Home » » THỂ TRÍ CỦA CON NGƯỜI-P3

THỂ TRÍ CỦA CON NGƯỜI-P3

Written By kinhtehoc on Thứ Tư, 25 tháng 1, 2012 | 21:29

CHƯƠNG THỨ TƯ
TÁNH NẾT CÁI TRÍ
Cái trí tánh nết lao-chao, không chịu định vào một chỗ nào cho lâu, nó giống như con bướm, đậu bông nầy rồi bay qua bông kia, liền liền không ngớt.
Ta thường nói tôi tưởng cái nầy, tôi tưởng cái kia, kỳ thật trong mười chuyện hết chín chuyện cái trí tưởng có một chuyện.
Xin các bạn hãy làm thinh đừng tưởng cái chi cả, các bạn sẽ nghe trong lòng có tiếng nói hoặc nhắc nhở những việc qua rồi hoặc lo lắn những việc xẩy tới, hoặc xui biểu làm việc nầy việc kia. Các bạn có công-nhận mấy lời ấy vốn của các bạn chăng? Đó là lời của cái trí, tới lúc nầy các bạn mới biết các bạn khác xa với cái trí của các bạn. Nhưng biết nó là một việc, còn làm chủ nó là một việc khác nữa, mà một khi biết nó rồi mới trị nó được. Nó lại rất kiêu-căng tự-phụ, coi ai cũng thua nó. Cái nào cũng khoe nó hiểu nó biết, nó giỏi, nó hay, còn mấy cái trí khác đều tầm thường.
Cũng như cái vía và cái xác, cái trí là tôi tớ mình. Nó để cho mình sai khiến. Tại trong nhiều kiếp rồi, mình không biết mình là chủ nó, mình để nó sai khiến lại, cho nên chịu biết bao điều khổ não, đau đớn rồi.
Bây giờ đây mình phải tập nó vâng theo mạng lịnh của mình. Hễ làm chủ cái trí được thì dễ sai khiến cái xác và cái vía.
Phương pháp đó là Định-trí với tham-thiền.
ĐỊNH TRÍ
Định trí là bắt buộc cái trí cứ một mực giữ một cái hình trong một khuôn mẫu nghĩa là: không cho nó xao lãng một phút nào. Nói một cách khác, định trí là chủ-ý. Định trí cũng gọi là tập-trung tư-tưởng nữa. Chớ nên quên rằng: Chỗ căn-cứ tư-tưởng không phải là cái óc mà là cái trí. Bởi vậy phép định trí có quan-hệ đến cái trí nhiều hơn cái óc xác thịt.
CÁCH THỨ NHỨT
Hay là:
NỀN TẢNG CỦA SỰ ĐỊNH TRÍ
Phải chủ-ý trong các công việc làm hằng ngày, nghĩa là: làm việc chi thì chăm chỉ vào việc đó, không nhớ chuyện nào khác. Cầm cây kim may, cây thước gạch, cuốn sách đọc, thậm chí đến hái rau bắt ốc, bửa cũi, giã gạo, nấu cơm, rửa chén vân vân, đều định trí được cả. Làm mà cứ lo việc mình đương làm, không tưởng đến điều chi, tức là định trí, chớ có phải là chuyện khó khăn chi đâu.
Dầu cái trí bắt mình xao lãng qua việc khác cũng kéo nó lại công việc mình đương làm đây. Ban đầu mình thấy thất bại, nghĩa là nhớ chuyện đâu đâu mà mình không ngờ, chừng nhớ lại đã mất hết vài phút rồi. Nhưng chớ lo, cứ kềm chế cái trí mãi, trong một hai năm thì thành công.
Có tập định trí rồi mới biết cái trí lao chao là dường nào và mình với nó khác nhau rất xa. Mình làm việc nầy nó muốn việc khác, mình đi đường nầy, nó chạy đường kia.
Đối với những người mới học đạo, chưa tự-chủ được thì chớ nên để cái trí ở không. Phải có một câu chơn-ngôn, hay là một tư-tưởng cao-siêu, để chừng nào không làm cái chi cả thì nhớ tới nó liền. Như vậy tư-tưởng xấu ở ngoài không vô nhìễm cái trí được.
Tôi xin hiến các bạn câu thần chú trong “Bác-nhã-ba-la-mật-đa-tâm-kinh”, chánh gốc bên Thiên-trước, “Gate, gate, paragate, parasamgate, bodhi svâha” Tàu dịch là: Yết-đế, yết-đế, ba-la yết-đế, ba-la-tăng yết-đế, bồ-đề, tát-bà-ha.
Nghĩa nó như vầy: “Nầy, Trí-huệ ! đi đi, đi qua bờ bên kia, được dắt qua bờ bên kia, svâha” (O sagesse, partie, partie, partie vers l’autre rive, conduit vers l’autre rive, svâha) (xin xem quyển Tâm-kinh sơ giải của tôi).
Coi thì không có chi khó mà đọc cho trúng giọng thì sự linh-nghiệm phi thường. Những câu thần-chú bằng tiếng nước nào thì đọc bằng tiếng nước đó, nếu dịch hay là âm sái thì mất sự hay của nó rồi. Tôi không biết làm sao mà Tàu dịch gate là yết-đế e cho mất sự huyền diệu của câu chú đi.
Các bạn hãy thí-nghiệm đi. Mỗi giờ đồng hồ các bạn hãy nhớ đọc câu chú đó một lần, trong ba tháng, các bạn sẽ thấy cái trí của các bạn bớt lao chao hơn trước và các bạn sẽ mến việc hiền lương đạo-đức. Được mười năm như vậy, các bạn mới biết giá trị của câu chú ấy, không biết sao mà lường được.
CÁCH THỨ NHÌ
Đếm trong trí từ một đến bốn chục, rồi trở ngược lại từ bốn chục tới một, nhiều lần như vậy . . .
CÁCH THỨ BA
Bốc vài nắm gạo, đếm coi mỗi nắm có mấy hột.
CÁCH THỨ TƯ
Lật một tờ sách đếm coi có mấy hàng, mỗi hàng mấy chữ, rồi tổng cọng coi số đó được bao nhiêu chữ. Phải đếm vài tờ như vậy.
CÁCH THỨ NĂM
Lấy một ly nước gần đầy, cầm trong tay dơ ngay trước mặt, rồi dòm mực nước, đừng cho xao động.
CÁCH THỨ SÁU
Ra đường chớ nên chú-ý vào việc đương lo-lắng, e không thấy xe cộ mà phải bị tai-nạn.
Phải xem cho kỹ những người và vật mình gặp.
Hiểu được sáu cách định-trí nầy rồi, thì sẽ tự mình tìm một phương-pháp tập-luyện hạp với mình.
ĐIỀU KIỆN CỦA SỰ THÀNH CÔNG
Nhưng cái trí cũng như gió thổi mây bay, làm sao bắt nó trong tay như cầm một món đồ vậy. Song trong mọi việc, sự thành công, sớm hay muộn, hoặc sự thất bại đều do sự biết phương-pháp hay là không biết phương-pháp và trong các phương-pháp, điều cốt yếu là sự cố gắng và bền chí. Dầu biết phương-pháp mà không cố gắng và bền chí cũng không đoạt được mục-đích bao giờ. Vậy ta có thể nói rằng: Muốn làm chủ cái trí thì phải dùng ý-chí và không ngã lòng mới lướt qua các sự trở ngại.
NHỮNG SỰ TRỞ NGẠI
Những sự trở ngại mà người mới tập định-trí gặp luôn luôn là những sự ham muốn chưa được toại và những vấn-đề chưa giải-quyết. Trong khi ngồi tập định-trí thì chúng nó áp tới đòi hỏi đủ thứ. Đó là tại mình dung-dưỡng chúng nó nên chúng nó tới phá mình. Tuy vậy, mà biết được nguyên-nhân thì dễ trừ khử được những kết-quả.
