CHƯƠNG THỨ NHÌ
BA THỨ HÌNH TƯ-TƯỞNG
Bây giờ ta nên khảo xét về vấn-đề những hình tư-tưởng và ảnh-hưởng của chúng nó đối với những người khác.
Mỗi người đều sanh ra ba thứ hình tư-tưởng:
a) Những hình tư-tưởng không tập trung nơi người đã sanh nó ra hay là xoay về người khác.
b) Những hình tư-tưởng tập trung nơi chủ nó.
c) Những hình tư-tưởng từ người sanh chúng nó ra đi tới mục-đích nhứt định.
A) NHỮNG HÌNH TƯ-TƯỞNG KHÔNG TẬP TRUNG NƠI NGƯỜI ĐÃ SANH NÓ RA, HAY LÀ: XOAY VỀ NGƯỜI KHÁC
Những hình tư-tưởng nầy không thuộc về cái “Ta riêng” nghĩa là không tưởng tới mình mà cũng không gởi ra cho ai, cho nên chúng nó bay vỡn vơ trên không trung và cứ truyền ra những thứ rung động in như những thứ rung động đã sanh chúng nó ra. Đó là cái hạng tư-tưởng mơ-màng bông-lông. Nếu nó không gặp cái trí nào ở không, nó chẳng nhập vô được, thì nó yếu sức lần lần rồi tan rã ra Thượng-thanh-khí như cũ.
Ví bằng nó gặp cái trí người nào khác có thể nhiễm được, thì nó bắt cái trí đó rung động theo, hai bên rút lại với nhau, hình ấy bị hút vào trong cái kia. Người ta bị ảnh-hưởng tư-tưởng ở ngoài là như vậy đó.
TAI HẠI SỰ ĐỂ CÁI TRÍ TRỐNG KHÔNG
Hiện giờ con người chưa làm chủ được cái trí, cho nên chỉ trong mấy giờ làm việc họ phải rán tập-trung tư-tưởng lại; còn ngoài ra những giờ ấy, trí họ cứ vởn-vơ, không tưởng tới việc gì chín-chắn, rõ-ràng, mạnh-mẽ, hại nữa là nhiều khi họ bỏ cái trí trống không một cách thụ động. Dường thế, bảo sao họ tránh khỏi ảnh-hưởng của những tư-tưởng ở ngoài được. Bởi vậy, mỗi khi ta tưởng đến điều gì thì cần phải suy nghĩ kỹ-lưỡng coi tư-tưởng đó có phải là của ta không? Nghĩa là: Ta có tưởng như vậy chăng và tại sao tưởng như thế; vì chưng chung quanh ta có cả muôn hình tư-tưởng phần nhiều là tư-tưởng xấu- xa, thấp-hèn, chớ nên để chúng nó nhiễm ta.
B) NHỮNG TƯ-TƯỞNG TẬP-TRUNG NƠI CHỦ NÓ
Ở vào trình độ ngày nay phần đông người ta tập-trung trong bản-ngã riêng, dầu rằng không quá ư ích-kỷ.
Những tư-tưởng như vậy bấu víu vào cái trí chủ nó, không bao giờ rời ra. Sự thật là phần nhiều người ta tự bao trùm cái trí với những lớp vỏ làm bằng những thứ tư-tưởng đó.
Tư-tưởng nầy phản ứng lại (tác động lại) cái trí mãi mãi, vì chúng nó có tánh cách lập đi lập lại hoài.
Bởi thế người nào có những lớp vỏ ấy thì thường bị bắt-buộc suy nghỉ đến những việc mà va đã tư-tưởng từ trước. Có ít người hay biết cái sức áp chế nặng nề đó lắm. Họ lấy làm khổ sở và cho rằng từ đâu rải đến những tư-tưởng như vậy, chớ không dè chính mình họ đã sản-xuất chúng nó để trở lại hại họ. Trong mấy giờ làm việc, cái trí mắc tưởng công việc khác thì những tư-tưởng bao phủ cái trí không thể phá khuấy được. Nhưng, khi mãn giờ làm hay là khi cái trí không nghĩ chuyện gì chín-chắn, thì liền đó chúng nó sáp-nhập vô bắt cái trí rung động trở lại như mấy lần trước. Thế ấy nên lớp vỏ càng ngày càng cứng thêm.
