Chương mười hai
VÀI MẪU CHUYỆN BÊN LỀ
I
Sau khi rời thị trấn Simla, bận về chúng tôi dừng chân tại Amritsar, thành phố nổi tiếng về Ngôi Đền Vàng, một kỳ công kiến trúc mỹ lệ của người dân Sikh, một chủng tộc thiện chiến và có tinh thần thượng võ ở miền Punjab (Bắc Ấn). Vì lúc đó chúng tôi còn đang được sự bảo trợ tinh thần hoàn toàn của Đạo Sư Dyanand Saraswati, nên sự giao tế của chúng tôi với những tín hữu môn đệ của ông rất thân thiện tốt đẹp, và những Chi Bộ địa phương của môn phái Arya Samaj đã dành cho chúng tôi những cuộc tiếp đón thân mật đầy hảo ý ở khắp mọi nơi.
Có ba mươi tín hữu Arya Samaj đến đón chúng tôi tại nhà ga xe lửa Amritsar và đưa chúng tôi về quán trọ an nghỉ. Ngày hôm sau, một phái đoàn Arya Samaj đến từ Lahore, do các bạn Rattan Chand và Siris Chandra cầm đầu. Đó là hai bạn Đạo lịch thiệp và khả kính, mà tôi có hân hạnh coi như những người bạn tốt và vẫn giữ mối tình thân hữu cho đến ngày nay.
Một cuộc đàm thoại và thảo luận về Đạo Lý rất thú vị đã diễn ra với độ ba mươi hay bốn mươi tín hữu Ấn Giáo Arya Samaj, và đến chiều tối, khi mọi người đã ra về và chỉ còn có hai người bạn trẻ nói trên ở lại với chúng tôi, bà HPB làm reo vang những tiếng "Chuông thần" một cách rõ ràng và du dương hơn tất cả những lần mà tôi đã từng được nghe bà làm ở Ấn Độ trước đây.
Kế đó, bà đề nghị với hai người bạn trẻ một việc nó đã đưa đến một sự hiểu lầm, mà tôi thấy cần phải thuật lại một cách chính xác để tránh sự đáng tiếc có thể xảy ra nếu có một kẻ thù nghịch nêu việc ấy ra để chống lại bà trong tương lai.
Từ trước đến nay, ông Sinnett chưa bao giờ có dịp thảo luận về Đạo Lý với một người Ấn Độ trí thức nào, đó là điều mà ông và chúng tôi đều lấy làm tiếc. Sự trao đổi thư từ giữa ông với Chân Sư K.H. vẫn đang tiếp tục, nhưng ông muốn được có dịp gặp gỡ tận mặt với Ngài hay với một vị đệ tử của Ngài.
Nhận thấy bạn Rattan Chand là người có đủ tính chất cần thiết để lãnh nhiệm vụ giao liên, bà HPB, bà HPB với sự chấp thuận của Chân Sư (như bà nói cho y và tôi biết điều ấy), đã cố gắng thuyết phục y đến gặp ông Sinnett với tư cách là một sứ giả đem thư của Chân Sư K.H. Y sẽ không được tiết lộ cho ông Sinnett biết gì về cá nhân của y, như tên họ, thân thế, chỗ ở của y ra sao, mà chỉ trả lời đầy đủ tất cả những câu hỏi của ông Sinnett về những vấn đề triết học và tôn giáo.
Bà HPB còn cho y biết rằng mọi tư tưởng và luận điệu cần thiết sẽ được truyền đạt cho y vào lúc cần dùng bằng phương pháp thần giao cách cảm. Hai người bạn trẻ, vốn chưa biết gì về hiệu lực của phương pháp chuyển di tư tưởng, và không thấy tung tích Chân Sư cũng như bức thư của Ngài ở đâu, nên đã tỏ ra e ngại và không có hứng thú để làm việc này. Nhưng sau cùng, họ bằng lòng và trở về Lahore để xin phép nghỉ việc ngắn hạn rồi sẽ trở lại ngày hôm sau.
Khi họ đã ra đi, bà HPB tỏ vẻ hài lòng và nói với tôi rằng vai trò của họ sẽ đem lại kết quả rất thuận lợi cho ông Sinnett, và gây một Nghiệp Quả rất tốt lành cho hai người bạn trẻ. Ngày hôm sau, không thấy họ trở lại mà chỉ có một bức điện tín nói rằng họ cực lực từ chối không chịu thực hiện vai trò nói trên; và trong một bức thư sau đó, họ cho biết rằng họ không muốn tham dự vào một hành động giả trá phỉnh lừa như thế.
Việc ấy làm cho bà HPB rất bực mình và bày tỏ sự bất mãn bằng những lời lẽ nặng nề. Bà không do dự mà gọi họ là hai thằng điên vì đã gạt bỏ một cơ hội hiếm có, là làm việc với các Chân Sư để thực hiện những kết quả lớn lao. Bà cho tôi biết rằng nếu họ chịu hợp tác, thì bức thư của Chân Sư sẽ rơi xuống ngay trước mắt họ từ trên không gian, và họ sẽ có dịp thi hành sứ mạng,
Đây là một trong những trường hợp mà một việc hoàn toàn có thể thực hiện được đối với nhà Huyền Học, vốn đã khai mở những giác quan nội tàng và những quyền năng tâm linh, lại có vẻ như một việc không tưởng, viễn vông đối với người thường, họ không thể quan niệm rằng việc ấy có thể làm được, trừ phi bằng những mưu mẹo dối trá, phỉnh lừa.
Thế là những người bạn trẻ chưa tiến hóa kia đành phải tự tạo lấy nghiệp quả của họ, họ đã chọn lấy con đường thích hợp với mình, và đã bỏ mất đi một cơ hội tốt. Đã có hằng bao nhiêu trường hợp tương tự mà bà HPB bị hiểu lầm và chuốc lấy sự hình phạt đắng cay chỉ vì sự dột nát tâm linh của kẻ khác, mà ý muốn thành thật của bà chỉ là để giúp đỡ họ.
II
Ngày 27 tháng 10, tôi thuyết trình đề tài "Môn phái Arya Samaj và Hội Thông Thiên Học) trước một cử tọa đông đảo, và ngày 29, tôi nói tiếp theo về đề tài "Quá Trình Lịch Sử và Tương Lai của Ấn Độ".
Những ai nghĩ rằng người Ấn không có tinh thần yêu nước, ước gì họ có dịp nhìn thấy tác dụng của buổi diễn thuyết này đối với toàn thể hội trường đông đảo như hôm ấy. Khi tôi diễn tả tính cách vĩ đại huy hoàng của nền văn minh cổ Ấn Độ, và tình trạng suy đồi của Ấn Độ ngày nay, toàn thể cử tọa phát ra những tiếng thì thầm vui sướng hoặc những tiếng thở dài đau đớn não nuột. Có lúc họ hoan hô và vỗ tay nhiệt liệt, một lúc sau đó họ ngồi im lặng, và rơi nước mắt.
Tôi lấy làm ngạc nhiên và sung sướng, nhưng cảnh tượng bi ai đau đớn của họ làm tôi xúc động đến mức tôi gần như muốn xỉu. Đó là một trong những dịp vẫn thường xảy ra trong những cuộc tiếp xúc giữa chúng tôi với người Ấn Độ, trong khi đó những sợi dây liên lạc của tình tương thân tương ái kết hợp cõi lòng chúng tôi làm một, và chúng tôi cảm thấy thật là một ân sủng quý báu mà có cơ hội đến đây để sống chung và phụng sự sát cánh với những bạn Đạo cùng đồng chung lý tưởng với mình.
Tôi còn nhớ một kinh nghiệm tương tự đã trải qua khi tôi cùng đi với bà Annie Besant trong chuyến đi thuyết pháp đầu tiên của bà. Trong dịp đó, bà thuyết pháp về đề tài "Vị Trí của Ấn Độ trên Thế Giới", tại một tỉnh nhỏ ở miền Nam Ấn. Nói theo nguồn cảm hứng thiêng liêng, và sử dụng những ý nghĩ gần giống như của tôi, bà lôi cuốn toàn thể cử tọa theo với bà, và làm cho họ đáp ứng như những sợi dây đàn mà những ngón tay điêu luyện của bà có thể tác động khéo léo để tạo ra bất cứ âm điệu nào bà muốn.
Bận về ngồi trên xe, tôi với bà không ai có thể thốt ra một lời nào, mà chỉ ngồi đê mê trong im lặng, cơ hồ như vừa bước ra từ một nhạc viện trong đó vị Nhạc Trưởng vừa mới trình bày những âm điệu nhạc khúc của Cõi Trời. Ai chưa từng cảm xúc được nguồn cảm hứng thiêng liêng thoi thóp rung động trong người của mình, không bao giờ biết rõ ý nghĩa của danh từ "hùng biện".
Ngày hôm sau, chúng tôi đáp xe lửa đi Lahore, tại đây một cuộc tiếp đón nồng nhiệt đã chờ đợi chúng tôi. Một phái đoàn Ấn Giáo hùng hậu của chi phái Arya Samaj đến đón chúng tôi tại nhà ga và đưa chúng tôi về nơi quán trọ. Kế đó họ trở về nhà dùng bữa và tối hôm đó họ trở lại để thảo luận về Đạo Lý với chúng tôi cho đến khuya. Những đề tài thảo luận là vấn đề tính chất của Thượng Đế, Thượng Đế Hữu Ngã và Vô Ngã. Những quan điểm của tôi và bà HPB đưa ra đều trái ngược hẳn với những sự tin tưởng của họ.
Hôm sau, bảy tín hữu Arya Samaj, gồm cả hai người bạn trẻ mà chúng tôi đã gặp tại Amritsar trước đây, gia nhập Hội Thông Thiên Học và đứng ra thành lập một Chi Bộ tại địa phương.
III
Trong thời gian ở tại Lahore, chúng tôi luôn luôn bận rộn tiếp khách và thảo luận về những vấn đề Đạo Lý, nhưng không phải là không có những cơ hội tiêu khiển. Chẳng hạn như chuyến đi tham quan kinh lý của vị Phó Vương Anh, Lord Ripon, vào ngày mồng mười, và chúng tôi có dịp trông thấy cuộc tiếp rước linh đình trọng thể diễn ra trong thành phố.
Phó Vương cưỡi một con voi lớn, lưng voi bao phủ vải vàng óng ánh, đầu con voi cũng có đội một thứ mào hay đồ trang sức bằng vàng. Bành voi mạ vàng sáng chói, đứng một bên là một người hầu Ấn Độ mặc sắc phục sặc sỡ cầm một cây lọng vàng che trên đầu ngài.
Những vị Quốc Vương và Đại Vương (Maharajah) Ấn Độ mặc triều phục lộng lẫy, cưỡi voi đi theo sau tùy theo cấp bậc chức vị lớn nhỏ, và tất cả đều được những quan viên dân sự người Anh cũng cưỡi voi đi theo hộ tống ( bà HPB cho là dường như bị canh chừng).
Nối tiếp theo sau là những toán kỵ binh Anh và kỵ binh xứ Bengale, quân bổn xứ mặc sắc phục đỏ, những đội quân Ấn Độ cầm kích và cầm giáo dài, những toán quân nhạc thổi kèn, đánh trống, và đánh chụp chõa. Thật là một cuộc diễn hành long trọng huy hoàng, tiền hô hậu ủng, rực rỡ tưng bừng.
Tôi quả quyết chắc chắn rằng mỗi người Anh trong cuộc diễn hành hẳn là cảm thấy lố bịch, và mỗi vị Quốc Vương bổn xứ chắc cũng cảm thấy bị hạ thấp trong cái màn trình diễn công khai phô trương thanh thế và uy lực này, nó làm nổi bật trước mắt công chúng cái vị thế của kẻ chinh phục và kẻ bị trị, mà cái ý nghĩa thật sự của nó, trong thâm tâm mỗi người đều biết rằng tất cả mọi người khác cũng biết rõ như mình.
Bà HPB và tôi đứng xem cuộc diễn hành từ trên lầu một nhà ga xe lửa được xây cất như một pháo đài, để có thể xử dụng như một công sự phòng thủ khi có biến. Những lời bình phẩm của bà về cuộc diễn hành và về những nhân vật ăn mặc trang sức lố lăng thái quá, làm cho tôi luôn luôn phát cười nôn ruột, và về sau, trong một bài phóng sự du ký của bà đăng trên tạp chí Russky Vyestnick, bà làm cho cả nước Nga đều cười vỡ bụng về chuyện vắng mặt của vị Đại Vương xứ Kashmir trong cuộc diễn hành, mà thoạt tiên người ta nghi ngờ là có che dấu một vụ âm mưu chính trị, nhưng sau đó mới vỡ lẽ ra rằng đó chỉ là vì bịnh kiết lỵ và đi tiêu chảy!
Ngày 15 tháng 11, vị Phó Vương Anh, Lord Ripon, chủ tọa một cuộc lễ tiếp kiến các vị Đại Vương, Quốc Vương và các ông Hoàng bổn xứ. Một sảnh đường rộng lớn được dựng lên bằng vật liệu nhẹ, gồm những tấm vải cứng lớn có sọc xanh được căng ra làm nóc trên những cột đứng bằng sắt, và những tấm vách ngăn cũng bằng một loại vải cứng tương tự, dưới đất trải những tấm thảm gấm đỏ, bên trong thắp sáng bằng những ngọn đèn lớn.
Phó Vương ngự trên một chiếc ngai bằng bạc, mặc triều phục chỉnh tề có thêu chỉ vàng và gắn đầy phù hiệu, huy chương, với một tấm băng lụa xanh vắt ngang trên ngực. Đứng phía sau ngài là những người hầu bổn xứ mặc đồng phục trắng tay cầm những cây quạt lớn màu đỏ thêu phù hiệu của Hoàng Gia Anh; hai người hầu khác cầm những cây phất thủ trắng làm bằng đuôi con Yak của xứ Tây Tạng, và hai người hầu nữa cầm những cây vương trượng, biểu hiệu quyền uy của vị Phó Vương.
Giữa sảnh đường là hai hàng ghế đối diện nhau, các quan viên Anh ngồi ở hàng ghế bên tay mặt Phó Vương, các vị vương hầu bổn xứ ngồi bên tay trái; ở dưới hai hàng ghế là lối đi rộng rãi từ chỗ cửa vào đưa đến ngai chủ tọa. Các vị Quốc Vương, Đại Vương và những ông Hoàng khác của xứ Ấn Độ được chỉ định chỗ ngồi theo thứ tự cấp bậc, vị cao nhất ngồi gần vị Phó Vương.
Khi mỗi ông Hoàng vừa đến ngoài cửa, có tiếng súng đại bác chào mừng, quân dàn hầu hai bên bồng súng chào, và đoàn nhạc thổi kèn. Ông Alfred Lyall, trưởng ban Nghi Lễ, mặc quốc phục ngoại giao, tiếp đón và đưa mỗi ông Hoàng đến trước ngai vị Phó Vương. Ông Hoàng Ấn Độ dâng lên một mâm lễ vật gồm có một số đồng tiền vàng đựng trên một cái mâm bạc, mà vị Phó Vương đưa tay sờ với một cử chỉ tượng trưng, rồi trả lại (nghĩa là không nhận). Cả hai, chủ và khách, đều cúi đầu chào nhau, kế đó ông Hoàng được đưa đến chỗ ngồi an tọa, rồi đến lượt một ông Hoàng khác.
Sau khi tất cả các ông Hoàng đã được tiếp đón xong, vị Phó Vương mới đứng dậy làm lễ ban phát quà tặng quý giá gồm có những đồ trang sứcbằng vàng ngọc châu bảo, những đồ khí giới nạm bạc, yên ngựa thêu vàng,v.v... mà những ông Hoàng chỉ đưa tay sờ một cái rồi để cho những quân hầu mang đi.
Những bộ triều phục lộng lẫy và khăn vấn đầu giát ngọc chớp sáng lập lòe của những ông Hoàng Ấn Độ trình bày một cảnh tưởng huy hoàng đặc biệt của Phương Đông, và làm cho buổi lễ càng thêm phần long trọng.
IV
Sau khi đã viếng thăm vài trạm dọc đường, chúng tôi tiếp tục đi Bénarès và được tiếp đón như những tân khách của vị Quốc Vương tại địa phận này.
Trong thời gian tám ngày ở Bénarès, chúng tôi thường hội kiến với vị Quốc Vương và các triều thần cùng với những nhân sĩ của thành phố Ba Nại La. Có lần, Quốc Vương đi với hai người thông ngôn viên đến nơi quán trọ và thảo luận suốt nhiều giờ với chúng tôi về những vấn đề Đạo Lý, Triết Học và Tôn Giáo. Một lần khác, Quốc Vương đi với viên quan Thủ Kho và đề nghị cho viên quan này đếm ngay tại chỗ vài ngàn đồng Ru-bi (một số tiền rất lớn) để cung hiến cho Hội Thông Thiên Học nếu bà HPB chịu biểu diễn cho ông ta xem vài phép lạ.
Lẽ tự nhiên, bà từ chối cũng như bà đã từ chối làm như vậy đối với nhiều nhà tỷ phú Ấn Độ khác, mà một là ông Mungaldas ở Bombay, nhưng khi ông này vừa đi khỏi, thì bà liền biểu diễn một số phép thuật thần thông cho những vị khách nghèo không có tiền.
Tuy nhiên, bà đã tiết lộ cho vị Quốc Vương biết một điều bí ẩn về nơi chôn dấu những văn kiện giấy tờ quan trọng của Hoàng Gia nay đã mất, mà nếu tôi không lầm, thì những giấy tờ đó đã được đem chôn dấu một cách vội vã trong cuộc Nổi Loạn năm 1857.
Tuy bị thất vọng, nhưng tôi có lý do để tin rằng vị Quốc Vương kính trọng bà bội phần hơn là nếu bà đã chấp nhận lấy món quà tặng của ông ta. Thái độ thản nhiên đối với tiền bạc luôn luôn được người Ấn Độ coi như một bằng chứng chắc chắn về đức xả thân vô kỷ của một vị đạo sư.
Người đạo sĩ ở Lahore từng biểu diễn cơn xuất thần nhập định trước Quốc Vương Runjit Singh, đã vĩnh viễn tự hạ thấp nhân cách mình khi ông ta nhận lãnh những món quà đắt tiền của nhà vua. Một người cận thần cũ đã già của nhà vua có lần nói với tôi ở tại Lahore rằng:
-Nếu người đạo sĩ ấy không nhận quà biếu, mà tỏ thái độ dửng dưng đối với của cải tiền bạc, thì có lẽ vị Quốc Vương đã giữ ông ta lại suốt đời bên cạnh mình và tôn sùng ông ta như một vị Thánh.
V
Ngày đầu năm (Tết Tây) 1881, tôi ngồi vào bàn làm việc đến hai giờ khuya, để viết bài cho tạp chí Theosophist. Nói chung, thì những tuần lễ đầu năm, mọi sự vẫn bình thường, không có gì đáng kể, trừ ra những dịp chúng tôi đã tiếp xúc và có những mối quan hệ thân thiện hay bất thân thiện với một vài nhân vật.
Tác giả quyển sách nổi tiếng " Nhựa Sống", với cái biệt danh Mirza Murad Ali Beg, đến với chúng tôi lần đầu tiên vào ngày 20 tháng giêng. Y là một người thanh niên Anh, thuộc giòng dõi của gia đình Mitford, đã từng đào tạo ra nhiều nhà văn nổi tiếng của Anh Quốc.
Y sinh trưởng tại Madras, có một nếp sống dị thường, và theo đạo Hồi Giáo. Khi chúng tôi gặp y, thì y đang phục vụ trong quân đội của vị Đại Vương xứ Bhavnagar, với cấp bậc "sĩ quan kỵ binh", nhưng trên thực tế thì đó chỉ là một chức vụ ngồi không, ăn lương.