Thế thì nên chọn một giờ hay là một ngày nào đặng giải-quyết mấy vấn-đề đó đi. Phải giải-quyết cách nào cho chúng nó đừng trở lại phá rối mình nữa. Yên rồi mới có thể luyện trí được.
ĐỊNH-TRÍ BAO LÂU
Mới tập định-trí thì không nên quá năm hay mười phút. Lâu nữa thì có thể mệt cho cái óc. Chớ nên định-trí cho tới nghe như tối-tăm hay nặng nề trong óc, ấy là những điểm bất thường báo rằng có hại cho sức khỏe. Nên giữ bực trung tốt hơn.
Vậy thì mỗi ngày định-trí ba lần, giờ nào cũng được.
Tháng đầu mỗi lần định-trí 5 phút
Tháng thứ nhì 8 phút
Tháng thứ ba 12 phút
Tháng thứ tư 16 phút
Tháng thứ năm 20 phút
Tháng thứ sáu 25 phút
Tháng thứ bảy 30 phút
Từ tháng thứ tám trở lên 35 phút
Sau quen rồi thì định-trí cả giờ không sao. Chớ nên tưởng rằng ban đầu tập có 5 phút thì ít lắm. Không. Nếu xét cho kỹ thì sẽ thấy trong 5 phút đó chỉ tồn còn có 2 phút vì mất hết 3 phút xao lãng rồi.
Nếu định-trí trọn 5 phút thì sẽ mệt lắm. Như đưong định-trí mà nhức đầu thì phải ngưng liền, đi chơi hoặc ngâm thi vịnh phú, bữa sau sẽ tập lại. Ví bằng mỗi lần định-trí mà mỗi lần nhức đầu thì không nên tập nữa. Ấy là cái óc yếu hoặc bị bịnh, phải uống thuốc cho thật lành mạnh rồi sẽ khởi sự lại. Phải định-trí cho tới bực người ta nói chuyện bên tai mà không nghe, người ta chạy giởn trước mặt mà không thấy thì mới thành công.
THAM THIỀN
Tập định-trí quen rồi thì tư-tưởng rất mạnh. Nên nhớ rằng tư-tưởng là cây gươm hai lưỡi biết dùng nó thì nó giúp ích cho mình và giúp ích cho đời. Không biết dùng nó thì hại mình và hại người. Vì thế, mở trí không chưa phải đủ, phải mở tâm nữa mới được trở nên người hoàn-toàn. Tâm trí điều hòa rồi thì tấn-hóa mới mau. Người nào trí sáng suốt mà tánh nết xấu xa thì sẽ làm hại cho đời nhiều hơn làm lợi.
Trái lại người tánh tình hiền lương mà trí hóa chưa mở-mang thì chẳng khác nào đi trong đêm tối, không có ngọn đèn dẩn lộ, dầu có mến đạo đi nữa, cũng còn có những thành-kiến và làm những chuyện dị-đoan phi-lý. Trong hai phía, thiếu một không được.
Vì mấy lẽ trên đây, mà trong đạo-đức đều dạy tham-thiền những tánh tốt; mà tham-thiền là chi?
Tham-thiền tức là suy-nghĩ một vấn-đề nào đặng hiểu cho tột lý lẽ cao sâu của nó về đủ các phương-diện.
Có nhiều cách tham-thiền; mỗi người phải tìm cách nào hạp với mình. Bởi vì có cách tham-thiền đem nhiều kết-quả tốt đẹp cho một người nầy mà nếu người khác thật hành theo thì không được như ý-nguyện.
NHỮNG MỤC-ĐÍCH CỦA SỰ THAM-THIỀN
Tham-thiền có nhiều mục-đích mà bảy cái chánh như sau đây:
MỘT LÀ: Ít nữa là mỗi ngày một lần, con người tưởng đến những việc tinh-khiết, cao siêu và tư-tưởng vượt qua những sự giả-tạm, phù-phiếm xa-hoa của cuộc đời mà lên tới cõi thiêng-liêng.
HAI LÀ: Không bao lâu nó tập cho con người có thói quen tưởng đến những việc siêu hình, mỗi khi tâm trí rảnh rang hay là lúc nhàn rổi.
BA LÀ: Nó là phương-pháp tập thể tháo cái vía và cái trí, nhờ vậy, hai thể nầy trở nên mạnh mẽ, thần-lực lưu thông dễ dàng.
BỐN LÀ: Có thể lợi dụng nó đặng mở mang tánh nết, tập những tánh tốt.
NĂM LÀ: Đem tâm con người lên các cảnh cao, nhờ vậy chừng trở về nhập xác, con người sẽ sáng-suốt thêm.
SÁU LÀ: Nhờ nó mà vạn-vật đưọc hưởng ân-huệ ở trên các cảnh cao ban xuống.
BẢY LÀ: Nó là bước đầu tiên dắt dẫn con người tới bực có huệ-nhãn và hiểu được những sự bí-mật của tạo-công.
Tham-thiền cần ích cho cái trícái vía cũng như đồ ăn cần ích cho xác thịt.
Người tham-thiền luôn luôn thì có một sức mạnh phi thường mà ít người hiểu được.
Tôi xin đem hai cách tham-thiền sau đây: tham-thiền sữa đổi tánh tình và tham-thiền về Chơn-Thần làm kiểu mẩu.
THAM-THIỀN ĐẶNG SỬA ĐỔI TÁNH TÌNH
Trước hết phải biết cái chi sanh ra tánh tình? Có phải là những tư-tưởng và những ý muốn lặp đi lặp lại mãi sanh ra tánh tình chăng?
Thường thường người ta chú trọng về sự hành-động mà ít ai suy-xét tới nguyên-nhân làm ra sự hành-động. Không tưởng, không muốn thì không sao hành-động được.
Bởi mình sanh ra tánh tình rồi trở lại làm tôi chúng nó cho nên phải mang những điều phiền-não. Tỷ như ba cái hại: hút thuốc, uống rượu và cờ bạc.
Khi không xác thịt mình đâu có ép buộc mình làm mấy việc đó. Tại mình bắt chước người ta hút thuốc, uống rượu và cờ bạc. Ngày nầy qua ngày nọ, có thói quen rồi, bỏ không được, rồi trở lại than dài, thở vắn.
Biết được cội rễ tánh xấu thì biết trừ nó dễ dàng.
Phương-pháp đó là phương-pháp nào? Ấy là dùng những tư-tưởng tốt nghịch với những tư-tưởng xấu của mình đã có từ bấy lâu.
Tỷ như tư-tưởng bác-ái nghịch với tư-tưởng ích-kỷ; tư-tưởng chơn-thật nghịch với tư-tưởng gian-xảo, tư-tưởng hiền-hậu nghịch với tư-tưởng hung-hăng vân vân.
Mình phải có gan tìm ra những tánh xấu của mình đã có đặng tập những tánh tốt nghịch với chúng nó. Không thành thật tức là mình còn dối mình mãi; mà còn dối mình mãi thì bao giờ trở nên người có đức hạnh được.
TRỪ TÁNH NÓNG NẢY
Thí dụ: muốn trừ tánh nóng nảy ta phải làm thế nào bây giờ? Có người biết mình có tánh nóng nảy nên khi vừa muốn phát cáu thì nói: “Tôi không nóng nảy”. Làm như vậy mệt cho trí-não lắm. Nếu trong trí còn hai chữ nóng nảy thì khó mà dứt tánh nóng nảy một cách mau lẹ. Dầu biết làm như vậy trong năm sáu năm thì tánh nóng nảy sẽ tiêu lần mòn, song người ta phí sức rất nhiều và trong trí nổi một cục u-nần, không còn dùng chỗ đó được nữa.
Phương-pháp hay hơn hết là: mỗi khi vừa nóng giận thì nói trong lòng như vầy: “Luôn luôn tôi vẫn vui-vẻ và ôn-hòa”. Thì tự nhiên nó ngăn tư-tưởng nóng giận được. Nhưng nếu tới lúc nóng giận mới tưởng như vậy, tôi e có khi quên phứt đi, để cho sự nóng giận lôi cuống mình vào đường tội lỗi.