Nếu những tư-tưởng vừa kể trên đây, thuộc về hạng xấu-xa, thấp-hèn, thì chúng nó cho người ta tưởng rằng bị ma-quỉ cám dổ mình. Quả thật cũng có vài trưởng hợp bị ma-quỉ cám dổ thật; song thường thường ít có xảy ra lắm và nên nhớ rằng, ma-quỉ cám dổ mình được là tại trong trí mình có những tư-tưởng xấu-xa, bất chánh. Ví như tấm lòng mình trong sạch thì không có tà-ma quỉ-mị nào làm hại được cả.
Hạng tư-tưởng vừa kể trên đây, nếu không sớm diệt phá để cứ lập đi lập lại mãi thì quả mùi (Prârabdhâ) sẽ vì đó mà sanh ra. Một ly nước vừa đầy, ta cứ thêm vô từng nhỏ. Đến một lúc kia, chỉ cần thêm vô một nhỏ nữa thì nước trong ly sẽ tràn ra ngoài.
Người ta cũng vậy, nếu lâu ngày cứ nuôi-nấng những tư-tưởng ác độc thì đến một lúc kia chỉ cần một chút sức khuyến-khích nhỏ mọn đủ làm điều tội ác.
Tư-tưởng xấu kết-quả thế nào thì tư-tưởng lành cũng kết-quả thế ấy.
Người nào hằng ngày nuôi dưỡng trong trí những tư-tưởng xả-thân giúp đời thì chưa thấy tư-tưởng đó hữu-ích vào đâu cả. Nhưng đến một lúc kia, chỉ cần thêm một mảy tư-tưởng ấy nữa, thì người ấy đủ sức hành-động như bực anh-hùng chí-sĩ. Đứng trước cái kết-quả xấu-xa như điều ác của kẻ vô-lương hay là công-nghiệp vẻ-vang của bực vĩ-nhân, thì người làm ra cái kết-quả ấy lấy làm lạ lắm và tự bảo rằng: mình không ngờ làm nên việc ấy đâu.
MƯỢN TƯ-TƯỞNG KẺ KHÁC
Vã lại, không phải một mình ta đủ làm cho tư-tưởng ta mạnh thêm mà chính là ta còn nhờ tư-tưởng của kẻ khác nữa.
Hình tư-tưởng của ta rút hình tư-tưởng của nhiều người khác, nếu những tư-tưởng nầy đồng bản-tánh với nó. Nói ngay ra, ta mượn sức của người vậy. Mà muốn biết cái tư-tưởng rút vào được tốt lành hay độc ác thì trước hãy dòm lấy mình coi tư-tưởng mình tốt lành hay độc ác, Bởi vì những tư-tưởng đồng bản-tánh mới rút lại với nhau.
Bởi vậy, mỗi khi ta tập chiêm-nghiệm những tư-tưởng cao-siêu thì ta tránh khỏi những tư-tưởng hèn mạt đến khuấy rối ta.
NHỮNG HÌNH TƯ-TƯỞNG LIÊN-HIỆP
Biết rằng mỗi khi ta tư-tưởng thì sanh ra một cái hình tư-tưởng mới. Song có khi không phải như vậy. Nếu sẵn có một cái hình tư-tưởng cũ rồi thì khi ta tưởng việc cũ nữa, những tư-tưởng nầy không làm ra một tư-tưởng mới, mà lại hiệp với tư-tưởng cũ và làm cho hình cũ mạnh mẽ thêm lên. Cho nên, người nào ngày nầy sang ngày kia, cứ lập đi lập lại một thứ tư-tưởng, thì rốt cuộc sẽ tạo ra một cái hình tư-tưởng có sức mạnh vô ngần. Nếu là tư-tưởng xấu xa thì cái hình tư-tưởng sẽ trở nên một thứ ảnh-hưởng ác-nghiệt, có thể sống nhiều năm và nhiễm hại người ta như một con vật khôn-lanh, quỉ-quyệt vậy.
Cũng vì lẽ nầy, nhiều người xúm nhau lại chung tưởng một vấn-đề nào thì những hình tư-tưởng hiệp nhau lại làm thành một hình tư-tưởng, bên Pháp-môn gọi là Egrégore, mạnh mẽ phi thường.