Y sống một cuộc đời phiêu lưu, phóng dật, dẫy đầy những nỗi trắc trở gian lao. Y đã từng thực hành khoa Bàn Môn Tả Đạo, và cho tôi biết rằng tất cả những nỗi khổ đau mà y đã trải qua trong vòng vài năm trước đây đều có thể trực tiếp truy nguyên từ những tác động hiểm ác của vài loại âm binh bất hảo mà y đã kêu gọi để trợ giúp y chinh phục một người nữ nết hạnh mà y thèm muốn.
Tuân theo sự chỉ dẫn của một nhà Phù Thủy Hắc Phái Hồi Giáo, y đã ngồi suốt bốn mươi ngày trong một gian phòng kín, mắt nhìn chăm chú vào một cái chấm đen trên vách tường, trong khi đó y dùng trí tưởng tượng hình dung gương mặt của người nữ ấy và niệm một câu thường trú nửa Ả Rập và nửa tiếng Phạn, lặp đi lặp lại đến cả trăm ngàn lần.
Y phải tiếp tục làm như vậy cho đến khi y nhìn thấy gương mặt của người phụ nữ ấy linh động như người thật ở trước mặt y, và khi y thấy đôi môi nàng mấp máy như sắp sửa nói chuyện, thì khi đó nàng đã hoàn toàn bị quyến rũ bởi ma lực của y và sẽ tự động tìm đến với y.
Tất cả những sự việc đã xảy ra y như đã dự liệu trước, cái ý đồ hiểm ác xấu xa của y được thực hiện, người đàn bà kia bị tàn hại cuộc đời, và chính y bị lệ thuộc quyền của những âm binh bất hảo mà y không có đủ sức mạnh tinh thần để chế ngự khi đã nhân lãnh sự phục dịch cưỡng ép của chúng.
Thật sự y đang ở vào một tình trạng bi đát, khốn cùng. Thần kinh căng thẳng, dễ bị kích động, không nhất quyết về một điều gì, nô lệ cho những cảm xúc cho chính mình, nhìn thấy những khả năng cao quý của bản chất con người, nhưng lại bất lực không thể đạt tới, y đến với chúng tôi để tìm nơi ẩn trú, và đã ở lại trong nhà chúng tôi trong vài tuần.
Tuy là người Anh, nhưng y lại có một hình thù dị dạng.
Y mặc y phục của người Hồi Giáo, gồm có một cái áo vải trắng rộng và dài phủ đến chân. Y để tóc dài màu nâu lợt, bới phía sau ót như kiểu bới đầu của đàn bà, nước da trắng và mắt xanh. Từ ngày y đến với chúng tôi, y dường như trải qua một cơn xung dột mãnh liệt trong nội tâm. Y than phiền rằng y bị lôi cuốn dằng co từ mọi phía, trước hết bởi những ảnh hưởng tốt lành, và kế đó bởi những lực lượng bất hảo.
Y có một trí óc thông minh, và đã đọc qua nhiều sách vở; y muốn gia nhập Hôi Thông Thiên Học, nhưng vì tôi không tin tưởng nơi căn bản đạo đức của y nên tôi từ chối. Tuy nhiên, vì bà HPB đề nghị chịu trách nhiệm về phần y, nên tôi không phản đối và để cho bà bảo trợ sự gia nhập của y. Vài tháng sau đó, y trả ơn cho bà một cách đích đáng, bằng cách giật lấy một cây gươm của một lính canh ở ga Wadhwan và toan đâm chết bà, rồi la lớn lên rằng bà và các Chân Sư đều là ma quỷ! Nói tóm lại, y đã nổi điên.
Đây nhắc lại khi y còn trí óc lành mạnh và đang ở chung với chúng tôi, y có viết vài bài đăng trong tạp chí "Theosophist" và một đêm nọ, sau một cuộc nói chuyện với chúng tôi, y ngồi viết một bài tham luận về quyền năng của ý chí và tác dụng của nó đối với sự sống lâu. Bà HPB và tôi còn ngồi lại trong phòng, và khi y bắt đầu viết, bà bước đến gần và đứng sau lưng y, cũng như hồi ờ New York, bà đã đứng phía sau lưng họa sĩ Harisse khi người này đang vẽ bức chân dung của một vị Chân Sư theo sự hướng dẫn vô vi bằng phương pháp chuyển di tư tưởng của bà.
Bài tham luận của Mirza Sahib được sự chú ý của mọi người khi nó xuất hiện trên tạp chí, và được coi như một trong những bài vở có giá trị nhất trong văn chương đạo lý của Hội Thông Thiên Học. Y tỏ ra có trình độ trí thức, và có nhiều triển vọng cứu vãn một phần lớn những khả năng tâm linh đã bị mất của y nếu y chịu ở lại với chúng tôi. Nhưng sau khi đã hứa làm như vậy, y lại tuân theo một động lực vô hình không thể cưỡng, và bỏ nhà ra đi theo tiếng gọi của sự diệt vong.
Y không thể nào phục hồi lại được sự thăng bằng của trí não; kế đó y theo đạo Gia Tô, rồi quay trở lại Hồi Giáo, và sau cùng y đã chết và được chôn tại Junagadh, tại đây tôi có nhìn thấy nấm mồ sơ sài của y. Trường hợp của y là một trường hợp đáng sợ về cái hiểm họa nó chờ đợi những người nào thực hành Bàn Môn Tả Đạo trong khi còn những đam mê thú dục tiềm ẩn trong lòng.
Chương mười ba
ADYAR
I
Trong chuyến đi Ba Nại La, một buổi sáng chúng tôi ngồi thuyền lướt trên mặt nước sông Hằng, và bận về chúng tôi cho thuyền thả trôi dọc theo bờ sông để ngắm nhìn cảnh tượng độc đáo của hàng muôn nghìn tín đồ Ấn Giáo sùng tín xuống tắm dưới sông vào buổi sáng sớm.
Hằng nghìn tín đồ lũ lượt đi xuống những bậc tam cấp của những thang xây bằng đá ven bớ sông. Họ ngồi kiết dà nhập định trên những bục gỗ có mái che bằng lá dừa, hoặc đứng dưới sông, mực nước vừa chí đầu gối, chắp tay lẩm nhẩm đọc kinh cầu nguyện.
Vài người giặt giũ y phục trên những bậc thang bằng đá. Những nhà tu khổ hạnh mình trần bôi tro thánh biểu hiệu dòng tu hay môn phái của họ. Những phụ nữ lấy bùn lau chùi và đánh bóng những bình đựng nước bằng đồng cho đến khi sáng chói như vàng mới, múc đầy nước sông Hằng vào bình rồi cắp vào bên hông, thong thả đi lên bờ.
Những nhóm người khác tiến đến khu vực hỏa táng, tại đây xác người chết được thiêu trên đống lửa hồng, trong khi những tử thi khác chờ đến lượt mình.
Ánh nắng mặt trời ban mai chiếu sáng rực trên những bình đựng nước bằng đồng của các cô gái Ấn, làm nổi bật màu sắc lòe loẹt trên y phục đỏ thắm của họ, cùng những khăn vấn đầu màu mè sặc sỡ của bọn đàn ông.
Những đám quần chúng đông đảo lũ lượt nối tiếp nhau lên xuống không ngớt trên những nấc thang tam cấp rộng rãi từ mặt nước sông đưa lên đến mặt đường lộ của thành phố tấp nập ồn ào.
Trong khi đó, những chiếc thuyền hình dáng lạ mắt với lái thuyền chạm hình cn công từ từ lướt trên giòng sông. Cảnh tượng ấy thật không đâu có, ngoài ra ở thánh địa Ba Nại La vào những buổi sáng sớm.
Điều làm cho nó gây một ấn tượng sâu xa hơn nữa, là cũng một cảnh tượng ấy vẫn tái diễn hằng ngày kể từ những thế hệ xa xưa nhất. Những gì người ta nhìn thấy ngày hôm nay, vẫn đã từng diễn ra kể từ khi đấng Hóa Thân Krishna xuất hiện giữa loài người.
Nhưng nó sẽ còn tồn tại bao lâu nữa, thì không ai có thể nói trước. Bàn tay tàn phá của Thời Gian đã tác động trên những dinh thự lâu đài trên bờ sông. Vài ngôi dinh cơ đồ sộ nguy nga nhất và vài khu vực trên những bậc thang tam cấp bằng đá đã loang lở, sụp đổ.
Những ngôi kiến trúc to lớn, nền tảng bị lung lay vì những cơn ngập lụt của nước sông Hằng lên cao, đã ngả nghiêng siêu vẹo, hoặc sụp xuống dưới mặt nước. Những tảng vôi, hồ, đã rơi xuống từ những vách tường loang lở của các ngôi dinh thự, để lộ ra ngoài những viên gạch đỏ.
Một ngôi đền Hồi Giáo vĩ đại, mà những bầu tròn và tháp nhọn nhô lên cao như có vẻ ngự trị khắp vùng, được xây bằng những tảng đá của những ngôi đền Ấn Giáo cổ mà quân xâm lược Hồi đã phá hủy.
Khu hỏa táng là một nơi xác xơ tiêu điều, tại đó những đống củi lửa thiêu xác được chất lên trên những đống gạch ngói hoang tàn.
Tôi có cảm tưởng rằng những tín đồ Ấn Giáo xuống sông tắm gội mỗi buổi sáng, dường như làm những nghi thức tôn giáo này một cách hời hợt cẩu thả cho có hình thức thế thôi, chứ không phải do động lực thúc đẩy sâu xa của lòng sùng tín trung thành.
II
Trong suốt cả thời gian liên hệ giữa chúng tôi, bà HPB và tôi chưa bao giờ sống gần bên nhau một cách thân mật như trong chuyến du hành trên một chiếc thuyền trên con kinh đào Buckingham. Kinh đào này là một công trình thủy lợi để cứu trợ cho hằng nghìn nông dân bị mất mùa, đói kém trong vụ thiên tai kinh khủng hồi thời kỳ quận công Buckingham đảm nhiệm chức vụ Giám Đốc tỉnh Madras.
Từ trước đến giờ, chúng tôi vẫn sinh hoạt và làm việc chung với sự có mặt của các bạn bè thân hữu, hay nói chung là các "đệ tam nhân", nhưng trong dịp này chúng tôi sống riêng biệt trong một chiếc du thuyền, chỉ có đứa hầu Babula và vài người chèo thuyền theo phục dịch chúng tôi.
Khoang thuyền được trang bị như một phòng ca-bin nhỏ, hai bên là hai cái tủ nhỏ để đựng đồ hành trang, trên mặt có trải nệm để làm giường nằm. Ở giữa có một cái bàn xếp, khi nào không cần dùng đến, thì có thể xếp lại và treo lên nóc khoang. Phía ngoài là chỗ nấu bếp, có lu đựng nước uống, có mọi thứ tiện nghi tối thiểu và mọi thứ phẩm vật cần dùng trong khi đi đường. Khi có gió thổi, thì giương buồm lên cho thuyền lướt nhẹ trên mặt nước. Khi bị gió ngược, thì những phu chèo thuyền nhảy lên bờ, dùng dây cói buộc lên vai họ và kéo thuyền đi với một tốc lực độ năm cây số một giờ.
Theo sau chúng tôi, còn một chiếc thuyền khác chở vài bạn đạo thân tín nhất thuộc tỉnh Madras, trong số đó có bạn Ivalu Naidu, công chức Sở Thuế Vụ hồi hưu, một người có tấm lòng vàng mà chúng tôi rất quý mến và hãnh diện mà được kết tình thân hữu với ông. Mục tiêu cuộc hành trình bằng thủy đạo này là thị trấn Nellore, phải mất hai ngày đi thuyền mới tới nơi.
Chúng tôi khởi hành lúc bảy giờ tối của một đêm trăng sáng, nhằm ngày 3 tháng 5 năm 1882, trăng đã gần tròn, thuyền lướt nhẹ trên mặt nước lặng yên và trong như bạc, làm cho chúng tôi có cảm giác như đi vào cảnh mộng. Sau khi ra khỏi thành phố, không một tiếng động làm gián đoạn cái im lặng thâm trầm của miền đồng quê, trừ ra những tiếng kêu lẻ loi của những con chó rừng, những giọng nói thì thầm của bọn phu chèo thuyền nói chuyện với nhau, và tiếng nước vỗ nhẹ vào hai be thuyền. Xuyên qua các cửa sổ, một ngọn gió đêm thổi vào mát rợi, đượm mùi ruộng lúa trổ hoa với hương vị đồng quê thật nhẹ nhàng bát ngát. Bà bạn tôi cùng ngồi thưởng thức cảnh vật êm đềm, tinh thần sảng khoái trong giờ phút nghỉ ngơi rất hiếm có này, ngoài cuộc sống nhập thế vô cùng kích động, ồn ào và nhộn nhịp của chúng tôi. Chúng tôi chỉ nói rất ít, dưới ảnh hưởng mê ly đầy thi vị thần tiên của một đêm trăng Ấn Độ, và khi giờ đã khuya, sau cùng cũng đã phải chia tay để nghỉ ngơi dưỡng sức.
Nhờ có ngọn gió nồm từ hướng tây nam thổi mạnh, chiếc thuyền thẳng tiến suốt đêm, và lộ trình của chúng tôi được nhẹ nhàng êm ái, không chướng ngại. Trời vứa hừng sáng, thuyền tấp vào bờ để cho phu chèo thuyền nhúm lửa nấu cơm; các bạn hữu trong chiếc thuyền kia cũng cho thuyền đậu và qua với chúng tôi. Khi mọi người đã dùng bữa xong, chúng tôi lại tiếp tục lên đường, hai chiếc thuyền lướt nhẹ êm ru như những bóng ma.
Bà HPB và tôi bận rộn suốt ngày hôm đó với công việc trả lời thư từ còn ứ đọng và soạn bài vở cho tạp chí Theosophist, thỉnh thoảng cũng tạm ngưng để cùng nhau mạn đàm trong giây lát. Lẽ tất nhiên, đầu đề duy nhất của chúng tôi là tình hình và triển vọng của Hội Thông Thiên Học, và tác dụng rốt ráo khả hữu của những tư tưởng Đông Phương mà chúng tôi đang truyền bá đối với dư luận quần chúng đương thời.
Trên vấn đề này, chúng tôi cùng lạc quan đồng như nhau, và không một điểm nghi ngờ hay bất đồng quan niệm nào thoáng qua trong trí óc. Chính cái đức tin mãnh liệt đó làm cho chúng tôi thản nhiên, bình tĩnh trước mọi biến cố tai ương và nghịch cảnh, nó có thể ngăn chận bước tiến hằng bao nhiêu lần trong cuộc đời hành đạo của chúng tôi. Vài bạn đồng hành hiện hữu có lẽ không thỏa mãn, nhưng quả thật là những sự tiên liệu của chúng tôi nhắm vào ảnh hưởng của giáo lý Thông Thiên Học đối với trào lưu tư tưởng cận đại nhiều hơn là bàn về sự bành trướng khả hữu của Hội khắp nơi trên thế giới: thật sự chúng tôi không hề trông đợi việc ấy có thể xảy ra.
Cũng như khi rời khỏi New York đi Bombay, chúng tôi không hề mơ tưởng rằng Hội có thể mở Chi Bộ cùng khắp Ấn Độ và Tích Lan, thì bây giờ cũng y như thế, trên chiếc du thuyền lướt đi trong im lặng này, chúng tôi không hề nghĩ rằng Hội có thể tạo nên một cơn sôi động quần chúng để tổ chức các Chi Bộ và thành lập những trung tâm truyền bá giáo lý Thông Thiên Học khắp nơi ở Châu Mỹ, Châu Âu; đừng nói chi đến Châu Úc, Châu Phi, và Viễn Đông.
Làm sao chúng tôi có thể nghĩ đến điều đó? Chúng tôi có thể trông cậy ở nơi ai? Ai là người dũng lực phi thường để có thể gánh lấy trên vai của mình cái trách nhiệm nặng nề như thế? Bạn đọc hãy nhớ rằng hối đó chỉ mới là năm 1882, và ngoài Á Châu ra, chỉ có ba Chi Bộ Thông Thiên Học trên thế giới (không kể trung tâm New York vẫn còn chưa được tổ chức lại). Chi Bộ Luân Đôn và Chi Bộ Corfu (Hy Lạp) chỉ là những cơ quan bất động.
Ông Judge đã đi sang Nam Mỹ để làm việc cho một công ty khai thác mỏ bạc, và Trụ Sở Thông Thiên Học ở New York vẫn im lìm không hoạt động. Chỉ còn có hai bạn già chúng tôi trên chiếc du thuyền này là nắm giữ giềng mối điều khiển mọi sự, và khoảnh đất dụng võ của chúng tôi là phương Đông; cũng không hơn gì tôi, lúc ấy bà HPB không hề biểu lộ khả năng tiên tri nào, nên chúng tôi vẫn làm việc và xây dựng nền tảng cho cái tương lai vĩ đại mà không người nào trong hai chúng tôi có thể nhìn thấy trước.
Trong số hằng nghìn hội viên Hội Thông Thiên Học hiện tại, chắc hẳn có bao nhiêu người sẵn lòng đổi lấy với hầu như bất cứ giá nào, tình tương thân đầm ấm, mà bà HPB dành cho tôi trong chuyến du hành bằng thuyền này! Điều làm cho chuyến đi này càng thú vị và lợi lạc hơn nữa, là bà có sức khỏe tốt, tinh thần lên cao, và không có gì làm che ám bầu không khí vui tươi giữa tình bạn của chúng tôi. Chứ nếu không; thì có lẽ tôi đã hầu như trở thành một kẻ bị nhốt trong chuồng cọp, làm bạn với một con sư tử trong Sở Thú! Và như vậy, chắc hẳn là tôi đã phải nhảy lên bờ để đi bách bộ, hoặc chuyển sanh thuyền kia để làm bạn với Iyalu Naidu!
Ôi! HPB, người bạn đáng thương, bạn đồng môn, người cộng tác, người hướng dẫn của tôi: không ai có thể làm khổ tôi hơn bà trong những cơn giông tố ồ ạt, và cũng không ai dễ mến và đáng yêu hơn trong những khi tinh thần lên cao, bà có một tác phong đằm thắm dịu dàng! Tôi tin rằng chúng tôi đã từng làm việc chung với nhau trong những kiếp trước, tôi cũng tin rằng chúng tôi sẽ còn hớp tác với nhau trong những kiếp tương lai vì mục đích phụng sự nhân loại.
Chúng tôi đến Nellore lúc mười một giờ khuya và được tiếp đón trọng hậu. Một ngôi biệt thự to lớn đã được trang hoàng lịch sự để cho phái đoàn chúng tôi tạm trú, và tuy giờ đã khuya, tôi lại còn phải đáp từ hai bài diễn văn, một bằng tiếng Phạn và một bằng tiếng Anh, sau đó chúng tôi mới lui về phòng ngơi nghỉ, ai nấy đều thấm mệt.
Từ ngày hôm sau trở đi, chúng tôi lại bắt đầu chương trình hoạt động thông thường như mọi cuộc viếng thăm ở những nơi khác: một buổi thuyết pháp trước một cử tạo đông đảo; ngày kế đó dành cho công việc soạn bài vở tạp chí và thu nhận hội viên mới; chiều đến, một phái đoàn học giả ưu tú về môn Phạn ngữ đến viếng và chất vấn chúng tôi về Đạo Lý; và đến mười một giờ khuya, chúng tôi chánh thức thành lập Chi Bộ Thông Thiên Học tại Nellore.
Kế đó chúng tôi tiếp tục chuyến đi đến Mypaud, rồi đi Guntur, và cứ như thế, chương trình hành sự của chúng tôi lại tái diễn như trên.
III
Trong những chuyến đi công tác đạo sự khắp nơi ở Ấn Độ và Tích Lan, tôi đã tham quan nhiều địa điểm, khảo sát nhân vật và khí hậu của từng miền, để chọn lựa một nơi thích hợp nhất hầu có thể thiết lập một Tổng Bản Dinh trường cửu cho Hội Thông Thiên Học thế giới.