Muốn trừ tuyệt tánh nóng thì phải tham-thiền như sau nầy. Ít nữa mỗi ngày một lần vào buổi sớm mai:
“Hãy tưởng-tượng thấy trước mặt một người dùng lời thô-lổ cộc-cằn mắng-nhiết mình, nhục-mạ mình. Nhưng mình không có một mảy gì trách móc mà trái lại còn thương xót va vì va kém bề đức-dục nên gây ra những điều phiền-não về sau. Va không biết nhân nào sanh ra quả nấy. Đối với mình, mình sẵn lòng tha-thứ, còn gặp kẻ khác không chịu thua thì sẽ sanh ra ấu-đả, có khi lôi nhau ra tới tụng-đình, làm rầu cho vợ con thân-quyến. Xét như vậy thì mình chỉ có tội nghiệp cho va. Lúc nầy va như người mất trí, không tự-chủ được, mình chờ trong một vài giờ sau hoặc vài ngày sau va tỉnh lại, mình sẽ phân trần lẽ phải quấy cho va nghe và khuyên va trong mọi việc nên bình tỉnh xem xét việc lợi hại và nên lưu chút nhơn tình thì sau khỏi ăn-năn hối-hận”.
Bà Annie Besant khi xưa nóng nảy dữ lắm, mà bà tham-thiền, cách tôi nói trên đây, sau bà thành một người hết sức nhẫn-nại.
Ai thật hành được một tháng thì sẽ thấy tánh nóng giận giảm bớt lần. Quả thật, lúc mới tập, bị người ta chọc-phá thì còn nổi nóng, nhưng trong giây lát thì ăn-năn sao không tự-chủ. Rồi tập mãi từ bảy tám tháng sắp lên thì sẽ vui lòng mà thấy công-phu không mất vậy.
Có người dặn, khi vừa mới nổi nóng thì nên đi uống một tách nước hay là đi kiếm một chuyện khác làm thì hết giận. Đó là cách xoay tư-tưởng qua việc khác, làm cho cái trí quên việc mới xẩy ra. Nhưng nó có hiệu-quả tạm thời, không trừ tuyệt được cái gốc của sự nóng giận.
Xét lại một lời nói qua như gió thoảng bên tai, dầu có nặng nề xóc óc tới đâu, không hại gì đến thân-thể mình được, nếu mình không đếm xỉa tới nó. Mình hãy bình tỉnh xét coi người ta mắng mình vì vô-tình hay cố ý. Có khi người ta gặp chuyện bất bình trái ý đã nổi nóng, rồi gặp mình thì mắng-xối mình cho đã nư giận. Người ta nói nặng nề với mình mà mình dùng lời nhẹ-nhàng đáp lại thì mình sẽ làm cho người ta cảm-động hơn là mắng vải lại. Xin xem hai chuyện dưới đây:
GƯƠNG KIÊN-NHẪN CỦA ÔNG ĐỐC-TƠ TROUSSEAU
Một người kia tới xin ông Docteur Trousseau khám bịnh. Sau khi bắt mạch và xem xét kỹ-lưỡng rồi, Ngài mới nói: “Bịnh ông nặng lắm ông phải chịu đau-đớn mổ đi mới mạnh”. Bịnh nhơn thất-vọng bèn than: “Tôi nghe nói mổ, cũng đã lạnh mình rồi, huống chi sự mổ, chịu sao nổi!”. Ông Đốc-tơ mới nói: “Ngài chớ nên thốt ra như thế, lời nói đó không đáng cho con người nói chút nào”. Bịnh nhơn nổi giận nói lớn rằng: “Rất dễ mà biểu người ta có gan chịu đau-đớn, trong khi phần riêng mình không có chi động đến da”. Ngài bèn trả lời một cách dịu-dàng: “Ông lầm rồi đó, ông tưởng tôi không chịu sự đau-đớn nào hay sao? Đã lâu rồi, tôi mắc chứng bịnh ung-thư. Tôi thấy nó càng ngày càng thêm. Chứng bịnh nầy đã tới thời kỳ chót rồi và tôi có thể biết trước được ngày nào tôi bỏ mình. Trong ba tháng nữa, ông sẽ mạnh, còn tôi đây, tôi sẽ từ trần”. Bịnh nhơn nghe ông nói trong lòng rất hổ thẹn”. Quả thật vậy, vài tháng sau ông Trousseau mãn phần, tới ngày cuối-cùng ông vẫn lưu tâm săn sóc bịnh nhơn, không hề nản chí.
CHUYỆN ÔNG LƯU-KHOAN
Bữa kia ông Lưu-Khoan áo mão chỉnh tề, sắp đi chầu. Con thị-tỳ bưng cháo nóng lên, rủi lở tay làm đổ cháo, lấm áo ông. Nó sợ hãi lấy tay vuốt áo, ông Lưu-Khoan không đổi sắc mặt mà lại từ từ hỏi: “Cháo nóng có phỏng tay con không?”
Mỗi ngày nên kiếm gương kiên-nhẫn như hai chuyện trên đây mà đọc. Phải trì chí và đem những tư-tưởng yêu thương ôn-hòa thay thế cho tư-tưởng nóng giận mãi thì lo chi không trừ được tánh nóng nảy.
MỞ LÒNG TỪ-ÁI VÀ THẤU TỚI CHƠN-THẦN
Trong những cách tham-thiền, duy có cách sau nầy dễ mà cái hiệu-quả tốt đẹp không thể nào tưởng-tượng được. Phải suy nghĩ như vầy:
1. Xác-thân không phải là tôi, nó là một thể để cho tôi dùng. Nó vẫn tráng-kiện, nhặm-lẹ, có tiết-độ, siêng-năng, giỏi-dắng, tinh-tấn.
2. Cái vía không phải là của tôi. Nó để giúp tôi tiếp-xúc những sự cảm-giác. Nó vẫn thanh-bai, tốt đẹp và hoà thuận với mọi người.
3. Tới phiên cái trí. Cái trí cũng không phải là tôi. Nó để suy-gẫm phân biện, xét-đoán, tưởng-tượng. Nó minh-mẫn, trong sạch. Từ đây nó nhập vô Thượng-trí và do Thượng-trí điều khiển theo ý muốn của tôi. Tôi là Chơn-Thần đức Thượng-Đế, tôi làm chủ ba thể: thân, vía, trí; luôn luôn chúng nó vâng lời tôi sai khiến. Nói trong lòng như vậy rồi tưởng-tượng thấy Chơn-Thần ở tại trái tim, hình tam giác, chói sáng hơn mặt trời và hào quang túa ra chung quanh mình và bao trùm quả địa cầu nầy. Trong mỗi làn hào-quang đều có thần-lực và đức từ-bi bác-ái của Chơn-Thần, ban rải cho muôn loài vạn vật.
Xin các bạn hãy chú ý tới điều nầy:
Phải tưởng-tượng thấy Chơn-Thần (coi theo hình nầy)
và thấy hào-quang bao trùm trái đất. Trước và sau khi tham-thiền rồi cũng nên để cái trí trống không một hai phút đồng hồ, đừng cho nó tưởng cái chi cả. Tập theo phưong-pháp nầy trong ba tháng thì thấy cái trí lần lần trở nên yên lặng, cái tâm lần lần trở nên sáng suốt. thật hành được bảy năm sắp lên, tới một ngày kia, trong lúc cái trí yên lặng bổng nghe một tiếng vang lừng, phá tan cảnh tịch-mịch. Tiếng đó là tiếng của Chơn-Nhơn, của tâm hồn, trong đạo-đức gọi là “La voix du Silence”. Chừng đó con người sẽ được minh-tâm kiến tánh. Ai có kinh-nghiệm rồi thì biết chớ không có cây viết nào tả ra được.
