy trong sấm sét, bão bùng, sông biển dâng tràn, hỏa diệm sơn phun lửa, đất đai rung chuyển, núi non sụp đổ, cồn hóa vực, vực thành cồn.
MÀ THẬT RA CON NGƯỜI CÓ TÁNH HAY MAU QUÊN
Xin hãy nhớ mãi chuyện nầy. Một đại lục rộng lớn như Châu Ắt-Lăn-Tích thuở xưa còn bị Nhân Quả nhận chìm xuống đáy biển nội trong một đêm thay. Huống hồ con người là một sanh vật nhỏ bé, thân thể yếu đuối, mảnh khảnh như cây sậy. Một trận gió lớn thổi tới cũng đủ làm cho ngã sấp xuống rồi.
Mà tại sao con người lại quá kiêu căng, tự phụ, coi Trời bằng cái vung, trong khi chưa thoát ra khỏi vòng Tứ Khổ: SANH, LÃO, BỆNH, TỬ.
Đó là Thần Quyền.
Dầu ta có tự phụ không công nhận Thần Quyền đi nữa, Thần Quyền cũng vẫn hành động và thật sự chúng ta không hề tránh khỏi ảnh hưởng của Thần Quyền được đâu. Nhưng đừng tin dị đoan.
THIẾT TƯỞNG ĐIỀU HAY HƠN HẾT LÀ: LẤY GƯƠNG NGƯỜI MÀ SỬA MÌNH. NẾU XE TRƯỚC GÃY, XE SAU PHẢI TRÁNH, CHỚ NÊN ĐI THEO CHUNG MỘT CON ĐƯỜNG MÀ PHẢI SA HẦM SỤP HỐ. PHẢI SÁNG SUỐT. ĐỪNG ĐỢI NHỮNG BÀI HỌC ĐAU KHỔ ĐẾN DẠY KHÔN CHO MÌNH CẢ TRĂM CẢ NGÀN LẦN, TỪ KIẾP NẦY QUA KIẾP KIA, MỚI CHỊU THỨC TỈNH, E CHO ĐÃ MUỘN LẮM.
Trái lại phải cố gắng học cho rành Cơ Tiến Hóa rồi nương theo đó mà Hành Đông.
Trước nhứt là lo diệt trừ Tam Độc: THAM – SÂN – SI mà làm người ai ai cũng mắc phải, không phải cái nầy thì cũng cái nọ, chẳng nhiều thì ít. Nguồn cội của Tam Độc vốn ở ngay trong mình con người. Chúng là tánh nết của ba Thể: THÂN – VÍA (Ý) – TRÍ, của ta thường dùng mỗi ngày khi chúng chưa được thanh khiết chớ không phải cái chi xa lạ ở ngoài.
Muốn thành công mau lẹ, phải trì chí, mỗi ngày phải mỗi luyện tập cho đúng phương pháp, in như những lời dạy bảo của các vị Thánh Hiền và các vị Cao đồ của Chơn sư, từ năm này qua năm nọ. Dầu chưa thấy kết quả tốt đẹp thì cũng chớ nên ngã lòng và hãy nhớ một giọt nước cứ nhễu xuống mãi thì sẽ xoi lủng đá. Chí công mài sắt chầy ngày nên kim.
Phải trì giới, phải giữ sao cho:
- TƯ TƯỞNG
- LỜI NÓI và
- VIỆC LÀM
thường ngày vẫn trong sạch, mặc dầu là một cách tương đối, lúc ban đầu. Như thế ta sẽ lần lần Tinh Thần Hóa được ba Thể.
MỘT KHI ĐÃ LÀM CHỦ CHÚNG VÀ ĐIỀU KHIỂN CHÚNG MỘT CÁCH DỄ DÀNG THÌ CHÚNG SẼ TRỞ THÀNH NHỮNG NGƯỜI TÔI RẤT TRUNG TÍN, CHÚNG SẼ LÀ NHỮNG THIẾT GIÁP XA ĐƯA TA MAU TỚI CỬA ĐẠO. BỞI VÌ MUÔN VÀN TỘI LỖI DO CHÚNG GÂY RA, MÀ MUÔN VÀN PHƯỚC ĐỨC CŨNG DO CHÚNG TẠO NÊN. TÙY THEO CÁCH TA XỬ DỤNG CHÚNG.
Ngày nào được vào trong Thánh Điện thì ngày đó ta sẽ thấy những sự chiến đấu tiếp tục thập phần cam go, phải nhẫn nại, phải cương quyết và vận dụng tất cả những khả năng đặng san bằng những chướng ngại nổi lên ở mỗi chặng đường. Trong một thời gian sau, không lâu đâu, như trước đây đã nói, nội trong hai ba chục kiếp chúng ta có thể trở nên trọn sáng trọn lành và đạt được mục đích đã định sẵn cho nhơn loại trong Tiểu Vũ Trụ nầy là thành một vị Siêu phàm được hoàn toàn giải thoát.
Lành thay! Lành thay!
Trong truyện PHONG THẦN, có một bài thi nói về TÁNH MẠNG SONG TU rất hay, tôi xin chép ra đây cho quí Huynh xem:
Cớ nào nên đặng bậc Thần Tiên,
Kiếp trước tu hành rất cử kiêng.
Tính khí giữ gìn đầy chẳng thiếu, [[2]]
Tánh tình rèn tập vững không nghiêng [[3]]
Thinh thinh bể khổ nương bè báu,
Vọi vọi non nhơn mở cửa Thiền.
Luyện đặng trường sanh quên GIÁP – TÝ,
Chơn Trời mặt nước thú vui riêng.
(Không biết tên tác giả)
H Ế T
[[1]] Trong đoạn nói về Giống dân thứ Sáu, tôi có nói tới lực Vrill nầy, nó thật là phi thường. Nó có thể phát ra một nhiệt lực mấy ngàn độ trên một diện tích nhỏ bằng mũi kim. Hiện giờ thì ít ai tin được điều nầy, nhưng nó quả đúng với sự tin tưởng của nhà Bác học – Charles Richet trong bài đăng vào Niên giám Tâm Linh Học tháng Giêng năm 1905 mà tôi có nhắc lại trong bài tựa.
[[2]] Tuyệt dục – Tu mạng
[[3]] Tu Tánh – Tức là Tánh Mạng Song Tu
Share this article :
 
Support : Creating Website | phuctriethoc | NGUYỄN VĂN PHÚC
Copyright © 2013. NGUYỄN VĂN PHÚC - All Rights Reserved
By Creating Website Published by KINH TẾ HỌC
Proudly powered by NGUYỄN VĂN PHÚC
NGUYỄN VĂN PHÚC : Website | Liên hệ | phuctriethoc@gmail.com
Proudly powered by Triết học kinh tế
Copyright © 2013. NGUYỄN VĂN PHÚC - All Rights Reserved