Nhiều dinh cơ tốt đẹp đã được cung hiến cho chúng tôi ở Tích Lan mà khỏi phải trả tiền thuê mướn; đảo Tích Lan lại có nhiều phong cảnh đẹp rất hấp dẫn đối với những ai muốn tìm một chỗ định cư trên đất Á Châu. Nhưng nó cũng có những khía cạnh bất lợi, như vị trí cô lập đối với Ấn Độ, những tổn phí về bưu điện, và trình độ trí thức lạc hậu của dân chúng nói chung, những điều bất lợi đó đã làm nghiêng lệch đòn cân và làm cho chúng tôi chọn xứ Ấn Độ. Tuy nhiên, cho đến nay chúng tôi vẫn chưa tìm được một nơi nào vừa ý và chưa có một kế hoạch nào nhất định.
Trong một dịp đến Madras, vài bạn đạo đề nghị với chúng tôi hãy đi xem một khu bất động sản có thể mua được với giá rẻ. Chúng tôi được đưa đến khu ngoại ô Adyar, và vừa xem qua, chúng tôi biết ngay đó là nơi cư trú thích hợp mà mình muốn tìm.
Ngôi dinh cơ đồ sộ, những ngôi biệt thự lớn nhỏ dựa bờ sông, cùng những dãy nhà phụ thuộc, vườn cây to bóng mát, những cây đa cổ thụ, và rừng thông trên bờ biển, làm cho khu này càng vắng vẻ u tịch, có thể dùng làm một nơi ẩn cư lý tưởng với một phong vị thần tiên.
Giá tiền phải trả là chín ngàn Ru-pi, tức là độ sáu trăm Anh kim, quả thật rẻ, hầu như là một giá tượng trưng, và chúng tôi quyết định mua. Một bạn đạo ứng trước một phần tiền, số còn lại do một bạn đạo khác đứng ra vay mượn với những điều kiện thật dễ dàng. Một thông tri được lập tức công bố để kêu gọi sự đóng góp của hội viên, và trong vòng một năm sau, tôi được hài lòng mà có thể thanh toán sòng phẳng khoản tiền vay mượn trên và nhận tờ bằng khoán bất động sản. Lý do khu đất này bán giá rẻ là bởi vì chính phủ vừa phóng một đường xe lửa từ Madras đến Uty, một thị trấn cao nguyên, khí hậu mát mẻ dưới chân dãy núi Nilgiri, làm thu ngắn lộ trình và sự giao thông từ Madras lên miền núi chỉ mất có một ngày đường. Nhờ đó, những chức viên cao cấp của chính phủ Madras có thể định cư trên vùng cao nguyên sáu tháng mỗi năm để tránh khí hậu nóng nực của mùa hè, làm cho những ding cơ đồ sộ của họ ở Madras bị xuống giá trên thị trường bất động sản.
Khi trở về Bombay, chúng tôi bắt đầu lo dọn nhà, thu xếp hòm xiểng, rương trắp, sách vở, và đồ tư trang để di chuyển đến Madras. Chi bộ Thông Thiên Học ở Bombay có tổ chức một tiệc tiễn hành trọng thể để đưa chúng tôi lên đường. Ngày 17, chúng tôi đáp xe lửa đi Madras, để định nơi cư trú tại Adyar. Khi đã yên nơi yên chỗ, Chân Sư M. đều hằng ngày đều đích thân đến viếng bà HPB tại nơi trụ sở mới của chúng tôi.
Năm 1883 là một trong những năm bận rộn nhất, lý thú nhất và thành công nhất trong lịch sử Hội Thông Thiên Học. Có bốn mươi ba Chi Bộ mới đã được thành lập, phần nhiều ớ Ấn Độ và do tôi tổ chức. Những chuyến đi công tác của tôi đã trải qua trên bảy ngàn dặm đường (độ mười hai ngàn cây số), có khi đi xe lửa, hoặc ngồi trên lưng voi, hoặc đi bằng xe bò. Bà HPB và tôi thường cách biệt nhau, bà thì ở nhà để coi sóc bài vở cho tạp chí Theosophist, còn tôi đi ta bà khắp nơi trên xứ Ấn Độ để thuyết pháp, chữa bịnh và thành lập những Chi Bộ mới.
Trong những tháng đầu năm, hàng đống thư từ được gửi đến Trụ Sở Hội tại Adyar từ các nước Âu Mỹ, chứng tỏ rằng thế giới càng ngày càng chú trọng đến giáo lý Thông Thiên Học.
Xét vì cuộc đời của mỗi người trong chúng ta đều được cấu tạo bằng bao nhiêu những chuyện lặt vặt không đáng kể, và vì tôi muốn cho câu chuyện tường thuật của tôi được hoàn toàn trung thực, nên tôi đã kể lại nhiều chuyện nhỏ nhặt để bổ túc vào cái bối cảnh lịch sử của Hội Thông Thiên Học nói chung.
Những chuyện tầm thường nhỏ nhặt đó cũng trình bày chúng tôi, những nhà tiền phong khai sáng nên phong trào Thông Thiên Học, như những nhân vật sống cận nhân tình, tức là cũng sống như mọi người, chứ không phải là những nhân vật phi phàm như người ta thường suy tôn một cách quá đáng và thêu dệt thêm nhiều chuyện vô lý.
Nếu bà HPB đã viết những bộ sách hi hữu độc đáo đến mức độ siêu phàm, thì hằng ngày bà cũng ăn sáng với hột gà chiên tưới rất nhiều mỡ, và tập Hồi Ký này chỉ trình bày mỗi nhân vật dưới hình thức tả chân chứ không siêu việt hóa họ như một nhân vật lý tưởng.
Bởi vậy, tôi cũng ghi lại một chi tiết nhỏ, mà tôi cảm thấy khá thích thú vào lúc nó xảy ra, để làm cho tôi muốn ghi chép lại.
Phía sau nhà của chúng tôi ở tại Adyar, có một con sông nhỏ, nó làm cho chúng tôi muốn bơi lội như chúng tôi vẫn có sở thích đó từ ngày xưa. Và thế là chúng tôi rủ nhau đi xuống sông, luôn cả bà HPB.
Những người Âu ở láng giềng chắc hẳn là rất ngạc nhiên mà thấy những người da trắng như chúng tôi, lại tắm chung với độ nửa chục người bổn xứ màu da sậm, cùng nhào xuống nước vẫy vùng và đùa giỡn với nhau một cách thân tình cơ hồ như chúng tôi không tin rằng mình thuộc về một chủng tộc cao quý hơn!
Tôi chỉ dẫn cho bà bạn tôi tập bơi lội, hay nói đúng hơn, là tập làm động tác sao cho khỏi chìm, và cũng chỉ dẫn luôn cho bạn Damodar thân mến, anh bạn trẻ này lại là một người rất hèn nhát trong số những người sợ nước nhất mà tôi đã từng thấy. Y bắt đầu run rẩy lập cập khi mực nước mới ngập tới đầu gối, làm cho bà HPB và tôi đều phóng tới y những lời mỉa mai, châm biếm.
Tôi còn nhớ rõ sự việc ấy đã thay đổi ra sao. Tôi nói:
-A ha! Anh muốn trở thành một Siêu Nhân như thế nào, khi mà anh không dám làm cho ướt chí đến cái đầu gối của anh.
Lúc đó, y không nói gì, nhưng ngày hôm sau, khi chúng tôi lại cùng nhau đi tắm, y phóng mình xuống nước và lội ngang qua sông.
Lời nói châm biếm của tôi không ngờ lại có tác dụng đặc biệt đối với y, và y quyết định rằng hôm ấy y phải lội hay là chết. Đó chính là cái bí quyết để trở thành một Siêu Nhân.
Hãy DẤN THÂN, đó là cái định luật để tiến hóa. Anh có thể thất bại năm chục lần, hay năm trăm lần, nếu cần; nhưng hãy cứ dấn thân tiến bước, và tiến lên mãi, nhất định không chịu lùi, rồi sau cùng anh sẽ thành công. Thái độ "Bất Khả" không bao giờ xây dựng nên một người, hay một bầu thế giới.
Chương Mười Bốn
CÁI GIẾNG THẦN
I
Tôi đã trở lại Tích Lan sau nửa năm vắng mặt, để tiếp tục công việc Hội và cũng để trợ giúp vào công trình chấn hưng Phật Giáo tại xứ này. Ngày 29 tháng 8, có xảy ra một việc tại khu Hoa Viên của thành phố Galle, nay đã trở thành một diễn biến lịch sử.
Sau buổi thuyết pháp của tôi hôm ấy, có một cuộc lạc quyên để thành lập ngân quỹ cho công trình hoằng khai Phật Giáo tại xứ này. Một người tên Cornelis Appu được giới thiệu cho tôi do ông Jayasekera, Chi Trưởng Chi Bộ Thông Thiên Học tại Galle. Người ấy quyên góp một nửa Ru-pi, và xin lỗi về số tiền quá nhỏ vì y bị bịnh liệt bại hết một cánh tay và một chân từ tám năm nay, và bởi đó không thể kiếm ăn được bằng nghề nghiệp của mình.
Khi tôi từ Bombay đến Colombo, vị Sư Trưởng Phật Giáo có cho tôi biết rằng Giáo Hội Gia Tô đã chuẩn bị mọi việc để sử dụng cái giếng trong nhà một giáo dân, gần thị trấn Kelanie, như một cái "giếng phép" hay "giếng thần" để chữa bịnh cho dân chúng, theo kiểu giếng Đức Mẹ tại Lộ Đức (Lourdes). Có tin cho biết một người đã được chữa khỏi bịnh một cách mầu nhiệm, nhưng khi hỏi ra mới biết đó là một chuyện bịa đặt.
Tôi mới nói với vị Sư Trưởng rằng đây là một vấn đề nghiêm trọng, mà Đại Đức nên lưu ý. Một khi sự gợi ý đó đã bắt đầu thấm nhuần vào tư tưởng người dân, thì nó sẽ trở thành một sự thôi miên tập thể; không bao lâu sẽ có những vụ khỏi bịnh thật sự, và chừng đó những Phật Tử dốt nát vì tin tưởng mù quáng, sẽ bỏ đạo mình để hùa nhau theo đạo khác. Sư Trưởng nói:
-Tôi biết làm sao bây giờ?
Tôi nói:
-Đại Đức phải ra tay hành động, hoặc một vị sư danh tiếng nào khác hãy nhân danh Đức Phật để chữa bịnh cho thiên hạ.
Sư Trưởng đáp:
-Nhưng chúng tôi không thể làm được; chúng tôi không biết gì cả về những việc đó.
Tôi nói:
-Dầu sao, việc ấy phải được thực hiện.
Khi người bịnh nói trên diễn tả căn bịnh liệt bại của y, tôi cảm thấy trong thâm tâm có một cái gì hình như muốn nói với tôi:
-Đây là cơ hội cho anh sử dụng cái Giếng Thần!
Tôi đã có khảo cứu về khoa Nhân Điện và Chữa Bịnh Bằng Nhân Điện (Mes mérisme) trong ba mươi năm, nhưng chưa bao giờ thực tập, mà chỉ có làm vài cuộc thí nghiệm cần thiết lúc ban đầu. Nhưng bây giờ, do sự thúc đẩy của tình thương (vốn là cái động cơ căn bản cho việc chữa bịnh có kết quả), tôi đưa hai bàn tay truyền điện lên cánh tay bại xuội của y một vài lần, và nói tôi hy vọng rằng y sẽ cảm thấy khá hơn đôi chút. Kế đó, y trở về nhà.
Chiều hôm đó, tôi đang ngồi nói chuyện với các bạn đạo tại nhà, thì thấy người bịnh liệt bại ngày hôm qua, tay chống nạng chân đi cà nhắc bước vào; y xin lỗi đến làm rộn, nói rằng y cảm thấy khá hơn nhiều và y đến để cám ơn tôi. Tin lành bất ngờ này khích lệ tôi tiếp tục chữa cho y, và sau độ một khắc đồng hồ truyền điện cho cánh tay bại xuội của y, tôi dặn y hãy trở lại sáng hôm sau.
Tôi phải nói thêm rằng không một ai ở Tích Lan biết tôi có quyền năng chữa bịnh, và có lẽ họ cũng không hề biết gì về quyền năng này; như vậy không thể có giả thuyết được nêu ra vì sự ám thị hay ảo giác tập thể trong trường hợp này.
Sáng hôm sau người kia lại đến và tỏ vẻ tôn sùng tôi như một siêu nhân vì y cảm thấy bớt hẳn. Tôi lại tiếp tục chữa cho y luôn ba ngày liên tiếp, và qua ngày thứ tư y đã có thể vung cánh tay bại xuội của y lên vòng quanh đầu, mở và khép bàn tay, và sử dụng bàn tay để làm các động tác thông thường một cách dễ dàng.
Trong vòng bốn ngày kế đó, y đã có thể ký tên bằng bàn tay đã được chữa khỏi, vào một chứng thư kể rõ trường hợp của y để được đem công bố. Đó là lần đầu tiên từ chín năm nay mà y có thể cầm đến một cây viết.
Tôi cũng đã chữa luôn cái chân bại liệt của y, và độ một hai ngày sau, y đã có thể nhảy với tất cả hai bàn chân, nhảy cò cò bằng cái chân bại liệt, đá lên vách với một chiều cao đồng đều nhau bằng cả hai chân, và chạy một cách tự do theo ý muốn.
Giống như rơm khô bắt lửa, tin ấy loan truyền rất mau khắp cả mọi nơi trong tỉnh. Cornelis đưa đến một người bạn liệt bại như y, cũng được tôi chữa khỏi. Kế đó những người khác đến, lúc đầu còn đến từng nhóm nhỏ đôi ba người, kế đến hằng chục người, và trong vòng độ một tuần lễ sau, nhà tôi bị bịnh nhân vây phủ suốt ngày từ sáng sớm cho đến khuya, để nhờ tôi truyền điện chữa bịnh cho họ. Sau cùng họ trở nên quấy rầy, phiền nhiễu đến nỗi tôi cũng không còn biết phải làm sao để thoát khỏi vòng vây.
Lẽ tất nhiên, với sự tăng gia đức tin nơi khả năng của mình, sức mạnh từ điển của tôi tăng vọt lên gấp bội, và những chứng bịnh mà lúc đầu tôi phải mất đến nhiều ngày mới chữa khỏi, nay tôi có thể chữa trong vòng nửa tiếng đồng hồ.
Một khía cạnh bực bội, khó chịu nhất trong việc này, là cái thái độ ích kỷ, thấp hèn của quần chúng. Họ bao vây tôi trong buồng ngủ khi tôi chưa mặc quần áo, theo sát tôi từng bước một, không cho tôi có thời giờ ăn cơm, và làm áp lực ráo riết đối với tôi, bất luận rằng tôi bị mệt mỏi và kiệt sức đến độ nào!
Tôi chữa bịnh cho họ suốt bốn, năm giờ liên tiếp, cho đến khi tôi cảm thấy kiệt quệ, không còn chút sinh lực nào. Khi đó tôi mới nghỉ độ nửa giờ đi xuống biển để tắm nước mặn, và khi trở lên nhà, tôi lại cảm thấy tràn đầy sinh lực, thể xác được tăng cường. Tôi bèn tiếp tục công việc chữa bịnh cho đến khi hoàn toàn xế trưa, tôi đã mệt lả và phải yêu cầu bịnh nhân hãy trở về nhà.
Lúc ấy tôi ở trên tầng lầu thứ nhất của ngôi nhà trọ, nên phần nhiều những người bịnh nặng phải được thân nhân bạn bè khiêng lên lầu và đặt họ nằm dưới chân tôi. Có những người hoàn toàn liệt bại với những tay chân co quắp làm cho họ có một hình thù dị dạng giống như những rễ cây có bướu coi rất dễ sợ.
Sau một hay hai lần truyền điện, mỗi lần độ nửa giờ, tôi đã làm cho họ duỗi thẳng tay chân và đi đứng được như thường. Tôi dùng cái hàng ba rộng lớn của ngôi nhà làm một cái sân vận động, chọn lấy hai ba người trong số những người bịnh nặng nhất vừa được chữa khỏi, và bắt họ chạy đua theo chiều dài hàng ba.
Họ và những người đứng xem đều cười lớn về sự đùa như một siêu nhân vì y cảm thấy bớt hẳn. Tôi lại tiếp tục chữa cho y luôn ba ngày liên tiếp, và qua ngày thứ tư y đã có thể vươn cánh tay bại xuội của y lên vòng quanh đầu, mở và khép bàn tay và sử dụng bàn tay để làm các động tác thông thường một cách dễ dàng.
Trong vòng bốn ngày kế đó, y đã có thể ký tên bằng bàn tay đã được chữa khỏi, vào một chứng thư kể rõ trường hợp của y để được đem công bố. Đó là lần đầu tiên từ chín năm nay mà y có thể cầm đến một cây viết.
Tôi cũng đã chữa luôn cái chân bại liệt của y, và độ một hai ngày sau, y đã có thể nhảy với tất cả hai bàn chân, nhảy cò cò bằng cái chân bại liệt, đá lên vách với một chiều cao đồng đều nhau bằng cả hai chân, và chạy một cách tự do theo ý muốn.
Giống như rơm khô bắt lửa, tin ấy loan truyền rất mau khắp cả mọi nơi trong tỉnh. Cornelis đưa đến một người bạn liệt bại như y, cũng được tôi chữa khỏi. Kế đó những người khác đến, lúc đầu còn đến từng nhóm nhỏ đôi ba người, kế đến hằng chục người, và trong vòng độ một tuần lễ sau, nhà tôi bị bịnh nhân vây phủ suốt ngày từ sáng sớm cho đến khuya, để nhờ tôi truyền điện chữa bịnh cho họ. Sau cùng họ trở nên quấy rầy, phiền nhiễu đến nỗi tôi cũng không còn biết phải làm sao để thoát khỏi vòng vây.
Lẽ tất nhiên, với sự tăng gia đức tin nới khả năng của mình, sức mạnh từ điển của tôi tăng vọt lên gấp bội, và những chứng bịnh mà lúc đầu tôi phải mất đến nhiều ngày mới chữa khỏi, nay tôi có thể chữa trong vòng nửa tiếng đồng hồ.
Một khía cạnh bực bội, khó chịu nhất trong việc này, là cái thái độ ích kỷ thấp hèn của quần chúng. Họ bao vây tôi trong buồng ngủ khi tôi chưa mặc quần áo, theo sát tôi từng bước một, không cho tôi có thời giờ ăn cơm, và làm áp lực ráo riết đối với tôi, bất luận rằng tôi bị mệt mỏi và kiệt sức đến độ nào!
Tôi chữa bịnh cho họ suốt bốn, năm giờ liên tiếp, cho đến khi tôi cảm thấy kiệt quệ, không còn chút sinh lực nào. Khi đó tôi mới nghỉ độ nửa giờ đi xuống biển để tắm nước mặn, và khi trở lên nhà, tôi lại cảm thấy tràn đầy sinh lực, thể xác được tăng cường. Tôi bèn tiếp tục công việc chữa bịnh cho đến khi hoàn toàn xế trưa, tôi đã mệt lả và phải yêu cầu bịnh nhân hãy trở về nhà.
Lúc ấy tôi ở trên tầng lầu thứ nhất của ngôi nhà trọ, nên phần nhiều những người bịnh nặng phải được thân nhân bạn bè khiêng lên lầu và đặt họ nằm dưới chân tôi. Có những người hoàn toàn liệt bại, với những tay chân co quắp làm cho họ có một hình thù dị dạng giống như những rễ cây có bướu coi rất dễ sợ.