TẬP NHỮNG TÁNH TỐT
Muốn trao dồi tâm tánh đặng trở nên người đức hạnh hoàn toàn, thì mỗi tháng tập một tánh tốt:
THÍ DỤ:
Tháng thứ nhứt . . . . . . . .Từ-bi bác-ái
Tháng thứ hai . . . . . . . . . Chơn thật
Tháng thứ ba . . . . . . . . . .Thanh bạch
Tháng thứ tư . . . . . . . . . . Bố thí
Tháng thứ năm . . . . . . . . Hy sanh
Tháng thứ sáu . . . . . . . . . Khoan dung
Tháng thứ bảy . . . . . . . . Can đảm
Tháng thứ tám . . . . . . . . Nhẫn nại
Tháng thứ chín . . . . . . . .Khiêm tốn
Tháng thứ mười . . . . . . .Vui vẻ
Tháng thứ mười một . . . Sốt sắng
Tháng thứ mười hai . . . .Cẩn thận
Trong lúc tham-thiền mình phải tự hỏi: “Tại làm sao phải có lòng từ-bi bác-ái? Rồi suy nghĩ coi phải trả lời làm sao cho đúng với chơn-lý. Trước hết, mình phải biết hết thảy linh hồn đều là anh em cùng nhau, xuống trần học hỏi. Vì vậy phải giúp-đỡ nhau, nương-nhờ nhau. Những của-cải, chức-tước, nhà- cửa, ruộng-nương, cho đến xác thân ta cũng không phải là những điều vĩnh-viễn trường-tồn. Trời cho ta mấy vật đó đặng dùng giúp đời trong một kiếp mà thôi.
Khi trước ta không biết ta xuống cõi trần làm chi thì ta có tánh ích-kỷ, ngày nay ta đã rõ mục-đích cuộc đời thì thái độ của ta đối với mọi người không giống như mấy năm đã qua. Người kia dầu không phải là một nòi, một giống với ta, song ta với người đồng là con đức Thượng-Đế thì vẫn là anh em với nhau. Ta với người đều có tình liên lạc với nhau, cũng như các tế-bào trong mình.
Người đau khổ thì ta đau khổ, người vui mừng thì ta vui mừng. Ta phải thương xót những người đã phạm tội lỗi, vì họ là những linh hồn còn thơ, cần phải học học-hỏi, kinh-nghiệm nhiều lần mới trở nên khôn-ngoan. Thường thường người ta thấy sự đau khổ trước mắt mới động mối từ-tâm, mà cũng có người ích-kỷ cho đến đổi, họ không thèm đoái-hoài đến những kẻ bịnh-hoạn, đói-rách đi xin ăn trước nhà. Cực chẳng đã, họ phải cho một hai đồng xu, rồi đuổi cho mau đặng khuất mắt. Họ viện lẽ rằng tại mấy người ấy kiếp trước làm ác lắm nên kiếp nầy bị trời phạt. Nếu mình bố-thí cho họ tức là làm nghịch với trời. Nhưng nếu họ suy-nghỉ kỹ-lưỡng một chút thì họ sẽ thấy: “Trời phạt là một việc, còn làm phước là một việc khác. Cái gương của mấy kẻ khốn-khổ bần-cùng sẽ làm cho họ tỉnh-ngộ không dám làm những việc bất nhơn, thất đức nữa. Nếu họ cầm lòng không cứu giúp mấy người nầy thì kiếp khác họ bị hoạn-nạn chắc không ai đoái hoài tới họ đâu. Nhưng mà ta giúp đời là vì ta thương đời, vì bổn phận phải làm, chớ không phải trông đặng hưởng phúc về sau. Nhân loại còn chìm đắm nơi bến mê sóng khổ là tại chưa rõ cội rễ mình. Nếu mỗi người đều tự biết mình là Chơn-Thần con của đức Thượng-Đế và phải làm những đìều gì trên cõi trần nầy đâu còn thấy sự phân chia sắc da nòi giống, đảng phái, giai cấp và nam nữ; nạn chiến tranh giặc giã và bốc lột lẫn nhau dứt tuyệt, thế gian sẽ thành cõi Thiên-đường thứ nhì.
Bài nầy để làm kiểu mẫu, nó chỉ chứa vài tư-tưởng chơn-chánh, còn nhiều điều khác nữa. Mỗi người cần phải suy-nghĩ tìm thêm những lý-lẽ cao-siêu đặng mở trí.
PHẢI THỰC HÀNH VÀ KHÔNG NÊN GIÁN ĐOẠN
Muốn thấy kết-quả tốt đẹp không nên gián đoạn. Phải tham-thiền luôn luôn đừng bỏ bữa nào, trừ ra lúc đau ốm bịnh hoạn. Nếu bữa nay tham-thiền rồi mai mốt nghĩ, bữa kia mới tham-thiền lại thì cái trí cũng lao-chao như trước. Không chịu ra công khó nhọc thì không khi nào làm chủ cái trí được.
Nhưng mà tham-thiền không chưa phải là đủ, phải thật hành. Hễ tham-thiền đức tánh nào thì phải thật hành đức tánh ấy. Tỷ như tham-thiền tánh chơn-thật thì trọn tháng đó, mỗi ngày, mỗi giờ, từ tư-tưởng, lời nói, ý muốn cho tới việc làm phải chơn-thật luôn luôn, không nên để một mảy xảo trá làm bợn nhơ tấm lòng trong sạch của mình. Dầu cho sự gian-dối đó đem lợi cho mình muôn vàng cũng vậy. Những vị bàn-môn muốn hại ai thì dùng ảo-tưởng, mà những phép ảo-tưởng tới trước mặt người chơn-thật thì nó hiện nguyên hình, không làm chi được. Trời đất chơn-thật, nếu mình không chơn-thật thì không bao giờ thấy chơn-lý. Dầu có đeo-đuổi theo đường đạo cũng không được Tiên-Thánh thâu làm đệ-tử, chỉ có gần với mấy vị tả-đạo Bàn-môn mà thôi . Người mà còn dối mình thì trông gì thắng phục ai được bây giờ.
MỖI NGÀY THAM-THIỀN MẤY LẦN
Nếu có giờ rảnh thì mỗi ngày tham-thiền ba lần: Sớm mai sau khi thức dậy, rửa mặt và súc miệng xong, lối năm giờ rưởi sáu giờ, trưa 12 giờ (đúng ngọ), tối 7 giờ, trể lắm là 9 giờ.
Có một điều nên nhớ, là phải để bụng trống mà tham-thiền, nếu ăn no mà tham-thiền thì phát-ách, vì trong lúc tập-trung tư-tưởng, sanh-lực lên óc nhiều lắm, không còn đủ sức đặng làm tiêu hóa đồ ăn. Không có giờ rảnh tham-thiền một, hai lần cũng được.
Từ 10 giờ tối đến 2 giờ khuya không nên tham-thiền, vì trong khoảng đó mặt trăng làm chủ và sanh-lực kém đi nhiều lắm. Tham-thiền thì nó hại cho trí-não cớ không ích gì.
Tôi thường nghe người ta nói: dùng bốn giờ: Tý, Ngọ, Mẹo, Dậu, đặng luyện đạo. Tôi không hiểu vì lẽ nào dùng giờ tý. Bên chánh đạo không khi nào dùng giờ ấy bao giờ, vì lúc ấy mấy vị Bàn-môn hoành hành. Luyện đạo giờ tý e bị mấy anh bàn-môn khuấy rối, e cho điên khùng có bữa.
CÁCH NGỒI THAM-THIỀN
Ngồi kiết-dà được thì tốt, không được cũng không sao. Cứ ngồi xếp bằng trên ngựa, hay trên ván, dưới đất hay là nằm trên ghế xích-đu cũng được. Điều cần-ích là ngồi thẳng lưng và cái trí đừng xao lãng.
Trong lúc tham-thiền nên nhắm con mắt lại. Và lúc ban đầu, lấy gòn bịt lổ tai, đặng đừng nghe tiếng chi cả. Hể nghe thì cái trí bắt chủ ý tới cái đó, hóa ra xao lãng.