Vì chưa rõ luật trời cho nên mỗi ngày thiên-hạ rải trên không-trung đời nầy qua đời kia, cả ngàn triệu tư-tưởng xấu xa độc ác, Bởi thế cho nên thiên-hạ phải lãnh và chia-sớt những kết-quả khốc hại, làm cho Phật nói rằng: “Nước mắt của chúng sanh nhập lại còn hơn nước của biển cả”. Nói tóm lại, những hình tư-tưởng liên hiệp có thể làm Họa hay làm Phước, tùy theo bản tánh nó xấu hay là tốt. Thứ nào ác tức là Hung-thần để báo hại người đời, còn thứ nào lành là những Phúc-thần để ban ân-huệ cho chúng sanh.
Vì mấy lẽ trên đây, nên tôi đã nói khi nẫy, mỗi lần ta tưởng quấy là ta thêm sự khổ cho đời. Vậy xin nhắc lại một lần nữa, ta khéo giữ gìn tư-tưởng cho lắm, đặng khỏi gây quả xấu về sau.
SỰ SANH RA THÀNH-KIẾN
Một cái vỏ tư-tưởng, dầu ích-kỷ hay không cũng còn làm nhiều điều hại nữa là nó làm cho mờ-tối lý-trí và gây ra những thành-kiến. Con người ở trong lớp vỏ đó mà dòm cõi đời, không khác nào đeo kính màu mà xem đồ vật, thì sẽ bị lớp vỏ tư-tưởng đó thay đổi hình sắc; cũng như mang kiếng đỏ mà xem màu xanh thì thấy đen vậy. Dường thế, mỗi lần cảm-giác điều gì thì điều ấy bị tách-cách của vỏ tư-tưởng thay đổi ít hay nhiều. Cho đến bao giờ người ta chưa thật làm chủ tư-tưởng và tình-cảm của mình thì chưa thấy điều gì rõ thật được, vì bao nhiêu sự quan sát điều bị cái màng tư-tưởng thay hình và đổi màu sắc hết.
Tại lẽ đó mà đức Asangha, sau người ta gọi là Aryasangha, Tàu dịch là đức Vô-Trước, đã nói trong quyển “Lời nói của Tâm-Hồn” (La Voix du Silence) rằng: “Cái Trí là kẻ diệt phá điều chơn-thật (Le destructeur du reel). Ngài làm cho ta chủ ý tới cách của ta cảm-giác ngoại-giới. Chúng ta không thấy đồ vật thiệt đâu. Ta chỉ thấy hình ảnh của chúng nó mà thôi, mà những hình ảnh nầy lại còn không được rõ và đúng, hơn nữa, chúng nó bị những hình tư-tưởng của ta làm ra thay đổi hết.
C) NHỮNG HÌNH TƯ-TƯỞNG TỪ NGƯỜI SANH NÓ RA ĐI TỚI MỘT MỤC-ĐÍCH NHỨT ĐỊNH
Khi ta tưởng đến một người nào mà không có pha một chút tình cảm gì, như thương yêu hay khinh rẻ, hoặc không có pha lẫn chút ham muốn gì, như sự mong mỏi được trông thấy người đó thì tư-tưỏng của ta chỉ có ảnh hưởng qua loa đến va mà thôi.
Còn nếu có tình-cảm như sự thương-yêu pha lẫn vào tư-tưởng, thì hình tư-tưởng xẹt lên trên không và đi tới người mình tưởng. Nếu người nầy không suy gẫm điều chi hay là cái vía và cái trí va rung động hạp với hình tư-tưỏng của ta gởi đến thì hình tư-tưởng nầy nhiễm va liền.
Ví bằng lúc đó va mắc lo nghĩ về một vấn đề khác, hình tư-tưởng của ta không truyền vô được, nó phải vởn-vơ một bên, chờ có dịp sẽ sáp-nhập vào.
Nếu mình có ý muốn đến viếng một cảnh nào ở xa xôi thì tư-tưởng mình bay tới chốn đó liền. Ví như nó mạnh thì có khi nó đủ sức hiện hình ra giống hệt xác thịt của mình. Người có Thần-nhãn mà chưa kinh-nghiệm nhiều thì lầm tưởng rằng nó là cái vía của mình.