Sau một hay hai lần truyền điện, mỗi lần độ nửa giờ, tôi đã làm cho họ duỗi thẳng tay chân và đi đứng được như thường. Tôi dùng cái hàng ba rộng lớn của ngôi nhà làm một cái sân vận động, chọn lấy hai ba người trong số những người bịnh nặng nhất vừa được chữa khỏi, và bắt họ chạy đua theo chiều dài hàng ba.
Họ và những người đứng xem đều cười lớn về sự đùa giỡn khôi hài đó, và ngạc nhiên tự hỏi sao lạ vậy, nhưng tôi làm vậy là có mục đích truyền cho họ một đức tin nơi hiệu lực của phép chữa bịnh, giống như đức tin của tôi, để cho sự bình phục của họ được hoàn toàn chắc chắn.
Tôi cũng cảm thấy rất sung sướng mà có thể làm dịu bớt bao nhiêu nỗi khổ đau của nhân loại và trong nhiều trường hợp, đã làm cho những phế nhân phục hồi lại được tất cả những niềm vui của một sức khỏe lành mạnh và tất cả những khả năng hoạt động của một đời người.
Sự việc trên vẫn tiếp tục dầu cho ở những vùng làng mạc xa xôi hẻo lánh trên lộ trình đi hoằng khai đạo pháp của tôi ở miền Nam đảo Tích lan. Tôi thường đến mỗi thị trấn hay xã ấp bằng xe ngựa hay xe bò, và thấy bịnh nhân rải rác nằm ngồi đợi tôi trên các hàng ba,bãi cỏ, và trong đủ mọi loại xe cộ, hoặc kiệu khiêng bằng tay, đến từ các vùng lân cận.
Baddegama là một trung tâm nổi tiếng về những hoạt động Truyền Giáo, và cũng về sự thù nghịch đối với Phật Giáo nói chung. Có những tin tức hăm dọa rằng các nhà Truyền Giáo sẽ tấn công tôi trong buổi thuyết pháp tại đây, và lẽ tự nhiên các Phật Tử sẽ tề tựu đông đảo để nghe tôi giảng Đạo.
Nhiều hội viên Hội Thông Thiên Học cũng tứ Galle đến dự thính, và trong đám đông, tôi nhìn thấy Cornelis Appu, y đã đi bộ suốt hai mươi cây số đường trường đến đây. Thế là không còn nghi ngờ gì về việc y đã được hoàn toàn chữa khọi bịnh liệt bại!
Một trường hợp lý thú đã đến với tôi ở một tiểu ấp tên Agalya. Một bà lão già bảy mươi hai tuổi bị một con trâu cái đá vào khi bà đang vắt sữa độ vài năm trước đây; bà bị vẹo xương sống, không thể đứng thẳng người và đi phải chống gậy. Bà bất giác cười lớn một cách dòn dã khi tôi nói rằng không bao lâu tôi sẽ làm cho bà nhảy múa được. Nhưng chỉ sau có mười phút truyền điện dọc theo xương sống và tay chân, bà đã cảm thấy bình phục sức khỏe. Tôi bèn nắm tay bà, quăng bỏ cây gậy chống và bảo bà cùng chạy với tôi trên sân cỏ. Bà đã chạy được như thường.
II
Xong việc, tôi trở về Trụ Sở Thông Thiên Học tại Galle, và một cuộc vây khổn thứ nhì của bịnh nhân đang chờ đón tôi tại đây. Tôi có ghi nhận một việc nó cho thấy cái ting thần ích kỷ, hẹp hòi, vô nhân của vài người trong giới y sĩ đối với vấn đề chữa bịnh miễn phí của những thầy "tay ngang", chỉ làm việc vì tình thương nhân loại.
Một số bịnh nhân cũ của bịnh viện Galle, bị cho xuất viện vì bịnh nan y không thể chữa khỏi, đã đến với tôi và được bình phục sức khỏe. Lẽ tự nhiên họ phổ biến tin lành đó một cách hào hứng sôi nổi.
Giới y sĩ chuyên nghiệp không thể làm ngơ hay dửng dung trước sự việc ấy, và ngày nọ một vị bác sĩ trẻ trong tỉnh đã chứng kiến việc làm của tôi. Ngày đó, có một trăm bịnh nhân đến nhờ tôi chữa, và tôi đã truyền điện cho hai mươi ba người, trong số đó có những trường hợp chữa khỏi bịnh một cách rất nhiệm mầu.
Khi đã chứng kiến tận mắt, Bác Sĩ K. thành thật nhìn nhận hiệu lực của khoa chữa bịnh bằng nhân điện và đã ở lại với tôi suốt ngày, trợ giúp tôi trong việc chẩn bịnh, và đã làm những công việc của một người trợ tá bịnh viện.
Chúng tôi đều ưa thích nhau, và khi chia tay, y hẹn sẽ đến sáng ngày hôm sau để trợ giúp tôi tùy theo khả năng của y. Chính y cũng đang bị đau chân vì một chứng bịnh cứng xương mắt cá, và tôi đã chữa khỏi cho y.
Ngày hôm sau, y không đến,cũng không cho biết lý do tại sao. Sự bí mật ấy được giải thích trong một bức thư y viết cho một người bạn quen giữa đôi bên, người này đã giới thiệu y đến với tôi trước đây.
Dường như khi chia tay từ giã tôi hôm trước, đầy lòng hứng khởi với những gì y đã nhìn thấy tận mắt, y bèn đến gặp vị Y Sĩ Trưởng của bệnh viện và báo cáo mọi việc.
Vị thượng cấp của y nghe một cách lạnh lùng, và khi y đã nói xong, bèn nói lên cảm nghĩ của ông ta về tôi. Tôi là một lang băm, việc chữa bịnh ấy chỉ là một trò dối gạt phỉnh lừa, những bịnh nhân đã được trả tiền để nói dối, và vị bác sĩ trẻ bị ngăn cấm không được có sự liên hệ gì với tôi hay những trò khỉ của tôi nữa.
Ông ta còn cảnh cáo vị bác sĩ rằng nếu y không tuân lệnh, y hãy coi chừng có thể bị mất việc. và nếu y thấy rằng tôi có nhận tiền thù lao, y phải tố giác tôi trước pháp luật vì hành nghề lương y không có giấy phép!
Thế là người trợ tá và hâm mộ tọi, quên cả bổn phận học hỏi cầu tiến của y trong nghệ thuật chữa bịnh, quên cả sự trung thành đối với Chân Lý, quên cả lương tâm chức nghiệp đối với Khoa Học, quên tất cả những gì y đã nhìn thấy tôi làm, cả sự hứa hẹn những gì mà với thời gian, y cũng sẽ có thể làm, thậm chí cũng không nhớ cái bàn chân y được tôi chữa khỏi, quên cả phép lịch sự tối thiểu của người thất hẹn không đến được như đã có lời hẹn trước, người bác sĩ ấy không đến luôn ngày hôm sau, thậm chí cũng không có một lời xin lỗi.
Tôi cảm thấy thương hại y bởi vì tất cả những triển vọng tương lai của y trong chánh phủ bị lâm nguy; đồng thời tôi cũng cảm thấy rằng y đã mất sự quý trọng của tôi, mà đáng lẽ ra tôi vẫn dành cho y nếu y đã mạnh dạn đứng ra chống lại óc nô lệ nghề nghiệp xấu xa bỉ ổi này.
Đó là một sự thiên lệch, hủ bại về tinh thần, nó muốn rằng toàn thể nhân loại đều phải chịu đau ốm chứ không được chữa trị bịnh tật, trừ phi bởi những lương y chính thống, trong một bầu không khí thiêng liêng và không hề lầm lỗi của khoa Y Học chánh thức!
Chương Mười Lăm
BÍ QUYẾT CỦA SỰ CHỮA BỆNH
I
Bí quyết chữa bệnh hữu hiệu bằng khoa Nhân Điện đã được tiết lộ cho tôi do một kinh nghiệm mà tôi đã trải qua tại một làng nhỏ ở miền Nam Tích Lan.
Một người bịnh bán thân bất toại, hay tê liệt hết nửa thân mình, được đưa đến cho tôi chữa. Tôi bắt đầu truyền điện trên cánh tay y dọc theo các đường gân và bắp thịt, và thỉnh thoảng thổi vài cái lên trên. Trong không đầy nửa tiếng đồng hồ, tôi đã làm cho cánh tay y co giãn được như thường đến mức y có thể vung tay vòng quanh đầu, mở và xếp các ngón tay tự nhiên, cầm bút, chí đến lượm kim gút, và làm mọi động tác tùy ý muốn.
Kế đó, vì tôi đã chữa liên tiếp nhiều trường hợp tương tự suốt nhiều giờ và đã cảm thấy mệt mỏi, tôi mới yêu cầu Ủy Ban Tổ Chức hãy bảo y ngồi đợi, để cho tôi nghỉ ngơi giây lát.
Trong khi tôi ngồi nghỉ và ngậm ống điếu hút thuốc, nhân viên Ủy Ban nói cho tôi biết rằng bịnh nhân ấy rất khá giả, Y đã tốn tiền bác sĩ, thuốc men hết một ngàn năm trăm Ru-pi mà bịnh vẫn không thuyên giảm. Y lại là một người rất hà tiện và ai cũng biết rõ tính keo kiệt, bủn xỉn của y.
Ái chà! Trong tất cả những thói hư tật xấu ghê tởm nhất đối với nhà Huyền Học, thì tánh tham tiền là một: đó là một sự đam mê ti tiện và bỉ ổi nhất. Trong lòng tôi tự nhiên mất hết thiện cảm đối với người ấy. Theo lời đề nghị của tôi, Ủy Ban mới hỏi y định quyên góp bao nhiêu tiền vào quỹ phước thiện Phật Giáo. Y nói rằng y rất nghèo và đã tốn nhiều tiền cho các bác sĩ, nhưng y cũng đóng góp một Ru-pi! Thế là hết chỗ nói!
Sau một lúc nghỉ ngơi, tôi lại tiếp tục chữa cái chân bại xuội của y và chỉ độ nửa giờ sau, cái chân y đã cử động và đi đứng được như thường. Y bước chân ra về một cách tỉnh táo lành mạnh như mọi người. Người thư ký của tôi cũng đã bảo y viết một chứng thư về sự chữa khỏi bịnh cho y và tôi còn giữ bức văn kiện ấy như một kỷ niệm trong chuyến đi hành đạo ở Tích Lan.
Ủy Ban Tổ Chức công việc hoằng hóa Phật Pháp của tôi đã sắp đặt một loạt những chuyến đi thuyết pháp ở các vùng, mỗi lần kéo dài độ hai tuần lễ, rồi trở về Galle là địa điểm trung ương.
Khi chuyến đi này kết thúc, một hôm tôi hỏi thăm về tình trạng sức khỏe của vài bịnh nhân mà tôi chú trọng nhất vì tính cách đặc biệt của chứng bịnh họ, trong số đó có trường hợp của bịnh nhân hà tiện bủn xỉn kể trên. Tôi rất ngạc nhiên mà nghe họ trả lời rằng cánh tay y đã hoàn toàn lành mạnh, nhưng còn cái chân thì không khỏi hẳn, mà đã trở lại tình trạng liệt bại như cũ.
Tuy tôi không thấy có trường hợp nào tương tự trong các sách vở dạy về khoa Nhân Điện, nhưng cái lý do đã nổi bật ngay tức khắc: đó là bởi vì tôi đã mất thiện cảm đối với người kia sau khi nghe nói về thói bủn xỉn, hà tiện của y. Bởi vậy, nguồn sinh lực của tôi không rung động dọc theo Thần Kinh Hệ của y như trong trường hợp chữa cánh tay, và kết quả là chỉ có một sự kích thích lành mạnh tạm thời, rồi lại trở về tình trạng liệt bại như cũ.
Trong cả hai trường hợp, tôi đã áp dụng cùng một kỹ thuật chữa bịnh giống như nhau, và đã truyền qua cho y một số lượng sinh lực đồng đều nhau, nhưng trong trường hợp sau, tôi không cảm thấy có chút nào tình thương và lòng hảo ý để đem lại sự khỏi bịnh thật sự và vĩnh cửu như trong trường hợp của cánh tay.
vài nhà viết sách về khoa Nhân Điện, trong đó có tác giả Younger, cũng đã khẳng định rằng "tình thương là cái bí quyết căn bản để chữa hầu hết mọi bịnh tật bằng cách truyền Nhân Điện".
Trường hợp trên cũng nhắc nhở sự thật của những giáo lý cổ xưa, dạy rằng những tư tưởng lành của ta đưa đến cho ngưới khác có tác dụng rất nhiệm mầu để gây cho y niềm phúc lạc và sự lành mạnh lâu bền, còn những tư tưởng ác đem lại một hậu quả trái ngược lại.
Điều đó cảnh cáo ta hãy cẩn thận giữ gìn đừng nghĩ quấy cho kẻ khác, và bởi đó chúng ta sẽ hiểu dễ dàng lý do tại sao có sự sợ sệt những nhà phù thủy với những phép trù ếm và thốt ra những lời trù ẻo hại đời. Những việc đó đều có căn cứ chắc chắn, và người ta có thể sử dụng những sức mạnh vô hình để tác họa cũng như để đem niềm vui và hạnh phúc cho người chung quanh.
Một trường hợp bị "Ma Nữ hấp tinh" đã được vị Sư Trưởng của một ngôi chùa đưa đến cho tôi chữa tại Galle. Một nhà sư trẻ độ chừng hai mươi bảy tuổi, từ hai hay ba năm qua đã bị một con Nữ Yêu (Yakshini) tác quái chọc ghẹo.
Vị Sư Trưởng nói với tôi rằng con Nữ Yêu này đã đóng vai trò vợ ma của nhà sư trẻ, nhưng làm cho vị sư này trác táng quá độ giống như một người bị chứng "động tình"(nymphomania). Nhà sư trẻ bị "hấp tinh"như vậy nhiều lần mỗi đêm, làm cho thể chất y hao mòn đến độ chỉ còn da bọc xương.
Vị Sư Trưởng bình tĩnh yêu cầu tôi chữa bịnh cho y. Cũng may là vài năm trước đây ở Mỹ Quốc tôi cũng đã có chữa khỏi một trường hợp tương tự, nhưng bịnh nhân là một người nữ, vì vậy nên tôi biết khá rõ là phải làm thế nào.
Tôi dành cho chú sãi một khóa trị liệu bằng nước lạnh có truyền nhân điện, và bảo y hãy đến mỗi buổi sáng trong vòng một tháng, để nhận lấy phần nước đem về uống mỗi ngày. Sau một tháng, y đã được hoàn toàn khỏi bịnh. Kế đó, tôi cho mời vị Sư Trưởng đến và khuyên ông ta nên cho chú sãi hoàn tục, để cho y trở về lập gia đình và sống cuộc đời bình thường của một người gia trưởng. Thế là y cởi áo nhà sư và trở về nhà.
Trường hợp này được giải thích một cách đơn giản là ảnh hưởng tác quái của con Nữ Yêu đã bị hóa giải và tiêu diệt bởi cái quyền năng Ý Chí mạnh mẽ hơn của tôi, và tác dụng thường xuyên của nước lạnh có truyền nhân điện đã trợ giúp thêm để tăng cường hiệu lực. Tất cả các nhà chữa bịnh bằng khoa Nhân Điện đều đồng quan niệm như nhau về sự công hiệu của nước lạnh có truyền từ điển như một phương thuốc trị liệu rất thần tình.
II
Ngày 17 tháng 2, tôi xuống tàu đi Calcutta. Sau một chuyến đi thích thú, tôi cặp bến vào ngày 20 và được tiếp đón tại nhà Tân quán của Quốc Vương Jotendra Mohun Tagore. Ngôi dinh thự của ngài được biến thành một bịnh viện, vì bịnh nhân tề tựu rất đông để chờ đợi tôi cứu chữa cho họ.
Một trong những bịnh nhân đầu tiên là một thanh niên Ấn bị bịnh động kinh (epilepsy), phát chứng lên cơn từ năm mươi đến sáu mươi lần mỗi ngày. Tuy nhiên, bịnh ấy thuyên giảm rất mau dưới bàn tay truyền điện của tôi, và qua ngày thứ tư, những cơn bịnh động kinh đã hoàn toàn dứt hẳn.
Tôi không biết rằng sự khỏi bịnh này có được lâu bền hay không: chắc là không, bởi vì những nguyên nhân sâu xa đến nỗi đã gây nên một số phiền nhiễu những lần lên cơn như vậy mỗi ngày, không có lẽ lại bị tiêu trừ sau chỉ có vài ngày chữa trị.
Đáng lý ra bịnh nhân phải được chữa trị trong một thời hạn lâu dài, có thể là nhiều tuần trước khi người ta có thể nói là y đã được hoàn toàn bình phục. Dẫu sao, sự việc đã xảy ra đúng như tôi đã nhận xét. Bịnh động kinh, tuy là một trong những chứng bịnh dễ sợ nhất, đồng thời cũng là một trong những bịnh dễ trị nhất bằng phương pháp truyền nhân điện.
Ngoài ra, tôi cũng gặp những trường hợp lý thú tương tự khác nữa. Trong số đó có một thanh niên Bà La Môn, dộ chừng hai mươi tám tuổi, bị chứng tê liệt các đường gân trên mặt đã hai năm qua, làm cho y ngủ mở mắt vì không thể khép mí mắt lại, và không thể nói chuyện vì cái lưỡi không cử động được.
Khi được hỏi tin y là gì, y chỉ có thể thốt ra một âm thanh chát chúa trong cổ họng, vì lưỡi và đôi môi đều tê cứng mà y không còn sử dụng được như ý muốn. Khi y bước vào phòng, y đứng nhìn tôi trong câm lặng và làm dấu ra hiệu để chỉ căn bịnh của y.
Sáng hôm ấy, tôi cảm thấy sinh lực tràn đầy cuồn cuộn, cơ hồ như tôi có thể truyền điện cho một con voi. Tôi đưa cánh tay và bàn tay mặt thẳng lên trời, và đôi mắt nhìn thẳng vào người bịnh, tôi dõng dạc hô to bằng thổ ngữ Bengali:
-Anh hãy khỏi bịnh!
Đồng thới tôi hạ cánh tay xuống tư thế ngang bằng và chĩa bàn tay tôi vào mặt y.
Lúc ấy bịnh nhân có phản ứng cơ hồ như bị điện giật. Y run rẩy khắp cả thân mình, đôi mắt y nhắm lại và mở ra, cái lưỡi y bị tê cứng đã lâu, nay lại le ra thụt vào, y thốt lên một tiếng kêu mừng rỡ với một âm thanh vang dội và sụp xuống lạy dưới chân tôi. Y vừa ôm hôn hai đầu gối tôi, vừa tỏ lòng biết ơn bằng những lời nói nhiệt thành rối rít.
Cảnh tượng ấy thật quá đỗi thương tâm, sự khỏi bịnh của y thật quá đỗi nhanh chóng, đến nỗi mỗi người có mặt trong phòng đều chia xẻ nỗi cảm xúc lâm ly bi thiết của người thanh niên, và không có ai là người không rơi lệ. Chính tôi cũng vậy, và đó tức là đã nói rất nhiều.
III
Trường hợp sau đây là trường hợp lý thú nhất. Một người tên Badrinath Banerji, luật sư tòa án ở thị trấn Bhagalpore bị hoàn toàn mù mắt, và phải được một đứa trẻ dắt đi. Sau khi đã qua tay những y sĩ nhãn khoa giỏi nhất của thành phố Calcutta và bị cho xuất viện vì võng mạc bị teo nhỏ dần không thể chữa khỏi, y đến yêu cầu tôi chữa bịnh cho y.
Tôi nắm chặt hai bàn tay, chĩa ngón cái của bàn tay mặt trước một mắt của y, và ngón cái của bàn tay trái chĩa vào sau gáy (ót), tôi vận dụng ý chí phóng một luồng nhân điện từ đầu dương cực do ngón cái tay mặt chạy xuyên qua con mắt và bộ óc của người bịnh, cho tiếp nối với đầu âm cực ở ngón cái chĩa vào sau ót.