Trong khi tham-thiền mà nghe xương sống nóng rần thì nên dứt ngang và đi tắm, ấy là dấu chứng luồng hoả khởi sự đi.
Nếu trong lòng chưa trong sạch mà còn mong việc nguyệt hoa thì đi tới đâu luồng hoả đốt tới đó, xác-thịt phải chịu đau-đớn vô cùng cho tới chết và còn e hại luôn tới mấy kiếp sau nữa.
PHÒNG RIÊNG ĐỂ THAM-THIỀN
Nếu có một phòng riêng để tham-thiền thì tốt lắm. Chỗ đó phải thật trang nghiêm, nên thường đốt trầm tóc hay là nhang thơm. Trên vách chỉ treo những tranh ảnh đạo-đức. Không nên để cho người thường, chưa biết đạo-đức, vào đó e cho họ gieo những tư-tưởng chẳng tốt khuấy rối mình. Không phải là ích-kỷ song theo khoa pháp-môn phải làm như vậy mới đúng phép. Phòng tham-thiền là chỗ thâu lãnh ân-huệ các đấng Thiêng-liêng ban xuống cho muôn loài ở chung quanh. Cho nên vừa bước tới cửa phòng thì phải gác bỏ hết thảy những tư-tưởng trần tục, thấp hèn. Tâm trí phải thanh tịnh, tham-thiền mới thấy kết-quả đẹp.
Ví như không có phòng riêng, lựa chỗ nào sạch-sẽ ngồi tham-thiền cũng được không nên cố chấp. Phải tùy duyên, tùy cảnh. Tham-thiền quen rồi, từ mười năm sắp lên, giờ phút nào cũng tham-thiền được cả.
VÀI ĐIỀU CẦN YẾU NÊN BIẾT TRONG LÚC THAM-THIỀN
Trong lúc tham-thiền đại-định, hơi thở ban đầu nhẹ-nhàng sau thì dường như tuyệt hẳn. Nhưng đừng sợ, không hề chi cả, một chập thì thở lại.
Có khi thân mình muốn bay bổng lên. Bên Thiên-Trước, có nhiều vị đạo-sĩ Dô-ghi (Yôgui) trong lúc ngồi tham-thiền thì bay lên cao, một hồi thì hạ xuống. Có khi hồn lên tới cõi Thượng-Giới, chừng trở về nhập xác, giựt mình té ngửa ra, hay là ngã chúi tới trước. Muốn đề phòng, không nên ngồi trên ghế, tốt hơn là dựa vách và để cái gối trước mặt.
Sau khi dứt tham-thiền, thì phải lấy tay vỗ trán và chà vài cái rồi xoay mình từ bên mặt qua bên trái, và từ bên trái qua bên mặt, vài lần như vậy, đặng khỏi bị chán váng.
HUỜN HƯ
Suy nghĩ mãi thì cái óc rất mệt. Phải tập làm sao cho lúc có việc phải suy nghĩ thì tư-tưởng, còn khi hết công việc thì đừng tưởng cái chi cả, để cái óc nghỉ ngơi, bên chánh-đạo gọi là Huờn-hư.
Chất khí làm cái trí rung động luôn luôn không ngừng, không nghỉ; bắt buộc nó đừng tưởng cái chi cả thì là một việc rất khó. Nhưng bền chí và biết phương pháp thì đoạt được mục đích chẳng sai.
Muốn tập thì nằm bỏ hai tay xuôi theo mình, trong lòng đừng tưởng cái chi cả. Hễ tư-tưởng nào vô trí thì xua đuổi nó ra lập tức. Một tuần lễ đầu mỗi ngày tập Huờn-hư hai ba lần, mỗi lần hai phút thôi, vì lo giữ cái trí cũng mất sức rồi. Song về sau quen rồi, cái trí yên-lặng thì mới thấy khoẻ khoắn. Thức một đêm mà Huờn-hư trong 15 phút thì đủ thâu sức lực đã mất.
CHƯƠNG THỨ NĂM
MỞ NĂNG-LỰC KÝ-ỨC (mở trí nhớ)
Có người hay quên, vậy làm sao mà có trí nhớ? Điều đó không khó mà khó.
Không khó là vì có phương-pháp mở trí nhớ, còn khó là không biết người ta hay quên về việc nào, không phải là mỗi việc đều mỗi quên, mà chính là có việc mình nhớ hoài mà có việc mình lại quên phứt đi. Tuy vậy tôi xin nói chung phương-pháp mở trí nhớ cho các bạn nghe. Mỗi tiếng, mỗi lời, mỗi việc, mỗi tình-cảm và mỗi tư-tưởng đều ghi dấu vết trong ba hột lưu-tánh nguyên-tử của xác, vía, trí bằng một làn rung động.
Các bạn hãy xem cái mặt dĩa hát thì rõ. Nếu để cây kim vô dĩa cho chạy thì nó hát ra những tiếng nó thâu. Cái trí, cái vía cũng vậy, nếu có cái chi đến khêu gợi những làn rung động đó thì nó lập lại những tiếng, những lời của nó đã nghe, những việc của con người đã làm.
Thường thường những điều nào làm cho người ta vui, thích thì người ta chủ-ý đến, muốn tìm nó, gần nó mãi; còn điều nào làm cho người ta khổ-não buồn-bực thì người ta tránh xa nó.
Vì vậy cho nên người ta tưởng-tượng và nhắc-nhở những điều đẹp-ý. Còn cái nào không vừa lòng thì người ta bỏ dẹp một bên. Vậy thì ta có thể nói sự nhớ hay quên do nơi chủ-ý hay là không chủ-ý. Nếu chủ-ý nhiều và thường thường thì nhớ dai, chủ-ý ít thì mau quên.
PHƯƠNG-PHÁP MỞ TRÍ
Muốn mở trí thì nên coi theo hai phương-pháp sau nầy làm kiểu-mẫu:
1. PHƯƠNG-PHÁP THỨ NHỨT
Mỗi ngày phải xem kỹ-lưỡng một vật nào đó, hoặc cuốn sách, bình mực, rồi ghi nhớ trong trí hình dạng nó và đủ hết các mảy-mún.
Xong rồi nhắm mắt lại, tưởng-tượng thấy rõ ràng vật đó trước mặt. Rồi mở mắt ra, xem vật đó lại.
So sánh nó với sự nhớ của mình, mình sẽ thấy chỗ khuyết-điểm của mình đặng bồi-bổ thêm cho tới chừng nào thành công.
Nếu mỗi ngày chịu khó tập mười phút mà thôi, trong vài tháng sẽ thấy “Trí nhớ” rất mở mang, ít quên hơn khi trước nữa. Sự quan sát, sự chủ-ý, sự tưởng-tượng cuả mình nhờ như vậy mà mở nhiều thêm. Phương-pháp nầy gọi là Họa-hình trong trí “Photographie mentale”. Hễ tập thấy quen thì tập nghe cũng mau vậy.
Tôi cũng thấy có nhiều cuốn sách dạy mở trí nhớ khác hơn cách nầy. Tự-ý, nếu ai hạp cách nào thì làm theo cách nấy. Dưới trần không có chi gọi là tuyệt-đối được.
2. PHƯƠNG-PHÁP THỨ NHÌ
Mỗi bữa tối trước khi đi ngũ mình phải nhớ ngược lại những điều mình đã nghe, đã thấy và đã làm trọn ngày. Thí dụ, 10 giờ đi ngũ, thì lối 9 giờ 45 mình nhớ lại coi hồi 9 giờ 40 mình làm cái chi, nghe cái chi, thấy cái chi rồi 9 giờ 35, 9 giờ rưởi, vân vân . . ., trở ngược lại tới lúc sáng mình mới thức dậy. Nếu có làm việc quấy thì răn mình, đừng có tái phạm, còn làm được điều lành thì cố gắng thêm nữa.