CÁCH BẢO-HỘ VÀ GIÚP ĐỞ BẰNG TƯ-TƯỞNG
Như ta thương-yêu ai hoặc muốn bảo-hộ ai khỏi tai nạn hay là điều buồn khổ thì trong khi tư-tưởng, ta tập trung ý-chí vào người thương của ta. Hình tư-tưởng của ta sẽ bay ngay tới người ấy, ở trong hào-quang va như một cái khiên để che chở. Nó bảo-bọc, gìn giữ người đó; không phải nó có tinh-thần riêng của nó mà chỉ vâng theo ý-muốn của ta mà thôi. Nếu có tư-tưởng hiền lương tới cho người đó thì nó làm cho tư-tưởng ấy mạnh thêm. Còn có thứ tư-tưởng ác khác lại gần thì nó xua đuổi đi. Hình tư-tưởng như vậy có thể xem như một vị “Thần Hộ-mạng”. Cũng vì lẽ ấy mà lời cầu khẩn của bà mẹ cho một đứa con mình ở xa hóa ra hình Thiên-Thần bay tới bảo hộ nó.
Ít người biết được sức mạnh của tư-tưởng hữu ích là thế nào và không ngờ rằng: “Nếu họ muốn, thì họ sẽ nhờ sức mạnh tư-tưởng làm nhiều điều phước-thiện lắm.
Thường thường có người đau khổ ta muốn giúp đỡ, nhưng vì tại nhiều duyên cớ mà ta không thể làm được. Có khi có mặt ta đến thì người kia không được vừa lòng hay là khó chịu. Có khi người kia vì những thành kiến hay mê-tín làm cho mờ tối lý-trí đi, nên ta không thể nào làm cho va nghe và tin theo được. Nhưng nếu xác thịt (sự gặp mặt giữa người và người) khó cho ta khuyên dổ, thì trái lại cái trí và cái vía dễ cảm hơn, dể bị ảnh-hưởng của làn sóng tư-tưởng thương mến, khỏe mạnh, vân vân …
Lâm vào nhiều cảnh, dầu người đó có tinh-thần quả-quyết cho mấy cũng không làm gì được trong cõi phàm-gian. Rán sức giúp đỡ cũng vô hiệu quả. Trái lại, không có lúc nào mà không có thể giúp một cách mỹ-mãn được, nếu ta tập trung tư-tưởng bác-ái thật mạnh mẽ và lập đi lập lại nhiều lần rồi gởi đến cho người cần sự giúp đỡ. Tư-tưởng sẽ vâng mạng lịnh của ta đi tới người đó trong nháy mắt. Theo lẽ báo-ứng tự-nhiên thì bất luận tư-tưởng nào cũng có hiệu-quả của nó, và không thể nào cái hiệu-quả ấy không có được, dầu cho con mắt phàm chưa có thấy gì sửa đổi.
Song có điều ta phải ghi nhớ luôn luôn rằng: “hình tư-tưởng cảm-hóa được người nào là nhờ trong trí và vía người đó có chất rung động hạp với chất khí làm ra hình tư-tưởng. Nếu cái vía và cái trí va không rung động hạp với chất khí làm ra hình tư-tưởng thì hình nầy không sáp nhập được, nó phải vội trở ra. Khi nó xông vào mạnh bao nhiêu thì nó dội trở ra cũng mạnh bấy nhiêu.
Chi nên không có cách nào hay hơn là giữ bản-tâm và tinh-thần thanh bạch mãi, vì tinh-thần và bản-tâm thanh bạch rút vô trong trí và vía những chất khí tinh-khiết hơn hết. Dường thế, hai thể nầy không bao giờ tiếp-xúc với những thứ rung động của chất khí nặng nề đâu.
LUẬT PHẢN-KÍCH
Nếu tư-tưởng hung-ác xông vào một cái hào-quang (trí và vía) thanh-bạch thì nó bị dội trở lại rất mạnh. Khi dội ra nó phải tìm con đường nào phù hạp với nó; mà có con đường nào hạp với nó hơn là con đường của nó mới đi theo đó. Như thế thì nó sẽ dội trở lại cho người làm ra tư-tưởng hung-ác ấy. Người nầy đã có sẳn trong trí và vía thứ chất khí mà va đã dùng đặng làm ra hình tư-tưởng hung-ác kia, cho nên va không tránh được luật “Luật phản-kích” (loi du choc en retour); cái ác mà trước kia va muốn gây cho người nay chính là bây giờ va phải mang lấy. Cho nên nói rằng: “Làm ác thì gặp ác, làm lành gặp lành” thật quả không sai.
Đối với một người hiền lương và tấn-hóa cao mà ta lại có ý muốn hãm-hại thì chẳng khác nào ta sắp trở giáo đâm ta vậy. Những hình tư-tưởng hung-tợn khi đi đến hào-quang của người kia, chẳng những không làm được một mảy thiệt-hại gì mà nó còn dội trở lại cho ta để phạt ta đau khổ về thân, tâm và trí một lượt.