Thế là tôi sử dụng thân mình tôi như một cái bình phát điện, giòng điện lưu thông theo một đường vòng khép chặt (circuit fermé) với lưỡng cực âm dương là hai ngón tay cái, để "sạt" điện vào con mắt và đường dây thần kinh trong khối não của người bịnh.
Phương pháp "sạt điện "này được tiếp tục độ nửa giờ, trong khi đó người bịnh vẫn hoàn toàn tỉnh táo, thỉnh thoảng y cũng thốt lên vài lời để bày tỏ cảm giác mà y tiếp nhận được. Sau cùng, y thoáng thấy một tia sáng đỏ lờ mờ trong con mắt đó. Tôi bèn đổi qua con mắt kia, và cũng áp dụng một phương pháp tương tự, với kết quả cũng giống y như trước. Khi ấy, tôi mới cho y về và dặn y ngày hôm sau hãy trở lại.
Qua ngày hôm sau, tôi lại tiếp tục, và lần này cái ánh sáng lờ mờ màu đỏ đã biến mất và trở thành màu trắng. Tôi kiên nhẫn chữa trị cho y luôn mười ngày liên tiếp, và sau cùng tôi đã thành công: thị giác của y đã được phục hồi trở lại, và y đã có thể đọc bằng một mắt những chữ in kiểu nhỏ nhất trên một tờ báo hay một cuốn sách, y không cần có người dắt dẫn, và đi đứng như mọi người thường.
Trường hợp khỏi bịnh này đã gây dư luận sôi nổi, vì người này còn nắm giữ những chứng thư của những vị y sĩ ưu tú và nổi tiếng nhất tuyên bố rằng bịnh mù mắt của y không thể chữa khỏi. Vả lại, tật đui mù của y đã được tất cả mọi người biết và xác nhận trong tỉnh Bhagalpore.
Giai đoạn tiếp theo sau sự khỏi bịnh này thật rất lý thú và lạ lùng. Thị giác của y đã lu mờ dần và tắt hẳn hết hai lần, và cả hai lần đều được tôi phục hồi trở lại; lần đầu tiên sau khi chữa khỏi được sáu tháng, và lần thứ nhì sau đúng mười hai tháng. Trong mỗi trường hợp, tôi đều thấy y lại hoàn toàn mù tịt, và đã làm cho y sáng mắt trở lại sau mỗi lần chữa trị độ nửa giờ.
Muốn cho y được hoàn toàn khỏi hẳn, tôi cần phải có y ở bên cạnh tôi, để có thể chữa trị cho y mỗi ngày cho đến khi những triệu chứng của bịnh "thong manh" (teo con ngươi) đã bị hoàn toàn hủy diệt. Điều này về sau đã được thực hiện, và tật mù mắt của y không còn tái phát trở lại nữa.
Tôi cũng rất may mắn và "mát tay" trong việc chữa bịnh điếc. Người anh của bịnh nhân mù nói trên là một công chức cao cấp Sở Bưu Điện, bị điếc đến nỗi người đối thoại phải la lớn vào lỗ tai y để cho y có thể nghe được, Sau hai lần chữa trị bằng nhân điện trong hai ngày liên tiếp, y đã có thể nghe tôi nói chuyện bằng một giọng bình thường ở một khoảng cách độ chừng mười lăm thước tây.
IV
Trong số những người Âu đến viếng nhà Tân quán (trú quán dành cho tân khách) của Quốc Vương Mohun Tagore ở Calcutta để chứng kiến việc chữa bịnh của tôi, có Mục Sư Phillip Smith, thuộc một phái bộ Truyền Giáo người Anh. Ông ta rất nhã nhặn, lịch sự đối với tôi, và tôi đã dành cho ông ta mọi cơ hội thuận tiện để quan sát các sự việc, hầu có một nhận xét đúng đắn về khoa chữa bịnh bằng phương pháp truyền Nhân Điện.
Ông ta theo dõi mỗi trường hợp, đưa ra nhiều câu hỏi cho mỗi bịnh nhân và ở lại bên cạnh tôi cho đến chiều tối, khi tất cả mọi người đã ra về. Kế đó, chúng tôi nói chuyện với nhau về vấn đề chữa bịnh, và phân tích tỉ mỉ từng trường hợp mà ông ta đã quan sát tại chỗ. Ông ta tuyên bố hoàn toàn thỏa mãn về sự giải thích của tôi, và nói rằng nếu ông ta không nhìn thấy tận mắt mọi việc đã xảy ra, thì có lẽ ông ta đã không thể tin được khi nghe người khác thuật lại.
Kế đó, vị Mục Sư nêu ra vấn đề các phép lạ diễn tả trong Kinh Thánh, và phải thú nhận rằng ông ta đã thấy tôi chữa khỏi nhiều chứng bịnh một cách mầu nhiệm, giống như Đức Giê Su và các Thánh Tông Đồ đã làm khi xưa: làm cho người mù được sáng, người điếc được nghe, người câm được nói, người liệt bại quăng nạng gỗ, chữa khỏi các bịnh đau thần kinh, đau bụng kinh niên, phong giật, động kinh, và các chứng bịnh nan y khác.
Tôi nói:
-Thưa Mục Sư, xin ông vui lòng nói cho tôi biết: ông thấy việc chữa bịnh của tôi với những phép chữa bịnh diễn tả trong Kinh Thánh có khác nhau ở điểm nào? nếu những gì ông thấy tôi làm đều giống y như những trường hợp nói trong Kinh Thánh, thì phải chăng cả hai loại đều phải được giải thích giống như nhau? Nếu cách chữa bịnh trong Kinh Thánh được gọi là phép lạ, thì phải chăng phép chữa bịnh của tôi cũng phải được gọi như vậy? Còn nếu không phải, mà phép chữa của tôi chỉ là hoàn toàn đúng theo luật tự nhiên, thì tại sao lại muốn cho người ta tin rằng những phép chữa bịnh của Đức Giê Su và các Thánh Tông Đồ là do quyền năng thiêng liêng hay phép lạ nhiệm mầu. Phải chăng như vậy là không hợp lý?
Vị Mục Sư ngồi suy nghĩ một hồi lâu, có vẻ đắm chìm trong cơn suy tư thâm trầm, và kế đó ông ta đưa ra một câu trả lời rất độc đáo mà tôi không bao giờ quên. Ông nói:
-Tôi nhìn nhận rằng phép chữa bịnh trong cả hai trường hợp đều hoàn toàn giống y như nhau: tôi không còn nghi ngờ gì về việc đó. Tôi chỉ có thể giải thích bằng cách suy luận rằng những phép chữa bịnh của Đức Giê Su đã được thực hiện bằng sức người, tức là qua cái khía cạnh thể chất hồng trần của Ngài!
V
Trước đây, những vụ chữa khỏi bịnh của tôi ở Tích Lan được phản ảnh rầm rộ trên báo chí, đã tạo nên một sự sôi động trong quần chúng Ấn Độ, và họ đã khẩn thiết yêu cầu tôi đi chữa bịnh cho họ trong tỉnh Bengale.
Sự việc ấy nay lại tái diễn một lần nữa, vì những bài tường thuật hấp dẫn trên báo chí miền Bắc Ấn về việc làm của tôi, đã làm cho tôi bị mời mọc khẩn cấp, ráo riết để đi cứu chữa bịnh nhân ở miền Nam Ấn.
Dân chúng vây phủ lấy tôi ở Tinnevelly, cũng như ở tất cả các ga xe lửa khác trong vùng, và tôi đã thực hiện vài vụ chữa khỏi bịnh nan y một cách rất thần diệu. Một thanh niên Ấn Độ chừng ba mươi tuổi được cha y dắt đến và yêu cầu tôi chữa tật câm cho y, mà y đã mắc phải từ ba năm về trước.
Vì bị đám đông vây chặt làm nghẽn hết lối đi, tôi mới trèo lên bực tam cấp của ngôi đền Bà La Môn gần bên, và kéo người câm cùng bước lên với tôi. Lúc ấy tôi đưa tay làm hiệu để yêu cầu quần chúng giữ im lặng, và bảo người cha tuyên bố cho dân chúng biết tự sự.
Sự việc diễn ra sau đó đã được một bạn đạo là ông Ramaswamier tường thuật lại và đăng trong mục phụ bản tạp chí Theosophist, tháng 8 năm 1883. Ông viết:
"Giữa một đám quần chúng tề tựu đông đảo trước ngôi đền Nelliappa, Đại Tá Olcott đặt hai bàn tay lên người câm. Ông khoát tay bảy lần vòng quanh đầu, và bảy lần dọc theo thân mình người bất hạnh, tất cả mọi sự đã diễn ra trong không đầy năm phút, và người câm đã nói được!
Giữa những tràng pháo tay vang động và những tiếng kêu hoan hô nồng nhiệt, Đại tá Olcott đã chỉ thị cho người câm thốt lên hồng danh của Shiva, Gopala, Rama, ramachandra và của các đấng Thần Minh khác một cách trôi chảy dễ dàng như bất cứ người nào trong đám đông đang chứng kiến sự việc ấy. Tin lành về việc chữa khỏi bịnh cho người câm đã loan truyền tức khắc khắp cả thành phố và đã gây nên một cơn xúc động sâu xa".
Điều ấy cũng không lạ gì, vì khi tôi làm cho người câm hô to danh hiệu các vị Thần bằng giọng lớn tột đỉnh của y, thì một nửa đám đông vô cùng xúc động, bèn đổ xô ra đường như điên như dại, vung tay lên khỏi đầu, và la lớn khẩu hiệu ngạc nhiên, mừng rỡ theo kiểu Ấn Độ nghe rền cả một góc trời: Wah! Wah! Wah!(*)[ii]
Trong tờ phụ bản tạp chí Theosophist tháng 5 năm 1883, độc giả sẽ thấy đăng tờ y chứng của Bác Sĩ Purna Chandra Sen ở Dacca, nói về việc tôi đã chữa khỏi trong vòng hai mươi phút, hai bịnh nhân bị chứng sốt rét trầm trọng, với hậu quả là bị sưng lá lách, mệt tim và loạn thần kinh.
Cũng trong phụ bản tạp chí ấy ra số tháng 6 năm 1883, có bản tường thuật của Bác Sĩ Mohun Ghose về mười trường hợp khó trị do tôi chữa khỏi, trong số đó có trường hợp của chính ông ta.
Đó là trường hợp mù mắt bên tay trái, mà các y sĩ nhãn khoa danh tiếng ở Calcutta đề tuyên bố là không thể chữa khỏi, và có thể là một chứng bịnh do bẩm sinh đã có. Bác Sĩ Mohun viết:
"Nhưng hôm nay, sau vài phút truyền điện bằng cách thổi vào một cái ống dẫn điện nhỏ bằng bạc, Đại Tá Olcott đã phục hồi lại thị giác cho tôi. Ông bảo tôi nhắm con mắt bên Phải, và đọc bằng con mắt bên trái từ trước vẫn bị mù. Tôi đã đọc được báo in bằng kiểu chữ nhỏ loại thông thường. Những cảm xúc của tôi như thế nào, người ta có thể tưởng tượng rõ ràng hơn là do tôi diễn tả".
Phải, nhưng hãy thử tưởng tượng những cảm xúc của các y sĩ nhãn khoa trứ danh của thành phố Cacutta, đã tuyên bố là con mắt ấy không thể chữa khỏi!
VI
Vì những trường hợp chữa khỏi bịnh bằng nhân điện của tôi được các báo chí phổ biến rộng rãi và bình luận thường xuyên, nên độc giả có thể thích thú mà đọc một bản tóm lược những số thống kê do bạn Chandra Mukerji công bố, ông này cùng đi theo tôi suốt cuộc hành trình công tác đạo sự trong năm 1882 và trợ giúp tôi về phần việc của một bí thư. Ông cho biết tổng số bịnh nhân mà tôi đã chữa trị là hai ngàn tám trăm mười hai người trong một chuyến đi vòng quanh các thị trấn miền Đông Bắc kéo dài độ năm mươi bảy ngày.
Bà C.Wallace, tác giả một bộ sách về khoa Nhân Điện, khi nhìn thấy bản thống kê tổng số bịnh nhân do tôi chữa khỏi trong năm ấy, có viết thư cho tôi biết rằng không một nhà chữa bịnh bằng Nhân Điện nào ở Âu Châu có thể thành công tới một nửa số đó.
Lẽ tất nhiên, bà chỉ nói về những nhà chữa bịnh chuyên nghiệp như bà mà thôi, chứ không đề cập đến những bậc thiên tài như Schlatter, Newton, Linh Mục Ars, Zouave Jacob và những vị khác mệnh danh là có sự hỗ trợ của một quyền năng thiêng liêng. Riêng phần tôi, tôi thành thật thú nhận rằng tôi không thể nào chịu đựng nổi một sự phung phí sinh lực lớn lao và thường xuyên như vậy, nếu tôi không được sự trợ giúp thần lực của các đấng Chân Sư, tuy rằng điều này các Ngài không hề nói cho tôi biết.
Điều mà tôi bắt buộc phải nhìn nhận là tôi không còn có được một quyền năng nhiệm mầu như vậy nữa kể từ khi tôi được lịnh ngưng mọi công tác chữa bịnh, tức là vào khoảng cuối năm 1885. Sau đó, tuy tôi đã luôn luôn cố gắng tối đa, tôi vẫn không chữa khỏi những trường hợp tuyệt vọng mà trước kia tôi đã có thể thành công dễ dàng với chỉ độ nửa giờ chữa trị, hoặc có khi ít hơn.
Sau đó, tại Bombay, tôi được lịnh của Sư Phụ truyền cho tôi hãy ngưng tất cả mọi công tác chữa bịnh cho đến khi có lịnh mới. Sự ngăn cấm này không phải đến quá sớm vì tôi nghĩ rằng chính tôi cũng có thể bị tê liệt nếu tôi vẫn tiếp tục cố gắng và dùng sức quá nhiều vào việc ấy.
Khi đến Madras, một buổi sáng tôi nhận thấy ngón tay trỏ bên bàn tay trái của tôi không còn cảm giác, và đó là một sự cảnh cáo rõ rệt cho tôi biết là tôi phải cẩn thận. Ở những trạm dọc đường giữa Madras và Bombay, tôi đã phải mất nhiều thì giờ hơn và dùng sức cố gắng lớn lao hơn nhiều để chữa khỏi những chứng bịnh tương tự so với những lần trước đây, và tỷ lệ thất bại cũng cao hơn nhiều.
Điều này cũng không lạ gì, vì sau khi chữa trị bằng cách này hay cách khác độ tám ngàn bịnh nhân trong vòng mười hai tháng, thì dù cho một lương y có sinh lực dồi dào mạnh khỏe nhất, đừng nói chi một người tuổi ngoài năm mươi, cũng phải cảm thấy kiệt sức và nguồn sinh khí của mình bị khô cạn.
Vả lại, với những chuyến du hành mệt mỏi thường xuyên, việc ngủ nghê ăn uống thất thường, sự lao phí tâm lực để trả lời thư tín bốn phương, tiếp khách hằng ngày, và những buổi thuyết pháp hầu như mỗi ngày của tôi về những đề tài triết lý thâm sâu, những điều này đương nhiên là phải đưa đến cái hậu quả nói trên.
VII
Sau khi lịnh ngưng công tác chữa bịnh của tôi được giải tỏa, tôi lại tiếp tục làm việc.
Trong một chuyến đi hành đạo ở Madura, miền Nam Ấn, có rất đông bịnh nhân tề tựu đến nhờ tôi chữa bịnh, và mỗi trường hợp chữa khỏi bịnh lại làm cho dân chúng càng thêm sôi động. Tôi đã phải nhờ Ban Tổ Chức sắp đặt trật tự, và chọn lựa những bịnh nhân được chữa ưu tiên, trong số quần chúng vây chặt và xô đẩy nhau ở cửa vào.
Báo cáo của một bạn đạo gửi đăng tạp chí Theosophist cho biết rằng tôi đã truyền điện cho hai mươi bảy bịnh nhân, và những trường hợp khỏi bịnh đáng kể nhất gồm có ba người điếc, một trường hợp bịnh thấp khớp tủy xương sống đã kéo dài chín năm mà y học không thể chữa khỏi, và hai chứng liệt bại.
Nói chung, đó là một loạt những sự việc mệnh danh là "phép lạ", mà nếu được một giáo sĩ của bất cứ một tôn giáo nào khai thác triệt để, cũng đủ chứng minh cho người đới thấy rằng y là ngưới có Thiên Ân Sứ Mạng; vì quần chúng mê tín dị đoan của bất cứ nước nào cũng sẵn sàng tin tưởng như vậy.
Độc giả sẽ nhận thấy rằng nếu hai nhà Sáng Lập Hội Thông Thiên Học Thế Giới quả thật là những kẻ gian trá lừa bịp như họ thường bị vu khống, thì họ đã có thể tóm thâu những số bạc khổng lồ và được tôn sùng như thần thánh, thay vì chỉ có những số lợi tức ít oi như được tường trình trong các bản báo cáo tình hình tài chính hằng năm của Hội.
Không phải là chúng tôi không có cơ hội, bởi vì mọi cơ hội tốt mà bất cứ một nhà cải tạo tôn giáo nào ở Ấn Độ đã từng có, thì chúng tôi cũng đã có.
Trong thời kỳ mạt pháp hiện tại, mà lòng tín ngưỡng đã suy thoái, và các hàng giáo phẩm, tư tế đã lụn bại, đồi trụy tinh thần, thì những phép thuật thần thông của bà HPB và phép chữa bịnh nhiệm mầu của tôi đã gây ấn tượng sâu xa vào tâm hồn dân chúng đến mức làm cho các nhà tỷ phú sẵn sàng hiến dâng tiền bạc của cải dưới chân chúng tôi, và những số bạc khổng lồ đã được cung hiến để cho chúng tôi biểu diễn quyền năng trước mắt họ(*)[iii]
Chúng tôi đã từ chối tất cả những đề nghị đó với một sự thành thật hiển nhiên, và đó chính là cái bí quyết làm cho chúng tôi được quần chúng mến phục và kính trọng ở khắp mọi nơi trong xứ Ấn Độ, kể từ lúc đầu cho đến bây giờ.
Nếu chúng tôi đã thâu nhận một món quà nào cho riêng mình, thì toàn thể quần chúng Ấn Độ có lẽ đã bỏ rơi chúng tôi trong cơn khủng hoảng về vụ Coulomb, buôn thanh62 bán thánh, hoặc "lấy Đạo tạo Đời".
Trái lại, với tình trạng hiện hữu, tất cả các nhà Truyền Giáo của mọi chi phái và tất cả mọi tổ chức hiệp hội trên thế giới, vẫn không thể lấy mất đi cái cảm tình mà chúng tôi gây nên trong lòng của dân chúng Ấn, dẫu rằng họ thuộc một thế hệ suy đồi!
Chương Mười Sáu
CHÂN SƯ K.H. TẠI LAHORE
I
Trong một chuyến đi hành đạo ở miền Trung Ấn, khi đến Sholapore một người cộng tác mới là bạn W.T.Brown quê tại Glasgow (Anh Quốc), tháp tùng đi với chúng tôi.
Y từ Anh Quốc sang đây do sự thúc đẩy của lòng mong muốn phụng sự, và vừa mới đến Madras. Y có viết thư cho tôi, bày tỏ thiện chí tình nguyện trợ giúp tôi trong công việc đạo sự.
Tôi đã trả lời cho y bằng một bức thư lời lẽ lịch sự nhưng rất thẳng thắn, cảnh giác cho y biết trước về sự hy sinh mà y phải chịu; sự vô ơn bạc nghĩa của người đời; những sự lừa đảo phản trắc cá nhân; những sự vu khống bôi lọ thanh danh; sự nghi ngờ bất công về ý đồ hay mục đích của mình; và những chuyến đi vất vả mệt nhọc đêm cũng như ngày, bằng đủ mọi thứ phương tiện di chuyển thô sơ và thiếu tiện nghi.