Nhưng xin nhắc lại, phải bền chí, nếu không kiên-nhẫn thì không thành-công.
Ban đầu có khó một chút thì chia ra hai lần: Sớm mai từ 12 giờ nhớ trở lại hồi mới thức, tối trước khi đi ngũ nhớ trở lại hồi 12 giờ.
SỰ ÍCH-LỢI CỦA LỜI CẦU-NGUYỆN
Người ta hỏi tôi “thấy mấy bà mấy cô thường hay cầu-nguyện, điều đó có tốt hay không?”
Phải biết mục-đích của sự cầu-nguyện mới định được sự tốt đẹp là bao nhiêu.
Nếu cầu-nguyện việc riêng của mình thì hình tư-tưởng sanh tại cõi Thượng-Giới rồi trở xuống cõi Trung-Giới. Trái lại thương đời mà cầu-nguyện cho thiên-hạ được thái-bình, biết thương yêu nhau, giúp đỡ nhau như anh em một nhà, không phân chia sắc da và nòi giống, nắm tay nhau bước lên đài-giác thì hình tư-tưởng vượt qua cõi Thượng-Giới, lên tới cõi Bồ-Đề. Một tư-tưởng như thế sức mạnh vô-ngần, ấy là một cái ân-huệ ban xuống cho đời. Nếu cả muôn cả triệu người đồng cầu-nguyện thì lo chi thiên-hạ không đặng thái-bình trong vài chục năm đây.
- Có người cho làm như vậy là dị-đoan! Ấy là tại mấy vị ấy chưa rõ sức mạnh của tư-tưởng.
- Con người tưởng trước rồi mới làm sau?
Như khi không mà vụt làm liền một việc nào là tại có tưởng một việc đó hoặc mấy bữa trước, mấy tháng trước, mấy năm trước hay là mấy đời trước, nay có dịp là hành-động liền.
Người không tin thường hỏi:
“Có lẽ nào tới mấy đời trước?”
Muốn giải rành phải nói tới ba hột “Lưu-tánh nguyên-tử”.
BA HỘT LƯU-TÁNH NGUYÊN-TỬ
Ngày sau, khi con người thác rồi, đúng ngày giờ, ba thể: xác, vía, trí đều tan ra nguyên-tử. Song mỗi thể đều để lại một nguyên-tử không hề hư-hoại gọi là “Lưu-tánh nguyên-tử” (Atome permanent). Hột lưu-tánh nguyên-tử của xác thịt, ghi tánh nết và sự cảm-xúc của xác thịt, hột lưu-tánh nguyên-tử của cái vía ghi tánh nết và sự cảm-xúc của cái vía, hột lưu-tánh nguyên-tử của cái trí (lẽ thì nói tế-bào của cái trí (unite mentale) mới trúng), ghi tánh nết và sự cảm-xúc của cái trí. Ba hột lưu-tánh nguyên-tử xỏ xâu vô một sợi dây tên Sutratma làm bằng chất khí cõi Bồ-đề rồi rút vô Thượng-trí ở đó đợi kỳ linh-hồn đi đầu thai.
Chúng nó ghi tánh nết và sự cảm-xúc bằng cách nào?
Như tôi đã nói khi nãy, chúng nó ghi bằng những làn rung động in như dĩa máy hát.
Bây giờ có thể nào sửa đổi mấy làn rung động nầy không?
Có thể được. Nếu sửa đổi cách tư-tưởng ý-muốn và sự hành-động thì mấy làn nầy sẽ ghi vô ba hột đó, còn mấy làn cũ tiêu mất, một tư-tưởng bông-lông cũng có ghi trong hột lưu-tánh nguyên-tử của cái trí nữa, nói chi những tư-tưởng quả-quyết nhứt-định. Có một điều các bạn dễ thí-nghiệm là “đứng trước một việc mà các bạn đã từng suy-nghĩ; các bạn có thể giải-quyết liền được. Còn gặp chuyện mà các bạn chưa để ý tới lần nào thì các bạn phải ngẩn-ngơ chưa biết định lẽ nào. Cũng như đứng giữa một con đường lạ không biết phải đi qua ngả nào mà đừng lạc”.
Vì vậy cho nên khi đã tưởng tới một điều nào, dầu cho cái óc không nhớ đi nữa, cũng phải dè-dặt luôn luôn, vì biết đâu một ngày kia nó hiện ra thình-lình cũng như một cục than đỏ vùi dưới tro, gặp gió và đồ bổi thì bắt cháy lan ra vậy.
LÀM MỘT THỂ RIÊNG HOẠT-ĐỘNG TRÊN CÕI THƯỢNG-GIỚI
Phận-sự chót của cái trí là để làm một thể riêng hoạt-động trên cõi thượng-Giới như xác thịt ở cõi trần. Chớ nên lầm dùng cái trí vô ra cõi Hạ-thiên (Ciel inférieur) với cách dùng trí hằng ngày. Người ta mỗi lần tư-tưởng, đều dùng cái trí, nhưng mà cách đó hãy còn xa với cách dùng cái trí làm một thể độc-lập để cho chơn-nhơn tự-do hành-động.
Các nhà khoa-học, các nhà bác-sĩ mở rộng cái trí song chỉ để cho phàm-nhơn dùng trong đời sống của xác thịt chớ cũng chưa có thể dùng nó đặng trực-tiếp thông thương với mấy cõi trên.
Ngoài ra những bực đệ-tử tiên đã được đứng tên vào bộ Thiên-Tào, như những vị Tu-đà-huờn, Tư-đà –hàm, A-na-hàm và La-hán, thì ở cõi trần không còn mấy người biết dùng cái trí như một thể riêng.
Khi cái trí mở trọn vẹn thì nó có thể làm xong những việc mà trước kia chỉ dùng cái vía nên không làm nổi.
Sự cảm-giác ở cõi Trung-Giới khác hẳn với sự cảm-giác ở cõi Phàm thế nào thì sự cảm-giác ở cõi Thượng-Giới cũng khác hẳn với sự cảm-giác ở cõi Trung-Giới thế ấy.
Trên cõi Hạ-thiên, ta không thể gọi giác-quan riêng như ngũ-quan dưới trần là: nghe, thấy, nếm, ngửi, rờ-rẫm vậy, nhưng chỉ có một “Quan-Chung”thành thử khi cảm-giác một vật nào đó thì Thấy, Nghe, Biết và Hiểu tất cả những việc gì có quan-hệ tới vật ấy, bao nhiêu sự cảm-giác đều xảy ra một lượt.
Cách hành-động trực-tiếp của cái Giác-quan chung không thể bị sự nghi-ngờ, phập phồng hay chậm trễ, khuấy rối. Nếu mình tưởng đến chỗ nào thì mình có mặt tại chỗ đó liền. Bằng tưởng đến người bạn
thì người nầy hiện ra trước mặt. Không còn hiểu sai, không còn lầm lạc nữa. Những hình dạng bề ngoài không còn gạt-gẩm được vì tư-tưởng và tình-cảm của mỗi người đều bày lộ ra trước mặt rõ-ràng như một trương sách giở ra vậy. Nếy hai người dùng được “Giác-quan chung” đó rồi thì sự giao-thông tin-tức của họ rất dễ-dàng, mau lẹ, trọn vẹn và đầy đủ. Ở cõi Trần khó tưởng-tượng điều đó được. Hai người ấy không còn bị cái gì phân cách nhau. Tình-ý của họ không còn dấu-diếm với nhau hay là muốn tỏ bày mà không cạn ý như khi dùng ngôn-ngữ. Vấn, Đáp cũng vô ích, vì hình tư-tưởng hiện ra thì đọc được liền.
THIÊN-NHÃN
Ở cõi trần, trong số một ngàn người mở được thần-nhãn, chưa có một người thấy được cõi Hạ-thiên. Mở được Thiên-nhãn chẳng những biết được một cõi mới lạ, sáng-suốt, mà lại thấy rõ hết cái dĩ-vãng của Võ-trụ nữa vì tất-cả bao nhiêu việc đã qua đều có ghi trên cõi Thượng-Giới (clichés akasiques, mental divin).