Tục rằng: Thầy Pháp bị quỉ vật. Chuyện nầy một hai khi (đôi khi) cũng có thật, song thường thường va bị tư-tưởng ác của chính va trở lại hại va. Ta nên nhớ rằng mỗi khi tư-tưởng là mỗi khi luyện tập cách thành-lập những hình tư-tưởng. Những tư-tưởng là những sự-thật mà lại là những sự-thật có sức-mạnh vô-ngần.
Ngày và đêm ai ai cũng đều làm ra hình tư-tưởng không ngớt. Nhiều người cho rằng tư-tưởng của mình chỉ quan hệ đến một mình mình mà thôi, cang gì đến ai mà sợ. Tưởng như thế là lầm. Tư-tưởng của ta chẳng những làm lành hay là làm hại cho ta mà lại còn làm lành hay là làm hại nhiều người khác nữa. Sự thật thì tư-tưởng hung dữ có nhiều hiệu quả hơn là lời nói hung-dữ. Bất kỳ là ai, nếu sẵn có mầm xấu xa trong tánh-tình, mà ai lại không có, thì bị tư-tưởng ấy làm cho nẩy nở và đâm chồi mọc nhánh.
Một vị đế-quân có nói: “Mỗi người rải-rác không ngớt trong hoàn-cảnh của mình tạo ra, những kết-quả của trí tưởng-tượng, lòng ham-muốn và sự kích-thích của “thất-tình lục dục”.
NGƯỜI TẤN-HÓA CAO VỚI NGƯỜI TẤN-HÓA THẤP KHÁC NHAU THẾ NÀO?
Người tấn-hóa cao với người tấn-hóa thấp khác nhau như vầy: “Người tấn-hóa cao biết dùng cách quả-quyết sức mạnh tư-tưởng của mình. Còn đối với người thường thì có tưởng cũng như không, chưa biết lợi dụng cái món quí ấy. Người đã biết thì đủ sức tạo-lập và sai khiến một cái hình tư-tưởng theo ý-muốn của mình; cái sức trợ-đời nhờ như thế mà trở nên lớn-lao, vì cái tư-tưởng giúp ta làm việc ở những chỗ mà người khác chưa có dịp đi đến. Những hình tư-tưởng ở dưới quyền sai-khiến của ai đều là những tay bộ-hạ trung-thành của chỉ-định người đó. Người thường thì trái-lại chịu dưới quyền sai-khiến của tư-tưởng, làm nô-lệ cho nó. Nếu có thể dùng chí-định mà chế-ngự hình tư-tưởng thì cũng có thể dùng chí-định đặng phá-tan tức-tốc một cái hình tư-tưởng, không khác nào ta có thể giết một con rắn ở cỏi Phàm gian vậy. Những người theo chánh-đạo không bao giờ dùng cách ấy, trừ ra những lúc nguy-cấp lắm.
HÌNH DẠNG NHỮNG TIẾNG-TĂM
Xin nhắc lại rằng lời nói và tiếng tăm cũng có hình dạng như tư-tưởng vậy.
Có nhiều hình vẽ không được, dưới Phàm-gian không có mấy màu đó, phải mở thần-nhãn và thiên-nhãn mới thấy rõ-ràng.
Tả mấy hình đó ra tức là làm việc miễn-cưỡng. Vậy tôi xin nói những hình có thể tưởng-tượng được mà thôi.
Tỷ như một tiếng sét đánh sanh ra một giải đỏ như ngọn lửa; một tiếng nổ sanh một hình tròn không đều đặn, trên mặt có những tia-sáng xẹt ra giống như gié lúa. Sóng bổ vô gành sanh ra những làn sổ song màu sắc thay đổi liền liền trong cơn bão-bùng chúng nó giống in những dãy núi. Ở trong rừng, gió thổi lá cây xào-xạt thì sanh ra những làn ngũ sắc đưa lên đưa xuống như các lượn sóng nhồi trong cơn biển lặng.
Những tiếng chim ca sanh ra những đường và những vòng đẹp đẽ sáng-rở; tiếng chim Quyên giống như tràng hoa vàng; tiếng con Két giống như khối không có hình nhứt định mà màu sắc lại tối-thui. Tiếng sư-tử rống thì sáng-rở, mạnh-dạn vô-cùng; tiếng mèo ngao sanh ra những vòng mây tròn màu hường đồng một trung tâm điểm. Tiếng chó sủa giống như những đạn súng bắn phủng cái vía làm cho khó chịu lắm (bởi vậy khi cơ lên, chó sủa thì thăng liền, một chút mới nhập vô lại).