Tôi cũng khuyên y nên trở về xứ nhà nếu y thấy có triển vọng nào khác, để cho bà HPB và tôi tiếp tục công việc mà chúng tôi đã bắt đầu với một tinh thần tỉnh táo chứ không ảo vọng.
Sự trả lời của y là một bức điện tín cho biết y sẽ đến với tôi, và y đợi tôi tại ga Sholapore.
Đây nhắc lại trường hợp của Damodar Mavalankar. Khi người bạn trẻ này gia nhập Hội Thông Thiên Học và đặt hết cả tâm hồn công việc phụng sự, y được cha y cho phép đến sống chung với chúng tôi, bất chấp cả những quy luật hạn chế về giai cấp và sống theo giới luật khổ hạnh giống như của một tu sĩ xuất gia.
Theo tập quán của người Bà La Môn, Damodar đã có đính hôn ngay từ khi còn nhỏ, đương nhiên là không có sự chấp thuận của y. Đến giai đoạn trưởng thành, là thời kỳ y phải bước vào đời sống có gia đình.
Tuy nhiên, nguyện vọng duy nhất của y trong đời là sống một đời sống tâm linh thoát tục, nên y coi hôn nhân như là một chướng ngại ghê gớm. Y cảm thấy mình là nạn nhân của phong tục tập quán, và rất muốn được giải thoát khỏi sự giao kết ràng buộc kia đi, để y có thể trở nên một đệ tử chân chính của Chân Sư K.H., mà y đã nhìn thấy linh ảnh khi còn bé thơ, và lại có dịp nhìn thấy Ngài sau khi y đến với chúng tôi.
Cha y vốn là một người hiểu rộng và khôn ngoan, sau cùng đã bằng lòng. Damodar bèn ký thác cho cha y phần gia tài ruộng đất của y do tổ phụ để lại, mà nếu tôi nhớ rõ, thì trị giá đến năm mươi ngàn Ru-pi, với điều kiên là người hôn thê thơ ấu của y phải được cha y đem về nhà và nuôi dưỡng tử tế.(*)[iv]
Khi đến Kanpur, tôi đã có những bằng chứng về sự phát triển tâm linh mau chóng của Damodar. Như đã nói trước đây, trong một cơn bịnh nặng hồi còn thơ ấu, y được sự viếng thăm của một đấng Cao Cả mà nhiều năm về sau y đã có thể nhận ra như một trong các đấng Chân Sư, sau khi gia nhập Hội Thông Thiên Học.
Kể từ khi đó, mối liên hệ mật thiết giữa Chân Sư và đệ tử đã được thiết lập, và Damodar đã đặt hết cả tâm hồn vào việc tu luyện, ăn uống đạm bạc, tham thiền đúng giờ khắc, luyện đức tính hoàn toàn vị tha vô kỷ, và làm việc ngày đêm không quản công lao khó nhọc để làm tròn chức vụ mà tôi giao phó cho y trong ban Quản Trị Hội Thông Thiên Học.
Y tham gia chuyến đi công tác này của tôi là thừa lịnh của Sư Phụ y, và trong suốt thời gian hành trình, chúng tôi đã có nhiều bằng chứng về sự tiến bộ tâm linh mà y đã thực hiện được.
Tôi còn nhớ rằng vào buổi chiều chúng tôi vừa đến Kanpur, y đã làm tôi ngạc nhiên bằng cách nhắn miệng với tôi một thông điệp của Chân Sư để trả lời tôi về một việc mà tôi đang băn khoăn do dự không biết phải giải quyết bằng cách nào.
Y còn nói thêm rằng tôi sẽ thấy bức thông điệp ấy viết trên một tờ giấy nằm trong một hộc tủ có khóa lại cẩn thận, mà chìa khóa nằm trong túi áo của tôi. Khi tôi đi mở hộc tủ, tôi thấy bản thông điệp viết tay mà y vừa nói, và đó chính là thông điệp của Đức Chân Sư K.H. gửi cho tôi.
Vào ngày thứ hai khi đến Kanpur, tôi nhận được một bó thư tín chuyển đến cho tôi từ Adyar. Trong số đó có một bức thư của ông Sam Ward gửi từ Capri, có kèm theo một thông điệp gửi cho Chân Sư K.H., mà y yêu cầu tôi chuyển đạt cho Ngài nếu có thể.
Vì lúc ấy Damodar mỗi đêm đều xuất Vía đi đến đạo viện của Chân Sư, nên tôi đưa bức thư ấy cho y, và nói rằng y có thể hỏi Ngài xem y có nên đem theo bức thư ấy hay không.
Đó là vào buổi trưa ngày 4 tháng 11 năm 1883, và chúng tôi đang ở tại Kanpur, thuộc vùng Tây Bắc. Độc giả hãy nhớ rõ chi tiết này để theo dõi phần nối tiếp ở một đoạn sau
Sau một buổi thuyết trình và làm các công tác đạo sự khác, chúng tôi từ Kanpur đi theo lộ trình đã vạch sẵn, qua các thị trấn Lucknow, Bareilly và Moradabad. Ở một nơi chương trình hành sự gồm có việc tiếp khách, thảo luận về đạo lý, và thuyết pháp công cộng trên diễn đàn.
Tại Moradabad, bạn Damodar đã cho tôi thấy một bằng chứng khác nữa vế khả năng Xuất Vía của y. Y xuất hồn đi đến Adyar, nói chuyện với bà HPB, nghe giọng nói của một vị Chân Sư thốt ra một thông điệp giử cho tôi, và yêu cầu bà HPB hãy giử điện tín cho tôi phần nội dung của bức thông điệp ấy để chứng tỏ cho tôi thấy tính cách chính xác của các sự việc xảy ra.
Khi y trở về và báo cáo lại với tôi mọi việc, y đọc lại bức thông điệp của Chân Sư bằng trí nhớ như y đã nghe, và tất cả mọi người có mặt trong văn phòng đều ký tên vào một bản chứng thư để chứng nhận việc ấy.
Sáng ngày hôm sau, người thư tín viên của Sở Bưu Điện đem lại cho tôi bức điện tín của bà HPB. Bức điện tín ấy xác định nội dung bản thông điệp như Damodar đã đọc lại ngày hôm trước, và các nhân chứng có mặt trong phòng cũng lại đồng ký tên vào phía sau bức điện tín để xác nhận việc ấy.
Trạm kế đó trên lộ trình là Aligarh, và tại đây vào ngày 12 tháng ấy, sự việc đã diễn biến tiếp nối theo vụ bức thư của ông Sam Ward gửi cho Chân Sư K.H.
Tại nhà bưu điện, tôi nhận được thư tín từ Adyar, trong số đó có một bức thư của bà HPB đề ngày 5 tháng 11, kèm theo với bức thư của ông Sam Ward gửi cho Chân Sư K.H. mà tôi đã nhận được trước đây từ Capri (Ý Đại Lợi), và đã đưa cho Damodar tại Kanpur vào chiều ngày 4 tháng 11, tức là cách một đêm trước khi bà HPB gửi thư ấy tại Adyar.
Bức thư của bà có đóng dấu gửi đi tại nhà bưu điện Adyar, ngày 5 tháng 11, và con dấu nhận được tại Aligarh ngày 10 tháng 11, hai địa điểm này cách xa nhau năm ngày đường xe lửa. Bức thư ấy đã nằm tại nhà Bưu Điện Aligarh hai ngày trước khi tôi đến nhận thư.
Đó là một trường hợp có thể chúng thực về việc chuyển di tức khắc một vật thể giữa hai địa điểm cách xa nhau trong không gian. Không thể có sự giả mạo hay ngụy tạo trong vấn đề này, do bằng chứng rõ rệt là những con dấu nhà Bưu Điện đóng ở ngoài bì thư như đã diễn tả ở trên.
Damodar có kể cho tôi nghe một việc lý thú liên quan đến chuyến đi bằng Thể Vía của y. Như thường lệ, khi thể xác y đã ngủ mê, y Xuất Vía vượt qua không gian bay thẳng đến nhà Chân Sư trên dãy núi Tuyết Sơn, nhưng khi đến nơi, y thấy rằng Chân Sư cũng đã Xuất Vía đi đâu mất rồi!
Kế đó, do bởi quyền năng hấp dẫn của Ngài đối với người đệ tử, thể Vía Damodar đã bị cuốn hút mãnh liệt và đến với Ngài tức khắc chẳng khác nào như y bị giòng nước xoáy mạnh và sâu thẳm cuốn trôi đi.
Trong giây phút, Damodar đã thấy mình ở tại Adyar, đứng trước mặt Chân Sư và bà HPB. Khi y đi ngủ, y đã cầm trong tay bức thư của ông Ward, và thư ấy dường như đã cùng với y đi lên cõi Trung Giới, lẽ tất nhiên là đã chuyển biến từ trạng thái vật chất cụ thể sanh trạng thái khinh thanh của chất dĩ thái hay chất thanh khí cõi Trung Giới.
Khi y nói với Chân Sư về bức thư ấy, y vẫn cầm nó trong tay và trao nó cho Ngài, kế đó Ngài bảo y hãy quay trở về nhà. Do một thứ quyền năng bí hiểm thuộc về khoa Vật Lý hay Hóa Học Siêu Hình, bức thư bằng chất dĩ thái khinh thanh đã được phục hồi trở lại trạng thái đông đặc vật chất, được bà HPB cầm lấy, và ngày hôm sau, được gửi qua đường bưu điện d8en61 địa chỉ của tôi ở Aligarh. Việc gì xảy ra sau đó, thì ai cũng biết rồi.
Nếu tôi biết rành về khoa học hơn, thì tôi đã dùng sự việc này, cùng với hiện tượng cái khăn vấn đầu mà một vị Chân Sư khác đã cho tôi khi Ngài đến viếng tôi bằng Thể Vía ngay trong phòng của tôi ở tại New York trước đây, và những trường hợp chuyển di các đồ vật khác nữa, làm một đề tài thảo luận về việc người ta có thể biến đổi những đồ vật từ trạng thái vật chất cụ thể, hữu hình qua trạng thái khinh thanh, vô hình vô ảnh của những vật thể trên cõi Trung Giới.
Sự biến thể đó có thể tác động theo hai chiều đối nghịch nhau, tức là từ trạng thái vật chất hữu hình trở thành siêu hình và từ trạng thái khinh thanh quay ngược trở về trạng thái vật chất hiển hiện cụ thể. Những nhà khảo cứu uyên bác về những hiện tượng thông linh đều biết rõ vấn đề này.
Kế đó, chúng tôi đi Delhi, Meerut và Lahore, tại đây đã diễn ra những sự việc độc đáo. Giữa hai trạm sau này, Damodar đã thực hiện một chuyến đi khác bằng Thể Vía cũng rất lý thú và đáng ghi nhớ.
Chúng tôi ba người, kể cả bạn Narain Swamy Naidu cùng đi chung trong một toa xe lửa. Damona có vẻ thẫn thờ dường như buồn ngủ, và bước lên một băng "cút -xét" để nằm ngủ, còn tôi ngồi đọc sách dưới ánh đèn của toa xe.
Thình lình, Damona bước đến gần tôi để hỏi giờ, tôi nhìn đồng hồ riêng của tôi thì thấy gần sáu giờ chiều. Y cho tôi biết rằng y vừa từ Adyar trở về, tại đó bà HPB vừa bị một tai nạn, mà y không thể nói là nặng hay nhẹ, nhưng y nghĩ rằng bà đã đi vấp chân vào tấm thảm lót và đã té ngã quỵ trên đầu gối bên tay mặt.
Độc giả sẽ thấy rằng Damona chỉ là một người sơ cơ trên đường Huyền Môn, và không thể nhớ rõ một cách chính xác việc gì đã xảy ra ở cõi giới bên kia khi y trở về tâm thức ngoại giới hồng trần.
Khi tôi nghe y kể chuyện ấy, tôi làm ngay hai việc sau đây để biết rõ sự thật. Tôi viết một bản chứng thư về sự việc này và yêu cầu bạn Narain Swamy hãy cùng tôi ký tên vào đó, có ghi rõ giờ khắc. Đến nhà ga kế đó, tức ga Saharanpore, tôi gởi điện tín hỏi bà HPB:
"Tai nạn gì đã xảy ra tại Adyar lúc sáu giờ chiều nay?"
Chúng tôi đến Lahore vào lúc chín giờ sáng ngày hôm sau, và được đưa đến một trại lộ thiên gồm có sáu chiếc lều cá nhân (dùng để ở) và bốn chiếc lều công cộng căng bằng vải cứng dùng làm chỗ hội họp và chỗ thuyết giảng, dựng lên trên một khoảnh đất trống ở ngoại ô phía Bắc thành phố.
Chúng tôi kể cho các bạn đạo nghe câu chuyện xảy ra đêm hôm trước trên xe lửa, và đưa tờ chứng thư ra cho họ xem: tôi yêu cầu các bạn có mặt lúc ấy ký tên vào đó và ghi nhận rằng lúc ấy bức điện tín mong đợi của bà HPB vẫn chưa đến.
Kế đó mọi người từ giã tôi để đi tắm và ăn sáng, và trong khi tôi đang ngồi trong lều vải với ông R.C.Bary, chủ bút tạp chí Arya, thì một người đem thơ của Sở Bưu Điện bước đến gần chúng tôi, tay cầm một bức điện tín có bọc trong một bao giấy màu nâu.
Tôi yêu cầu bạn Ruttan Chand hãy cầm lấy bức điện tín trong tay y để chờ đợi cho đến khi những người bạn khác trở lại rồi sẽ mở ra và đọc trước mặt mọi người.
Việc này được thi hành vào đúng mười hai giờ trưa, do ông R.C.Bary thực hiện và chín bạn đạo có mặt đồng ký tên ở phía sau bức điện tín để chứng thực các sự việc.
Nội dung bức điện tín như sau:
“Tôi vấp phải chiếc ghế bành, té nặng trên đầu gối tay mặt, ngã vào mình bà Coulomb, làm ông bà Morgan hốt hoảng. Damodar làm chúng tôi giựt mình”.
Bức điện tín của tôi gửi từ Saharanpore đến tay bà HPB vào đêm 17; điện tín trả lời của bà HPB đề ngày 18 tại Adyar lúc bảy giờ năm mươi lăm và tôi nhận được tại Lahore vào giữa trưa hôm ấy. Sự sai biệt về chi tiết giữa câu chuyện tường thuật của Damodar và bà HPB cũng không làm ai ngạc nhiên vì trình độ sơ cơ của Damodar lúc ấy, còn sự việc chính, tức là việc bà bị té nặng và bị thương trên đầu gối bên tay mặt được hoàn toàn xác nhận là đúng.
II
Lều trại của tôi được khách đến viếng thăm rất đông suốt ba ngày liền trong thời gian chúng tôi lưu trú tại Lahore, và tôi có thuyết pháp hai lần dưới lều vải công cộng trước một đám quần chúng đông đảo.
Đêm hôm 19, tôi đang ngủ trong lều, thình lình tôi thức giấc khi tôi cảm thấy có một bàn tay sờ vào mình tôi. Trại này được dựng lên giữa đồng trống, và ngoài ra sự bảo vệ của Cảnh Sát thành phố Lahore, phản ứng đầu tiên của tôi là tự vệ chống lại một kẻ cuồng tín tôn giáo có thể đến ám sát tôi.
Tôi bèn ngồi nhổm dậy, nắm chặt lấy hai cánh tay người lạ mặt và hỏi bằng thổ ngữ Hindoustani rằng y là ai và y muốn gì.
Việc ấy chỉ xảy ra trong chớp mắt, và tôi giữ chặt lấy người kia, trong tư thế tự vệ của một người trước cơn nguy biến có thể bị hành hung bất ngờ và phải bảo toàn tính mạng của mình.
Nhưng ngay khi đó, một giọng nói êm ái dịu dàng thốt lên:
-Anh không biết tôi sao? Anh không nhớ tôi chăng?
Thì ra đó là giọng nói của Chân Sư K.H. Sự cảm xúc của tôi liền thay đổi đột ngột, tôi bèn buông tay ra, chắp hai tay kính cẩn vái chào ngài, và muốn nhảy ra khỏi gường nằm để đảnh lễ Ngài.
Nhưng Ngài đưa tay ngăn tôi lại, và sau khi đã trao đổi với nhau vài câu, Ngài nắm bàn tay trái tôi trong tay Ngài, cuốn tròn những ngón tay mặt của Ngài trong lòng bàn tay tôi, và đứng yên bên cạnh giường, trong khi đó tôi có thể nhìn thấy gương mặt đầy hảo ý và thánh thiện của Ngài dưới ánh đèn trong lều.
Sau một lát, tôi cảm thấy một vật gì mềm mại tượng hình trong bàn tay tôi, kế đó Chân Sư đặt bàn tay trên trán tôi, thốt ra một lời ban ân huệ, và sau khi rời khỏi gian lều ngăn đôi của tôi, Ngài bước qua gian kế bên để thăm ông W.T.Brown, ông này ngủ ở gian bên cạnh, sau một tấm vách ngăn bằng vải cứng chia lều ra làm hai buồng.
Khi tôi có thời giờ để thu thập tinh thần và chú ý đến mình, tôi thấy tôi đang nắm trong bàn tay trái của tôi một tờ giấy xếp làm tư gói trong một cái khăn lụa. Động tác đầu tiên của tôi lẽ tự nhiên là bước đến gần đèn, và mở tờ giấy ra đọc.
Đó là một bức thư khuyên bảo về việc riêng tư của tôi, có chứa đựng những lời tiên tri về cái chết của hai người đối thủ tích cực chống lại Hội Thông Thiên Học lúc ấy, nhưng không nói rõ tên. Lời tiên tri này đã ứng nghiệm với cái chết của Swami Dyanand Saraswati và Keshab Chandra Sen ít lâu sau đó.
Việc gì xảy ra trong gian buồng của bạn Brown ở kế bên, y đã kể lại cho nhiều nhân chứng nghe, và đã công bố trong một tập văn thư nhan đề: “Vài Kinh Nghiệm Ở Ấn Độ”.
Trong một tập văn thư khác nữa nhan đề: “Một Tham Luận Giải Thích về Hội Thông Thiên Học”, y viết:
“Có thể nói rằng Chân Sư K.H. là một bậc Siêu Phàm; người viết đã có hân hạnh gặp Ngài tại Lahore, và có diễm phúc được nói chuyện và tiếp xúc với Ngài. Người viết cũng đã nhận được thư của Ngài tại Madras, Lahore, Jammu, và lại một lần nữa ở Madras, tất cả các thư ấy đều được viết bằng một tuồng chữ giống nhau,v.v…”
Khi tôi nghe thốt lên một tiếng kêu ngạc nhiên ở gian buồng kế bên, tôi mới bước qua xem việc gì xảy ra, thì y đưa cho tôi xem một bức thư gói trong một chiếc khăn lụa giống như của tôi nhưng với nội dung khác hẳn. Thư ấy cũng được Ngài tượng hình trong lòng bàn tay y giống như trường hợp của tôi, và chúng tôi cùng lấy ra đọc chung nhau.
Về sau, người bạn trẻ này lại thay đổi chí hướng nhiều lần, và sau khi đã xoay trở giáp một vòng thay đổi lớn qua nhiều tổ chức tôn giáo khác nhau, sau cùng y theo đạo Gia Tô và làm giáo viên trong một trường học của Hội Thánh La Mã.
Bức thư của Chân Sư K.H. có đề cập đến việc Chân Sư M. đến viếng thăm tôi tại New York trước đây, khi ấy Ngài đọc được tư tưởng thầm kín của tôi và ban cho tôi cái khăn vấn đầu của Ngài để chứng minh cụ thể rằng thật sự Ngài đã xuất hiện trong phòng tôi.