TÓM LẠI
Con người là chơn-thần của đức Thượng-Đế, con người sanh ra ở cõi Trần đặng học-hỏi hầu sau sanh-hóa một bầu trời đất khác như đức Thượng-Đế vậy. Con người ở trong thời-kỳ tấn-hóa chớ chưa phải trọn lành. Chung quanh mình còn nhiều cõi khác cho nên trời sanh mình có nhiều thể. Chúng nó cũng như tôi tớ của mình dùng, để cho mình sai khiến, dạy dổ. Chúng nó giúp mình mà mình cũng giúp chúng nó vậy. Hiện giờ có ba thể liên-can mật-thiết với mình là: Xác, Vía, và Hạ-Trí. Ta phải chăm-nom chúng nó vì nhờ chúng nó mà ta tấn-hóa rất mau.
XÁC THỊT
Xác thịt ta phải lo từng món ăn, món uống, tập quen sương-nắng, gió mưa, sức-lực mạnh-mẽ. Trong việc nào cũng có độ-lượng, không thái-quá cũng không bất-cập.
CÁI VÍA
Cái vía tức là cái cầu để cho trí và xác thông đồng với nhau. Ta nên nhớ rằng: mỗi thể đều bị cái thể kế ở trên chỉ-huy giám-đốc. Như xác thịt không thể tự-trị được tình-dục và sự ham-muốn của cái vía sai khiến nó.
Tới phiên cái vía, nó phải chịu dưới quyền của cái trí. Nhờ tư-tưởng ta có thể sửa đổi sự ham-muốn và biến-hóa nó thành chí-khí là trạng-thái tối-cao của sự ham-muốn. Mỗi tư-tưởng do trí xuống óc xác thịt đều phải đi ngang qua vía. Cho nên tư-tưởng ứng-động đến vía mạnh hơn là đến xác. Tư-tưởng an-tịnh rồi thì có thể tránh được sự giận-hờn và các tình-cảm xấu-xa khác.
CÁI TRÍ
Cái trí mà thành-lập và tấn-hóa, nhờ sức ngoài chỉ còn một phần rất ít, hầu hết mọi việc đều do con người mà thôi.
Như vậy, ai muốn cho trí được mạnh-mẽ, đầy đủ sanh-lực, hoạt-động nhậm-lẹ, đủ sức, lãnh-hội các thứ tư-tưởng cao-siêu thì phải tự-mình luyện-tập tư-tưởng.
Mỗi người cảm đến trí mình luôn luôn, còn những người khác như diễn-giả, tác-giả những quyển sách chỉ đôi khi mới cảm đến. Chính là ta nhứt-định cách rung động cho trí ta. Những tư-tưởng khác không hạp với cách rung-động nầy khi vừa muốn sáp-nhập vô trí thì đã bị tống ra ngoài. Nếu tư-tưởng đến sự ngay-thật thì trong trí ta không có chỗ nào hạp với sự dối-trá; nếu ta tưởng đến từ-bi bác-ái thì sự thù-hận không làm rối trí ta; nếu ta tưởng đến sự sáng-suốt khôn-ngoan thì cái vô-minh không mờ-ám trí ta được.
Chớ nên để cái trí ở không (1) [(1): Một cách thụ-động. Còn Huờn-hư là định trí] bất-kỳ tư-tưởng gì ở ngoài cũng có thể nhập vô đặng. Cũng chớ khá để cho nó tự-do rung-động vì nó sẽ rung-động bất-kỳ thứ tư-tưởng nào.
Cái trí để cho ta dùng, ta là chơn-nhơn, ta phải chọn lựa tư-tưởng lấy.
Phần đông không biết tư-tưởng, cho đến những người khá-khá cũng ít khi tưởng nhứt-định rõ-ràng, trừ ra lúc nào có việc cần phải chủ-ý hết sức. Cho nên nhiều cái trí đều trống không, nếu xét kỹ một dọc tư-tưởng vô trí họ toàn là của lượm rơi rớt ngoài đường, ấy là của thiên-hạ rải ra đó.
Người nào chịu khó-nhọc tập tư-tưởng nhứt-định rõ-ràng, mạnh-mẽ, sẽ thấy rằng cái óc khi được nghe tiếng của chơn-nhơn thì không còn rối-loạn nữa. Khi rãnh việc thì an-tỉnh luôn luôn không rước tư-tưởng ở ngoài như trước. Nhờ vậy cái óc có thể tiếp-xúc với các thứ ảnh-hưởng ở mấy cõi trên, tại đó sự thấy biết được sâu xa hơn, và sự phán-đoán được chắc-chắn hơn ở cõi trần.
Mục-đích luyện trí là thế. Người nào bền chí làm theo, nhiên-hậu sẽ thấy nhờ tư-tưởng, cái kiếp sống của mình được cao-thượng hơn, vui-vẻ hơn và nhờ sự minh-triết mà sự đau-khổ sẽ diệt.
Bực hiền năng hằng giữ chừng tư-tưởng của mình rất kỹ, vì biết trong tay sẵn cầm một món lợi-khí thật mạnh thì cái trách-nhiệm là phải làm sao cho khỏi làm hại cho mình và làm hại cho đời. Phận-sự của mỗi người phải cai-trị tư-tưởng mình hầu tránh thói vẫn-vơ, rải những điều ác cho nhân-loại; cũng là cái bổn-phận của mỗi người phải mở sức tư-tưởng để làm lành.
Đọc sách không mở trí được. nhờ tư-tưởng mới mở trí. Đọc sách có ích là thâu những tài-liệu để tư-tưởng,còn sự mở trí là tùy sức tư-tưởng dùng trong khi đọc. Cứ tập luyện thường thường và kiên-cố, nhưng không nên quá sức, thì tư-tưởng sẽ mở. Không tập luyện tư-tưởng thì cái trí còn lộn-xộn không phân ngăn-lớp thứ-tự. Không biết tập-trung tư-tưởng, (định trí lại một chỗ) thì tư-tưởng chưa dùng vào
việc hữu-ích được. Khi tập tư-tưởng, cái trí rung động, rút chất khí ở ngoài vô làm cho nó nở-nang thêm.
Do số tư-tưởng nhiều hay ít thì cái trí nở lớn nhiều hay nở lớn ít. Còn như chất khí ở ngoài rút vô, thanh hay trược, tùy theo bản tánh của tư-tưởng.
Một cái nguyên-nhân trọng-yếu về tượng hình không rõ là thiếu sự chủ-ý.
Mắt thánh dòm vô trí của kẻ đọc sách thì thường thấy một lượt có cả chục vấn-đề. Trong óc nào là lo nghĩ về gia-thế, nào là suy tính về công ăn, việc làm, nào nhớ tới sự vui buồn đã qua, nào ước-ao lập lại cái thú vui cũ, vân vân . . . Tất cả những việc ấy choán hết chín phần mười trong trí, còn một phần mười thì rán hiểu lời sách. Kết-quả của sự đọc sách như thế thì có bổ-ích bao nhiêu đâu.
Mấy lời sau nầy chắc sẽ hữu-ích cho những ai thường muốn tranh-biện, tranh-luận. Mỗi khi cãi-cọ, tranh lời lẽ thấp cao thì cái trí bị quên, tư-bề trống lổng không có ai canh phòng gìn-giữ nữa, để tha hồ cho tư-tưởng ở ngoài xông vô chiếm lấy cái trí. Trong lúc con người lãng phí sức mạnh vì những chuyện không ra gì thì cái trí làm mồi cho ảnh-hưởng ngoại-giới. Bạn học đạo hãy chủ-ý và đề phòng cho khéo, mỗi khi dự vào cuộc tranh-biện. Thường thường dầu có cãi-cọ dữ-tợn, hùng hồn cho mấy, mà rồi cũng không thấy bên nào chịu thua mà nghe theo bên kia. Nhiều khi chỉ làm cho mỗi bên càng giữ chặt ý-kiến của mình hơn lúc chưa tranh-luận nữa.