Thư ấy viết:
“Tại New York, con đã muốn có một bằng chứng cụ thể rằng cuộc viếng thăm của Ngài không phải là một Ảo Ảnh (Maya)),và Ngài đã cho con cái bằng chứng đó.
Bây giờ, tuy con không đòi hỏi, ta cũng cho con cái bằng chứng này: khi ta không còn ở đây, cái thư này sẽ nhắc nhở cho con biết sự gặp gỡ của chúng ta đêm nay.
Bây giờ ta sang gặp Brown để thử thách năng khiếu trực giác của nó. Đêm mai,khi trại đã vắng người, ta lại sẽ đến đây để nói chuyện với con nhiều hơn, vì con cần phải được cảnh giác trước về vài sự việc sẽ xảy đến trong tương lai”.
Ngài kết luận:
“Hãy luôn luôn cảnh giác, nhiệt thành, và sáng suốt trong mọi việc; vì con nên nhớ rằng sự hữu ích của Hội Thông Thiên Học phần lớn tùy nơi sự cố gắng của con, và ân huệ của Chúng Ta luôn luôn được ban xuống cho những nhà “Sáng Lập” chịu đau khổ hy sinh, và cho tất cả những người trợ giúp trong công ciệc của họ”.
Cái kinh nghiệm lạ lùng trên đây chắc hẳn là sẽ gây một ấn tượng sâu xa trên tâm hồn những kẻ trì độn nhất; huống hồ đối với những người có hoài bão được có cơ hội cộng tác bằng cách này hay cách khác với các đấng Chân Sư vì mục đích phụng sự nhân loại.
Nếu có ai hỏi tôi thế nào là nỗi niềm sung sướng hiếm có nhất mà tôi có thể tưởng tượng, tôi sẽ trả lời rằng:
-Được nhìn thấy và nói chuyện với một vị Chân Sư, vì dưới cái ảnh hưởng hào quang thánh thiện của Ngài, tâm hồn ta sẽ nẩy nở như cái hoa dưới ánh nắng Mặt Trời và bản thể ta tràn đầy một niềm vui tươi hoan lạc khôn tả.
Về phần tôi, tôi đã có cái niềm phúc lạc đó mà không mong cầu. Tuy nhiên, mỗi khi tôi có dịp hồi tưởng lại việc ấy, nó chỉ giống như một ánh nắng thoáng qua trong một ngày u ám, chỉ xuất hiện trong giây lát rồi lại biến mất đi.
Thời gian gặp gỡ giữa tôi với Chân Sư đêm ấy không kéo dài quá mười phút đồng hồ. Cái sờ của bàn tay Ngài kéo tôi ra khỏi giấc ngủ ngon say không mộng mị. Hôm ấy tôi đã trải qua một ngày làm việc mệt mỏi, cái lều vải rất lạnh lẽo, chỉ được sưởi ấm bằng vài cục than hồng đựng trong một cái chậu đất, và tôi kéo mền trùm lên đến tận hai mang tai.
Tôi bị một bàn tay lạ sờ vào mình, tôi giật mình thức giấc, tôi nắm chặt lấy hai cánh tay người khách lạ, cũng có thể là một kẻ đến ám sát tôi. Thế rồi, giọng nói ngọt ngào hiền dịu của Ngài làm tiêu tan cơn ngái ngủ cuối cùng của tôi, gương mặt Ngài sáng rỡ với một nụ cười; tôi nhìn thấy Ngài dưới ánh sáng mập mờ của ngọn đèn dầu ở phía sau.
Kế đó là hiện tượng tạo nên một bức thư gói trong chiếc khăn lụa ngay trong bàn tay của tôi, vài lời khuyên bảo, một cái chào từ giã, Ngài bước đi qua khỏi cây đèn để trên cái rương, hình dáng phong nhã của Ngài còn lưu lại một lúc nơi chỗ cửa lều, Ngài ban cho tôi một cái nhìn thân mến cuối cùng, rồi đi. Tất cả không kéo dài được bao lâu, nhưng cái ký ức của nó vẫn còn mãi mãi suốt cả đời tôi.
Nhiều năm trước đây, như độc giả chắc còn nhớ, tôi được lịnh xúc tiến công việc đạo sự cơ hồ như không có sự hướng dẫn và trợ giúp của các đấng Chân Sư mà chỉ vì mục đích phụng sự Nhân Loại. Chúng tôi không nên trông đợi gì nơi các Ngài, nhưng sẵn sàng làm bất cứ việc gì cần thiết và sẵn sàng ứng phó với mọi diễn biến xảy ra.
Tôi đã tiếp tục làm việc trong tinh thần đó cho đến ngày nay, không cầu mong được trợ giúp, cũng không hề thối chí ngã lòng vì không có lời hứa hẹn giúp đỡ của các Ngài. Tuy nhiên, chúng tôi vẫn không bao giờ bị bỏ rơi khi mà sự giúp đỡ ấy thật sự là cần thiết.
Cuộc viếng thăm của Chân Sư tại Lahore chỉ là một trong nhiều bằng chứng cho thấy rằng chúng tôi luôn luôn được theo dõi và trợ giúp; không hề bị bỏ rơi hay quên lãng trong cơn nghịch cảnh khó khăn, dù cho viễn ảnh tương lai mờ mịt tối tăm hay hăm dọa đến đâu.
Trên hai mươi năm trải qua cái kinh nghiệm đó đã gieo trong tâm hồn tôi một sự bình tĩnh thường xuyên và đức tin vững chắc, như nó đã gây nên trong tâm hồn bà HPB.
Cái kinh nghiệm đó đôi khi có thể là linh ảnh của một đấng Cao Cả, có khi là một giọng nói nghe được rõ ràng, có khi là một lời tiên tri sắp đến, có khi cũng là một thông điệp nhắn qua cửa miệng của một đệ tam nhân, chẳng hạn như thông điệp mà bà Mongruel, một nhà nữ linh thị tài tình, đã nhắn với tôi trong một cơn xuất thần tại Paris năm ngoái, cho tôi biết trước cái tương lai gần đây của Hội Thông Thiên Học, thời hạn kiếp sống hiện tại của tôi, và tình hình của Hội khi tôi từ trần.
Cũng y như vậy, trong bức thư của Chân Sư tạo ra ngay trong lòng bàn tay tôi, có tiên liệu về cái chết của hai địch thủ lợi hại của Hội, kèm theo với những lời khuyên hữu ích của Ngài.
Tuy những kẻ thù nghịch phản bội có thể ngụy tạo ra những sự gièm siểm, phỉ báng về lịch sử của phong trào Thông Thiên Học, và bôi nhọ tên tuổi của chúng tôi, nhưng việc ấy không đem cho họ một mảy may lợi ích nào. Công việc đạo sự vẫn tiếp tục, những người phụng sự chân chính được nhìn nhận, khích lệ và trợ giúp, bao lâu mà họ vẫn trung thành với lý tưởng và làm tròn việc bổn phận.
IV
Sau khi tôi và ông Brown có cái hân hạnh được Chân Sư đến viếng, đêm hôm sau hai chúng tôi và Damodar cùng ngồi trong túp lều của tôi lúc mười giờ đêm, để đợi sự tái ngộ với Chân Sư K.H. như Ngài đã cho biết trước.
Trại hoàn toàn vắng lặng, các bạn đạo của chúng tôi đã đi tản mác vào thành phố Lahore. Chúng tôi ngồi trên ghế ở phía sau lều vải, để khuất dạng cho người trong trại không nhìn thấy: con trăng hạ tuần còn chưa mọc lên.
Sau khi ngồi đợi một lát, chúng tôi nghe có tiếng chân người và thấy một người Ấn Độ cao lớn từ phía đồng bằng trống trơn bước đến gần chúng tôi. Người ấy còn cách chúng tôi có vài thước, bèn ra hiệu cho Damodar hãy bước đến gần. Người kia nói cho Damodar biết rằng Chân Sư sẽ tới trong vài phút, và Ngài có việc riêng với Damodar. Đó là một đệ tử của Chân Sư K.H.
Ngay khi đó, chúng tôi thấy Chân Sư K.H. xuất hiện đến cùng một phía và đi qua mặt người đệ tử, người này bèn rút lui ra sau đó một quãng ngắn. Ngài đứng trước mặt nhóm chúng tôi, chúng tôi cũng đã đứng dậy và chắp tay cung kính vái chào Ngài theo kiểu Ấn Độ, chỉ cách Ngài có vài thước.
Bạn Brown và tôi đứng yên một chỗ, còn Damodar bước ra và nói chuyện trong vài phút với Chân Sư, sau đó y trở lại với chúng tôi còn Chân Sư bước ra về. Tôi còn nghe tiếng chân Ngài đi trên mặt đất, như thế là Ngài không phải đi bằng Thể Vía mà là bằng xác phàm.
Tôi còn ngồi lại bàn để viết Nhật Ký trước khi đi ngủ, thì thấy vị đệ tử xuất hiện ngoài khung cửa sổ, ra hiệu cho tôi nhìn ra phía ngoài, và chỉ cho tôi thấy Chân Sư đang đứng đợi tôi dưới ánh sao khuya.
Tôi bước ra khỏi lều đi về phía Chân Sư, Ngài và tôi cùng đi đến một nơi an toàn cách đó độ một quãng mà không sợ bị ai quấy rầy, khi đó Ngài nói chuyện với tôi trong chừng nửa tiếng đồng hồ về tất cả những gì tôi cần biết. Không cần phải nói rằng tôi đã ngủ rất ít trong hai đêm đó.
Tuy nhiên, Chân Sư cho tôi biết rằng Ngài đến không phải hoàn toàn do ý riêng, tuy rằng Ngài rất vui lòng mà đích thân đến gặp tôi. Ngài đến đây vì thừa lệnh một đấng Trưởng Thượng còn cao cả hơn Ngài, đấng ấy rất hài lòng về sự trung kiên của tôi, Ngài muốn nhắc nhở tôi hãy giữ vững tinh thần và đừng bao giờ mất lòng tin tưởng. Khi cuộc hội kiến chấm dứt, Chân Sư ban ân huệ và từ giã tôi, rồi cùng với người đệ tử bước chân ra về.
V
Ngày hôm sau, chúng tôi giở trại và từ giã Lahore đi Jammu do lời mời của vị Quốc Vương xứ Kashmir. Một quan viên ban tiếp tân của nhà vua được gởi đến Lahore để tiếp đón tôi và đưa tôi về kinh đô.
Tôi được biết rằng vị Quốc Vương có tục lệ tặng quà rất hậu bằng tiền và đồ y trang quý giá cho các vị tân khách, nhưng tôi tích cực từ chối không nhận một Ru-pi vì việc ấy không phù hạp với thói quen của tôi.
Vị sứ giả không biết phải sử xự ra sao giữa hai đàng với những lập trường cứng rắn như thế. Một cuộc trao đổi điện tín tiếp theo sau đó vẫn không làm cho tình trạng được tốt đẹp hơn, rốt cuộc vấn đề được giải quyết bằng một cách làm thỏa mãn cả đôi bên.
Sau cùng, có sự thỏa thuận quà tặng của nhà vua sẽ được tôi tiếp thâu và chánh thức ký nhận với tư cách Hội Trưởng Hội Thông Thiên Học, mà trên cương vị này tôi sẵn sàng chấp nhận mọi sự cúng dường hay quà tặng cho Hội dù số lớn nhỏ bao nhiêu cũng vậy, miễn không gây thiệt hại cho người nào.
Khi đến thủ đô Jammu, tôi được đưa đến tòa Vương Cung, tại đây vị Quốc Vương đón tiếp tôi một cách niềm nở, trang trọng theo nghi lễ, tỏ cho tôi thấy rằng tôi được nghinh tiếp như một vị thượng khách. Sau khi đã phân ngôi chủ khách và trao đổi những lời chúc mừng xã giao thông thường, Quốc Vương mới cùng tôi đàm luận về triết học và đạo lý.
Tôi nhận thấy ông thông thạo triết lý Phệ Đà, và thông suốt các môn phái triết học Ấn Độ. Quốc Vương hoàn toàn tin tưởng nơi sự hiện diện của các Đấng Chân Sư, và tin rằng các Ngài sẽ giúp cho xứ Ấn Độ được những gì tùy theo Nghiệp Quả của nó cho phép chứ không hơn nữa.
Quốc Vương cũng nói qua về sức khỏe kém của ông, ông biết tôi đã từng chữa khỏi bịnh cho nhiều người, và gần đây tôi đã được lịnh ngưng công việc đó, nhưng hỏi rằng tôi có thể nào giúp cho ông bớt cơn đau nhức đầu dữ dội mà ông đang bị. Lẽ tự nhiên tôi bằng lòng, và sau khi Quốc Vương đã tháo gỡ cái khăn vấn đầu, tôi mới khoát tay truyền điện cho ông. Tôi rất thích thú mà làm cho Quốc Vương hết đau nhức, và khi cuộc hội kiến chấm dứt, Quốc Vương yêu cầu tôi hãy đến viếng ông mỗi ngày hai lần trong thời gian lưu trú tại đây, để chúng tôi còn đàm đạo với nhau về các vấn đề tôn giáo cao siêu mà cả hai chúng tôi đều ưa thích.
Ngày hôm sau, tôi đến Hoàng Cung hai lần để tiếp tục cuộc đàm thoại về đạo lý và cũng để truyền điện chữa bịnh cho Quốc Vương. Vị Thủ Tướng cũng có mặt cùng với những quan viên khác, gồm cả vị Chánh Án Tu Pháp, và thỉnh thoảng cũng xen vào câu chuyện đạo lý, theo lối tự nhiên của người Phương Đông.
Vị Chánh Án đã cùng tôi đàm luận suốt buổi tối hôm đó, và trong buổi nói chuyện, ông ta nói rằng vị Quốc Vương rất quý mến tôi đến mức sẵn sàng làm thỏa mãn bất cứ điều gì tôi muốn.
Tôi nghe vậy thì biết vậy thôi, nhưng sau khi ông Chánh Án đã đi ra, tôi lấy làm ngạc nhiên vì bạn Brown yêu cầu tôi xin cho y được bổ nhiệm chức Thẩm Phán.
Tôi nói:
-Sao! Anh đến Ấn Độ để hiến thân vào công việc phụng sự, tôi đã viết thư cảnh cáo anh đừng có trông đợi gì ngoài cái cơ hội chấp nhận hy sinh.
Anh lại vừa có cái vinh hạnh được một vị Chân Sư đến viếng và gửi thư cho anh, đó là một ân sủng đặc biệt mà nhiều hội viên kỳ cựu nhất của Hội Thông Thiên Học cũng chưa có được. Thế mà nay anh lại sẵn sàng ngã quỵ trước sự cám dỗ đầu tiên, và xin thọ lãnh một chức vụ ngoài khả năng của mình?
Tôi giải thích cho y nghe rằng nếu thật sự vị Quốc Vương kính trọng tôi, đó là bởi vì ông ta biết rằng tôi không hề chấp nhận lấy bất cứ một món quà tặng hay một ân huệ nào cho riêng mình, hay cho bất cứ một người thân nào của tôi.
Sau cùng, y đã nghe ra và không nói gì nữa, nhưng y đã phơi bày tâm địa của y một cách dứt khoát trước mắt tôi, và cuộc đời y sau đó đã xác nhận đúng đắn những gì tôi cảm nghĩ về trình độ và con người của y.
Chương Mười Bảy
DAMODAR BIỆT TÍCH
I
Trong khi tôi vẫn tiếp tục đến hội kiến hằng ngày với Quốc Vương Kashmir, thì đêm nọ một biến cố xảy ra: Damodar đã biến mất thình lình, và không để lại dấu vết gì để cho tôi biết rằng y đã đi đâu hay bao giờ y trở lại.
Tôi hối hả đi tìm nhưng tất cả gian phòng đều trống trơn, những bạn đạo khác đều đã đi xuống tắm dưới sông. Tôi hỏi thăm một người gia nô, thì y cho biết rằng Damodar đã đi ra khỏi nhà một mình vào lúc sáng sớm, nhưng không nhắn lại một lời.
Không biết phải làm thế nào, tôi mới trở về phòng riêng thì thấy trên bàn có một bức thư của một vị Chân Sư, bảo tôi đừng lo nghĩ gì về người bạn trẻ vì y được đặt dưới sự che chở của Ngài, nhưng không nói gì về việc y có trở về hay không.
Tôi chỉ mất có độ một phút đổ đi quanh khắp các phòng để cửa ngỏ, và không nghe có tiếng chân người đi ngoài sân lót đá sỏi vụn. Không một người nào có thể bước vào phòng tôi trong thời gian đó, tuy vậy đây là bức thư bí mật, với tuồng chữ viết của Chân Sư K.H. và cái phong bì kiểu Tàu quen thuộc, nằm trên bàn của tôi.
Cử chỉ đầu tiên của tôi là thu lượm đồ hành trang của Damodar, gồm một cái rương và đồ nệm gối để nằm ngủ, và xếp gọn dưới gầm giường của tôi. Kế đó tôi gửi một điện tín cho bà HPB biết tin Damodar đi biệt tích không biết bao giờ về.
Khi những bạn đạo đi tắm xong trở về nhà, họ cũng xúc động như tôi về sự việc này, và chúng tôi đã mất nhiều thì giờ thảo luận và phỏng đoán về hậu quả khả hữu của nó.
Tôi đến Hoàng Cung hai lần trong ngày đó, và đã được Quốc Vương đón tiếp ngày càng trọng vọng hơn lên. Ông tỏ ra vô cùng hậu đãi tôi, thảo luận với tôi về triết học Védanta một cách thích thú rõ rệt, và khẩn khoản mời mọc tôi cùng đi với ông lần sau, khi Quốc Vương đi lên Srinagar, thủ đô xứ Kashmir.
Khi trời đã sắp tối, tôi còn ngồi viết một mình trong ngôi biệt thự, khi đó các bạn đạo khác đã cưỡi ngựa đi chơi quanh vùng, bỗng tôi nghe tiếng chân người đi trên mặt đất rắc sỏi ở phía ngoài. Nhìn quanh, tôi thấy một thư tín viên Kashmir cao lớn, đem điện tín đến cho tôi. Đó là thông điệp của bà HPB trả lời bức điện tín của tôi. Bà nói rằng một vị Chân Sư có cho bà hay rằng Damodar sẽ trở về, và dặn tôi không nên để cho một người nào khác động chạm đến đồ hành trang, nhất là đồ nệm gối của y.
Phải chăng thật lạ lùng, vì lúc đó bà HPB đang ở Madras, tức là cách đó độ hai ngàn dặm, lại dặn tôi làm chính cái việc mà tôi đã làm, theo phản ứng đầu tiên khi nhận thấy rằng Damodar đã ra đi. Phải chăng đó là thần giao cách cảm?
Nhưng lại còn một điều lạ lùng hơn nữa. Mở ra và đọc bức điện tín không làm cho tôi mất đến một phút; người thư tín viên không có đủ thời giờ đi ngang qua hàng ba ngôi nhà để bước ra sân. Khi ấy, như một tia chớp nhoáng, tôi cảm thấy rằng người thư tín viên ấy không phải là một người thật, mà chỉ là một Ảo Ảnh (Maya), và thuộc về Quần Tiên Hội.
Tôi biết chắc như vậy, tôi có thể thề thốt để quả quyết như vậy, bởi vì có một sự giao động tâm linh huyền bí gây ra nơi tôi mỗi khi có một trong các đấng cao cả ấy bước đến gần tôi. Ngay sau khi đó tôi đã có thể nhận ra cái tiết điệu rung động kỳ bí gây nên bởi những luồng từ điển huyền diệu của Sư Phụ tôi, Ngài cũng là Sư Phụ của bà HPB.
Tôi chạy ra cửa và nhìn qua cái sân trống trơn của khuôn viên nhà, trong đó không có cây cối hay bụi rậm nào để dùng làm nơi ẩn trú, nhưng tuyệt nhiên không nhìn thấy gì cả: người thư tín viên đã biến mất cơ hồ như đã chui vào lòng đất.
Khi tôi kể lại chuyện này, có người hỏi tôi rằng làm sao có thể giải thích sự thuyên chuyển bức điện tín từ tay người đem thư thật qua tay người thư tín viên giả, và việc thu hồi tờ ký nhận của tôi về Sở Bưu Điện, trừ phi có sự toa rập với người đem thư để làm việc này?
Việc ấy rất đơn giản, miễn là người ta chấp nhận quyền năng thôi miên, hay nói theo từ ngữ của Huyền Môn Đông Phương, tức là cái bí quyết của việc tạo nên Ảo Giác hay Ảo Ảnh (Maya).
Vị Chân Sư gặp người đem thư; bằng quyền năng của Ý Chí, Ngài làm cho y không nhìn thấy Ngài; Ngài làm cho y trở nên vô ý thức, đưa y đến một chỗ trú ẩn an toàn; để y nằm đó trong giấc ngủ thôi miên; khoác lấy cái hình dáng bên ngoài của người kia để che khuất tác phong diện mạo của Ngài; đem bức điện tín đến cho tôi; cầm lấy cái biên lai do tôi ký nhận; đưa tay lên chào từ giã, và lui bước.
Một lúc sau đó, sự rung động thần kinh do luồng từ điển của Ngài gây ra nơi tôi phản dội lại nơi Ngài, cảnh giác cho Ngài biết rằng tôi đang ở vào tình trạng báo động và đương nhiên sẽ bước ra cửa để theo dõi Ngài; thế là Ngài thôi miên thị giác của tôi để cho tôi không nhìn thấy Ngài; trở lại chỗ người đem thư nằm ngủ lúc nãy; nhét tờ biên lai vào bàn tay y; dùng Ý Chí làm cho người kia nhớ lại mọi việc vừa xảy ra giữa tôi với Ngài dường như đã xảy đến cho y; đánh thức y dậy; dùng phép thôi miên che lấp thị giác của y; và trả y về Sở Bưu Điện.
Đó là một chuỗi dài những sự việc diễn biến nối tiếp nhau một cách rất đơn giản, mà mọi nhà chuyên môn về khoa Thôi Miên và Nhân Điện đều hiểu được một cách dễ dàng.
Damodar ra đi lúc sáng ngày 25 tháng 11, và trở về chiều ngày 27 tháng 11 sau khi vắng mặt độ sáu mươi giờ, nhưng y đã thay đổi rất nhiều! Khi ra đi, y là một thanh niên mảnh khảnh yểu điệu, một bạch diện thư sinh, nhút nhát rụt rè, nhưng y trở về với một gương mặt rắn rỏi, nước da sậm, rám nắng, thân hình khỏe mạnh, cứng cát, và tác phong bạo dạn, đầy cương nghị: chúng tôi không thể ngờ rằng y vẫn là một người. Y đã đến đạo viện của Chân Sư, và đã chịu thụ huấn về một phép tu luyện nào đó. Y đem cho tôi một thông điệp của một vị Chân Sư khác, mà tôi được biết rõ, và để chứng minh sự thật, y nói thì thầm vào tai tôi một khẩu hiệu đã được thỏa hiệp trước để chứng thực những thông điệp của Quần Tiên Hội gửi cho tôi, và khẩu hiệu ấy đến nay vẫn còn hiệu lực.
II
Ngày từ biệt vị Quốc Vương đã đến. Lúc một giờ trưa, chúng tôi cưỡi voi đi qua sông để đến Wazirabad và ngủ đêm tại đây. Ngày hôm sau, Damodar từ giã chúng tôi để đi Madras, còn chúng tôi tiếp tục lộ trình đi đến Jaipur. Sáng ngày hôm sau, những bạn đạo tại địa phương đưa tôi đến viếng một nhà tu khổ hạnh tên là Atmaram Swami.
Từ lâu trước khi tôi đến, vị tu sĩ này đã từng nói với họ rằng ông ta có liên hệ trực tiếp với những vị Chân Sư của chúng tôi, và tám năm trước đây, ở bên Tây Tạng, một trong các vị ấy là Đế Quân (Chohan) Jivan Singh, có nói với y rằng y không cần phải thất vọng vì tình trạng tâm linh suy đồi ở Ấn Độ, bởi vì các ngài đã sắp đặt vận chuyển cho hai người Âu Tây, một nam và một nữ, không bao lâu sẽ đến đây để phục hưng nền tôn giáo cổ của Phương Đông. Thời điểm tám năm đó trùng hợp với năm thành lập Hội Thông Thiên Học tại New York, và điếu tiết lộ này thật tối ư quan trọng đối với tôi.
Tôi nhận thấy tu sĩ là một người có tác phong cao quý, điềm tĩnh, và trang nghiêm, hoàn toàn khác hẳn những người tu sĩ tầm thường khác mà nay người ta thấy có ở khắp nơi và vô tích sự cho xứ Ấn Độ. Tu sĩ chào tôi với một cung cách lịch sự lễ độ rất dễ mến, và bày tỏ lòng ước mong thành khẩn rằng những hội viên của chúng tôi nên được khuyến khích tu luyện theo pháp môn Yoga.
Tôi nói cho ông ta biết rằng tôi không dám làm như vậy một cách cẩu thả bởi vì, trừ phi những thí sinh có một tính chất thích nghi, và trên hết mọi sự, được sự theo dõi tỉ mỉ của những bậc minh sư, thì họ có thể tu luyện sái phép và bị những hậu quả tai hại.
Tu sĩ dồng ý với tôi về điểm này, nhưng nói rằng mọi sự đã được liệu trước, và mọi nhu cầu cần thiết sẽ được đáp ứng vào đúng lúc. Thật vậy, điều này quả là đúng như vậy, và những điều huyền diệu đã xảy đến với bà A.Besant, ông Leadboater, và nhiều vị khác nữa mà hồi đó thậm chí cũng chưa phải là hội viên của Hội Thông Thiên Học, đã hoàn toàn xác nhận những lời tiên đoán của tu sĩ Atmaram Swami đã nói với tôi tại Jaipur năm 1883.
Đại Hội thường niên của Hội Thông Thiên Học được tổ chức tại Adyar vào hạ tuần tháng mười hai. Khi Đại Hội được khai mạc, những đại biểu các Chi Bộ tề tựu tham dự đông đảo từ khắp nơi, chật ních cả hội trường. Toàn thể các buổi hội họp và sinh hoạt đều biểu lộ một lòng hứng khởi nhiệt thành: vị thế của Hội ở Ấn Độ đã rất vững vàng kiên cố, không một gợn mây u ám nào xuất hiện trên vòm trời của chúng ta.
Những khoản tổn phí để tổ chức Đại Hội, phần nhiều do hội viên đóng góp kẻ ít người nhiều. Ngày 28 tháng 12, khi mọi người còn đứng ở ngoài hội trường trước khi Đại Hội khai mạc, tôi có phàn nàn với bà HPB rằng thật là một điều đáng tiếc mà thấy hội viên tỉnh Madras lại để cho vị Thẩm Phán Srinivas Row đóng góp tới năm trăm Ru-pi cho Đại Hội, vì tôi biết chắc rằng ông ta không có đủ khả năng tài chánh để tiêu xài rộng rãi như vậy.
Bà suy nghĩ một lúc, rồi gọi Damodar trong khi người bạn trẻ này đang đứng nói chuyện với một nhóm bạn đạo ở cách đó một quãng không xa. Bà nói:
-Anh hãy đi lên chánh điện và lấy xuống cho tôi một cái gói mà anh thấy ở đó.
Damodar tuân lệnh, và không đầy năm phút sau, y hối hả trở lại với một bao thư kín trong tay, ngoài bao thư có đề chữ:”Gửi cho P.Sriivas Row”.
Vị Thẩm Phán được mời đến để chúng tôi trao bức thư ấy cho ông, và yêu cầu ông mở ra. Ông làm y theo lời, và lấy làm ngạc nhiên khôn tả mà lấy từ trong bao ra, một bức thư lời lẽ rất ưu ái của Chân Sư K.H. tỏ lời cám ơn về tinh thần phụng sự nhiệt thành của ông, và gởi kèm theo đó là một xấp giấy bạc tổng cộng là năm trăm Ru-pi, trên mỗi tờ có viết chữ mẫu tự “K.H.” bằng bút chì xanh. Tôi kể lại đúng như sự việc đã xảy ra, và với sự đồng ý của vị Thẩm Phán, tôi còn giữ một tờ giấy bạc mười Ru-pi để làm kỷ niệm.
III
Tháng tư năm ấy, tôi có một buổi hội kiến với một nhà chiêm tinh Bà La Môn sở hữu một quyển sách bói rất cổ xưa viết trên lá kè, gọi là Bhima Grantham. Những lời tiên tri mà ông ta rút ra từ bộ sách này đã làm tôi vô cùng ngạc nhiên.
Những lời tiên tri họa phước đều không có già trị cho đến khi thực sự ứng nghiệm, nhưng khi đã ứng nghiệm rồi thì chúng lại có một tầm mức rất quan trọng như là những bằng chứng của khả năng tiên tri tiên giác trong con người.
Bởi vậy nên tôi có thói quen hay ghi chép làm tài liệu tất cả những gì tôi được nghe về vấn đề ấy, để có thể nêu ra vào đúng lúc khi những lời tiên tri đã ứng nghiệm.
Nhiều bạn đạo có cho tôi biết rằng họ đã được nhà tiên tri này tham cứu trong bộ sách cổ thư đó và nói lên những chi tiết rất chính xác về cuộc đời của họ, và tiên tri về những kế hoạch mưu toan của họ mà về sau đã tỏ ra vô cùng ứng nghiệm.
Họ cũng đã được nhà chiêm tinh cho phép kiểm chứng lại những lời tiên tri ấy bằng cách đích thân tra cứu trong bộ sách. Hơn nữa, các bạn đạo còn cho tôi biết rằng trong khi tra cứu, họ thấy trong sách ấy có ghi nhận mối tương quan của họ với Hội Thông Thiên Học, và ngoài ra, quyển sách còn có chứa đựng nhiều điều tiên tri về Hội Thông Thiên Học nữa.
Vì lẽ đó, họ đã sắp đặt một cuộc hội kiến giữa nhà chiêm tinh với tôi, nhưng chỉ với rất nhiều khó khăn và sau khi đã vượt qua những sự chống đối của người này về việc hội kiến với một người Âu Tây. Dầu vậy, y cũng chưa nhất quyết cho đến khi y đã tra cứu lại trong quyển sách, và ghi nhận ngày giờ chỉ định cho cuộc họp mặt, số người được phép tham dự, và vị trí cùng phương hướng chỗ ngồi của nhà chiêm tinh và của tôi.
Đến ngày giờ chỉ định, chúng tôi ngồi xếp bằng trên chiếu trải dưới đất, theo kiểu Ấn Độ. Khi cái bọc vải gói quyển sách được mở ra, thì đó là một quyển sách cổ, chữ khắc trên lá kè bằng một cây bút nhọn. Tôi nhận thấy quyển sách rất cũ, cạnh sách đã phai màu và nhầu nát, những chữ viết đã đen sậm với thời gian.
Quyển sách được để dựng đứng trước mặt tôi, những bìa lá ngửa lên trên, với một sợi dây buộc lá xuyên qua các lỗ đã soi sẵn trên các lá kè mà một đầu dây còn thừa và ló ra ngoài. Nhà tiên tri bảo tôi cầm lấy đầu dây này, để nó vào giữa bất cứ hai lá kè nào do tôi chọn, và mở quyển sách ra ở chỗ đó.
Tôi làm y theo lời, và lúc bấy giờ nhà chiêm tinh mới đọc những chữ viết trên trang đó và những trang sau.Quyển sách tiên tri viết:
“Đương số không phải là người Ấn Độ, mà là người ngoại quốc. Y sing ra vào lúc sao Thái Âm lọt vào Chòm sao Rua (Pléiades), với dấu hiệu Sư Tử ở vòng cung đi lên”.
Tiếp theo đó là vài điểm chi tiết nói về những sự hy sinh mà tôi đã làm vì mục đích phụng sự công ích xã hội. Kế đó, quyển sách nói tiếp:
“Cùng với một bạn đồng môn, đương số tổ chức một Hội để truyền bá giáo lý Huyền Môn (Brahma Gnya-num). Người bạn đồng môn ấy là một người nữ, có năng lực mạnh mẽ, thuộc dòng quý tộc, và cũng như đương số, là người nước ngoài.
Tuy sinh trưởng nơi quyền quý, người nữ ấy cũng từ bỏ tất cả, và đã cùng theo đuổi một đường lối hoạt động tương tự trên ba mươi năm. Tuy nhiên, Nghiệp Quả khiến cho bà phải chịu nhiều gian truân, đau khổ; bà bị người đồng chủng ghét bỏ, mặc dù bà đã lao công tổn sức làm việc vì sự ích lợi cho họ”.
Kế đó, quyển sách nói về hai người da trắng lúc đầu rất thân thiện, nhưng về sau đã phản bội, đặt chuyện công khai mạ lỵ, bêu xấu bà, và âm mưu làm cho công chúng nghi ngờ sự chân chính của phong trào Thông Thiên Học. Quyển sách tiên tri lại tiếp tục:
“Nhiều phép lạ nhiệm mầu đã được thực hiện liên quan đến Hội Thông Thiên Học, và những thư từ mà các nhà Sáng Lập nhận được của các đấng Chân Sư, đã bị đem ra công bố một cách ngu xuẩn dại dột: đó chính là nguyên nhân của tất cả những sự khó khăn rối rắm hiện nay”.
Kế đó, tiếp theo lời tiên tri rằng Hội Thông Thiên Học sẽ tồn tại lâu dài sau khi tôi chết, và thật là một điều ngạc nhiên, vì hai người bạn có mặt cũng không biết gì hơn nhà chiêm tinh, quyển sách nói về một cuộc hội họp riêng tư giữa tôi với vài người khác (tại tư gia của Bahadur Ragunath Row) vào ngày trước đó, với đề tài thảo luận, và tiên tri một cách chính xác về kết quả cuộc hội họp. Quyển sách ấy nói:
“Hội Thông Thiên Học hiện đang trải qua một chu kỳ hắc ám, đã bắt đầu từ bảy tháng và mười bốn ngày vừa qua, và sẽ còn kéo dài thêm chín tháng và mười sáu ngày nữa, tổng cộng là một thời gian đúng mười bảy tháng”.
Đếm ngược trở về dĩ vãng kể từ ngày xem bói, là thời kỳ trong năm 1884, mà bà HPB bị sự tấn công của các nhà Truyền Giáo, điều ấy xác nhận lời tiên tri trong quyển sách là đúng. Cũng kể từ ngày ấy tính tới với sự diễn biến của các việc xảy ra, lời tiên tri nói về sự chấm dứt chu kỳ hắc ám của Hội Thông Thiên Học và sự bắt đầu một chu kỳ sáng sủa tốt đẹp hơn cũng đã ứng nghiệm.
Về vấn đề này, đương nhiên lại trở lại trong trí tôi câu hỏi thường được đưa ra về sự tin tưởng của tôi đối với Khoa Chiêm Tinh. Tôi phải nói rằng tôi vẫn chưa có đủ bằng chứng để đảm bảo lời nói của tôi rằng tôi tin hay không tin. Nhiều sự việc thuộc về kinh nghiệm của người khác, vài sự việc trong kinh nghiệm của chính tôi, có khuynh hướng chứng minh sự thật của khoa học huyền bí này, nhưng vẫn chưa đủ để cho một người thận trọng có thể dùng làm nền tảng cho một sự tin tưởng tuyệt đối. Tôi còn chờ đợi, và sẵn sàng chịu thuyết phục, nhưng cũng nhất định không nói rằng tôi tin, trừ phi tôi gặp một trường hợp hoàn toàn thỏa đáng để cùng bàn luận với một hội đồng những học giả thông minh sáng suốt và cùng đi đến một kết luận chung.
Nhà chiêm tinh, hay quyển sách bói của y, nó đưa ra một lời tiên tri mà thỉnh thoảng người ta còn phải nhắc lại như một sự thí nghiệm của khoa bói này. Y nói rằng vào lúc tôi từ trần, Hội Thông Thiên Học sẽ có một trăm năm mươi sáu Chi Bộ lớn, không kể những Chi Bộ nhỏ, với tổng số độ năm ngàn hội viên. Nhiều chi bộ sẽ xuất hiện và biến mất, nhiều hội viên cũng đã đến rồi đi trước kỳ hạn đó.
Chính tôi cũng sẽ còn sống thêm được hai mươi tám năm, năm tháng, sáu ngày và mười bốn giờ nữa kể từ ngày hôm nay (tức là ngày 3 tháng 4 năm 1885), và như thế tôi sẽ còn sống đến sáng sớm ngày 9 tháng 9 năm 1913. Lời tiên tri này hãy còn thuộc về tương lai, để cho người nào còn sống sót sau khi tôi chết sẽ kiểm chứng lại.
Vì tôi chỉ ngồi nghe một cách khách quan chứ không chấp nhận mù quáng những sự tiết lộ trong quyển sách bói cổ Bhima Grantham và vì tôi không có thời giờ để xem xét tỉ mỉ quyển sách ấy trong cuộc hội kiến với nhà chiêm tinh, nên sau đó tôi đã cùng đi với Ananda đến Mylapore để tìm gặp lại y.
Y để cho tôi cầm lấy và quan sát kỹ lưỡng quyển sách tùy ý muốn. Nó chứa đựng ba trăm câu trả lời cho những câu hỏi viết bằng bút sắt nhọn trên lá kè, nó có lẽ đã xưa đến năm trăm năm, và viết bằng chữ Telugu. Dường như không ai có thể nghi ngờ rằng đó là một “ngụy thư”.
Tuy nhiên, có điều lạ kỳ là chỉ trong số ba trăm câu trả lời đó, nhà chiêm tinh đã tìm thấy một số liên quan đến lịch sử và định mệnh của Hội Thông Thiên Học. Phải chăng những lời tiên tri đó đã đợi đến năm trăm năm sau mới được tiết lộ cho người đến xem vận mệnh, khi y xuất hiện vào năm 1885?
Điều đó có vẻ vô lý, tuy vậy những chi tiết của cuộc hội kiến đã được tường thuật lại một cách trung thực, và lời tường thuật của tôi chắc chắn sẽ được bạn Subiah Chetty xác nhận là đúng như mọi việc đã xảy ra.
[i] (*)Bà Blavatsky đã nhập quốc tịch Mỹ tại New York tháng 7 năm 1878.
[ii] Tiếng hoan hô ca tụng các vị Thần Thánh (lời dịch giả)
[iii] Một người Hồi Giáo ở tỉnh Bengale có lần đề nghị dâng hiến cho tôi mười ngàn Ru-pi nếu tôi ngưng việc chữa bịnh cho công chúng trong vài giờ để chữa bịnh liệt bại cho vợ y. lẽ tất nhiên là tôi từ chối, mà đáng lẽ ra tôi đã có thể chữa khỏi bịnh cho người vợ, nếu y là một người nghèo khổ cùng đinh, hoặc nếu y hay các bạn y không đặt vấn đề tiền bạc đối với tôi.
[iv] Theo phong tục Ấn Độ thời cổ xưa cho đến thời gian gần đây, người con gái đã đính hôn, dẫu rằng chưa xuất giá, vẫn bị coi như gái đã có chồng và chỉ biết có vị hôn phu là chồng mình thôi, chớ không thể kết hôn với người nào khác suốt cả cuộc đời. Ngày nay, dưới ảnh hưởng trào lưu giải phóng phụ nữ và nam nữ bình quyền của nền dân chủ Tây Phương, tình trạng ấy đã được cải tiến lần lần và đã thay đổi nhiều.