Mấy điều trên đây xét về phương diện hình thức của cái trí. Nói về phương-diện tinh-thần thì nên biết rằng: Hạ-trí thường lầm mình luôn luôn với ngoại vật và cho “mình là cái nầy”, “mình là cái kia” và tánh của hạ-trí cũng là không ngớt bỏ ngoại-vật khi nhận không phải là mình nữa.
Những làn rung động tư-tưởng của một người hằng dưỡng tánh-tình thanh-cao, khi cảm đến ta thì rán làm cho trí ta sanh ra những tư-tưởng tốt đẹp như chúng nó. Đồng thời chúng nó tống ra ngoài một phần chất khí nặng-nề của trí ta không hạp với chúng nó.
Cái trí cũng chịu phép tập-quán như mấy thể khác. Nếu tập nó rung-động một cách nào nó sẽ quen theo cách ấy và lần sau sẽ rung-động theo mau lẹ và dễ-dàng hơn lần trước. Tỷ như ai quen tưởng điều quấy cho người khác thì không bao lâu họ sẽ thấy rằng tưởng điều hư-xấu của người khác thì dễ hơn là tưởng đến phần tốt lành trong tánh-tình của người đó. Thường thường vì vậy mà có những thành-kiến nó làm cho con người không còn có thể tin rằng: có người tốt lành, trong sạch được, đối với người ấy trong đời chỉ toàn là sự hư-tệ xấu-xa mà thôi.
Không thiếu chi người vì vô-minh, tập tánh nuôi tư-tưởng xấu-xa; nếu họ chịu nuôi những tư-tưởng tốt-đẹp thì chắc không khó gì, nhưng bởi đã quen rồi. Không phải là một việc khó làm, nếu mỗi khi ta gặp ai thì đừng phanh-phui tật xấu, nết hư, mà trái lại phải tìm tòi những đức-tánh tốt lành của họ. Lâu ngày sanh ra tánh “Thương đời” chớ không phải “Chán đời” nhờ đó kiếp sống của ta sẽ dễ-dàng, êm-ái hơn và được thế, cái trí sẽ rút vô chất-khí thanh-khiết.
Lại nhiều người quen để cái trí thọ-cảm, quen bị-động chớ không quen truyền-cảm và tự-động. Chúng nó hút vô không ngớt những tư-tưởng của kẻ khác, chớ không thể tự-mình sanh ra những tư-tưởng mới- mẽ.
Có hiểu biết mấy điều nói trên đây rồi sau mới sữa đổi thái-độ của mình trong đời sống hằng ngày và phải xem-xét tư-tưởng của mình. Trước hết người ta lấy làm khổ mà thấy một số nhiều tư-tưởng không phải là của mình làm ra; không biết đâu mà đến rồi cũng không hiểu đi về ngả nào. Rốt lại cái trí mình chỉ là một cái lối, để cho những tư-tưởng vẫn-vơ, hoang đường qua lại mà thôi.
Qua cái bước đầu nầy rồi người ta phải tập quan-sát coi thứ tư-tưởng ở ngoài vô trí và thứ tư-tưởng ở trong trí của ra, hai thứ khác nhau thể nào. Nhờ cách nầy cái trí tập tư-động và lần lầnsanh-sản tư-tưởngchớ khôngthọ-cảm tư-tưởngnữa.
Kế đó phải tập tự-do chọn-lựa tư-tưởng, cái nào xét không nên giữ trong trí thì phải đánh đuổi xa ra, cái nào tốt thì chủ-ý đến, làm cho mạnh thêm, rồi gởi ra ngoài như một vị Phúc-thần để làm lành. Bây giờ mới mãn thời kỳ làm nô-lệ cho tư-tưởng.
Hãy nhớ kỹ điều nầy:
Sau khi đã tập chọn lựa tư-tưởng ít lâu sẽ thấy số tư-tưởng xấu vô trí càng ngày càng giảm-bớt. Cái trí quen rước tư-tưởng lành và đuổi tư-tưởng ác nên lâu ngày nó tự-động làm phần việc nầy, ta không cần phải chủ-ý đến nữa. Nhờ vậy các thứ khí vô trí ta đều tinh-khiết và cái trí sẽ mau trở nên tốt đẹp.
Thế thì cái hại lớn nhứt là nghe theo ngoại-cảnh mà làm hình tư-tưởng. Bởi con người chưa làm chủ cái trí nên nó bay-nhảy theo ngoại-sự, ngoại-vật, do đó mà có sự chiến-đấu nơi tâm, có sự gây-trở, khó khăn trên đường đạo.
Ấy tại vô-minh mà con người để cái trí hoạt-động một cách rối-loạn. Hãy đem “Chơn-lý” mà thế vào “Vô-minh” thì con người sẽ giám-đốc cái trí, không còn để cho nó hoành-hành theo ngoại-cảnh nữa, mà nó thiệt là tôi-tớ trung-thành để ta sai khiến theo ý ta.
Sự đau khổ của con người, phần nhiều do tư-tưởng hung-hãn mà ra. Thất-tình nổi dậy (nhất là tình-ái của hai bên nam nữ) là tại trí tưởng-tượng còn tự-do hoạt-động, không chịu theo mạng lịnh của Chơn-nhơn, chớ không phải là chí-khí bạc-nhược. Khi người ham-muốn dữ-tợn một điều gì, ấy cũng tại suy-nghĩ tưởng-tượng mà ra. Dòm đến một món vật-dục khêu gợi lòng tham-muốn, chưa có sự gì thiệt hại (gây hoạ). Có thiệt-hại là khi nào con người tưởng-tượng thấy mình đang làm cho lòng dục được thỏa-thích và để cho lòng dục sôi nổi lên.
Điều cần nhứt, phải hiểu món vật-dục tự nó không có quyền gì mà mê-hoặc ta hết nếu ta không dùng đến trí tưởng-tượng. Nếu gọi đến trí tưởng-tượng thì sẽ có việc bất-hòa trong tâm-thần chẳng sai.
Những tài-liệu của chúng ta tom-góp trong kiếp nầy, sau khi chết sẽ biến-hóa thành tánh-tình, cùng là năng-lực trí-thức ghi trong thượng trívà ta sẽ đem theo trong mấy kiếp tái-sanh. Cho nên cái trí ta kiếp sau thế nào là tùy theo công việc của ta làm trong cái trí kiếp nầy. Luật nghiệp-duyên sẽ đem cho ta cái QUẢ của cái NHÂN mà ta gieo ngày nay. Những kiếp luân-hồi giống như những khoen sắt trong sợi dây lòi-tói, ta không thể để riêng kiếp nầy với kiếp kia được, cũng không thể lấy cái không mà làm ra cái có được.
Như trong cuốn kinh CHANDOGYOPANISHAT có nói: “Con người là sinh-vật do tư-tưởng tạo ra. Kiếp nầy nó suy-tưởng thế nào thì kiếp sau nó trở nên thế ấy”.
VẠN VẬT THÁI BÌNH
CHUNG
Xin xem quyển thứ năm
CON NGƯỜI THÁC RỒI VỀ ĐÂU?
Giấy Phép số 642/P2
Ngày 19 Avril 1949
Của Phòng Thông Tin
SAIGON
In 4.000 cuốn tại
Nhà in Đức Dung
36, Sabourain, SAIGON
Share this article :
 
Support : Creating Website | phuctriethoc | NGUYỄN VĂN PHÚC
Copyright © 2013. NGUYỄN VĂN PHÚC - All Rights Reserved
By Creating Website Published by KINH TẾ HỌC
Proudly powered by NGUYỄN VĂN PHÚC
NGUYỄN VĂN PHÚC : Website | Liên hệ | phuctriethoc@gmail.com
Proudly powered by Triết học kinh tế
Copyright © 2013. NGUYỄN VĂN PHÚC - All Rights Reserved