Thường thường mấy viên đạn nầy màu đỏ hay là nâu tùy theo sự cảm-xúc của con thú và phẩm-chất của tiếng nó. Bò rống sanh ra những hình thô-kịch giống như mấy khúc cây chưa bào vuông. Một cặp bò câu gù sanh ra những hình đẹp đẽ như chữ S nằm (~).
Tiếng giận-dữ sanh ra những làn nhợn đỏ lòm giống như những cây giáo. Sự nói chuyện tầm-ruồng, vô-lối sanh ra những làn màu xám nâu, cứng ngắt và kết chặt với nhau như một tấm lưới sắt, ngăn hết những tư-tưởng và những tình-cảm thanh-cao không cho vô vía và trí của người nói. Tiếng cười của trẻ con sanh ra những làn cong màu hường.
Tiếng xe lửa hét sanh ra những viên đạn bắn vô cái vía, còn mạnh hơn tiếng chó sủa, làm cho đau đớn như cầm gươm chém vào xác thịt. Tiếng súng đồng dội vô cái vía dử-tợn.
Tiếng súng nhỏ túa ra như những cây kim nhọn.
NHỮNG TRUNG-TÂM TƯ-TƯỞNG
Ở dưới trần-thế, những người nói một thứ tiếng thì ở chung với nhau một nước.
Trên cõi Thượng-giới cũng vậy, từ xưa đến nay, những tư-tưởng thuộc về một vấn-đề một loại với nhau thì ở chung một chỗ gọi là Trung-tâm tư-tưởng. Bởi vậy có những Trung-tâm tư-tưởng thuộc về Triết-học, Vật-lý-học, Tự-nhiên-học, Hóa-học, Thiên-văn-học, Sử-ký-học, Địa-dư-học, Địa-chất-học và các hạng tiểu-thuyết v.v…
Trung-tâm tư-tưởng loại nào thì rút hết thảy những ý-kiến về loại đó của con người trên địa-cầu, từ đời nầy qua đời kia, dầu trúng dầu trật, dầu hay dầu dở, dầu cao dầu thấp, dầu liên-lạc hay rời-rạc cũng vậy.
Như tư-tưởng triết-học choán hết một chỗ riêng và nó chia ra từ khu-vực, mỗi khu-vực chứa những quan-niệm một hệ-thống. Nhưng mấy khu-vực nầy đều có tính liên-lạc với nhau.
Bất câu người nào nếu ngồi suy-nghĩ sâu-xa về một vấn-đề triết-học thì tư-tưởng va giao-tiếp với Trung-tâm tư-tưởng nầy. Tùy theo bực tấn-hóa của va, cái trí va sẽ thâu thập được ít nhiều những tư-tưởng nào hạp với nó. Nhờ vậy va nảy sanh ra những ý kiến mới, va sẽ luận về vấn-đề đó về một phương-diện khác. Nhưng nếu va biết dùng cái trí đi ngay vô Trung-tâm tư-tưởng đó thì lại càng hay. Cái óc xác thịt nặng-nề lắm, những tư-tưởng muốn đi tới nó phải vô cái trí rồi qua cái vía và cái phách. Những tư-tưởng nầy còn bị cái trí và cái vía biến đổi nữa. Bởi vậy có nhiều khi suy-nghĩ thấy nhiều điều hay mà viết ra không suôn-sẻ,
Về tiểu-thuyết thì hạng Thần-Tiên truyện chiếm một phần to tát.
Nhơn vật trong truyện Phong-Thần, Phong-Kiếm Xuân-Thu, Tây-du diễn nghĩa vân vân …đều có đủ. Nào Thái-Thượng Lảo-Quân, Ngươn-Thỉ Thiên-Tôn, nào Thông-thiên giáo-chủ, nào Nam-cực Lảo-tổ, Hải-Triều Thánh-Nhơn, Tam-Tạng, Hành-Giả và Bác-Giới, Sa-Tăng … không thiếu vị nào.
Tại sao mấy hình đó còn sống đến bây giờ?
Biết mấy trăm triệu dân đã đọc những Tiểu-Thuyết đó, trong mấy đời rồi, người mình có dịch ra và thiếu chi người thích nên mua đọc. Mỗi lần đọc là mỗi lần thêm sức cho những hình tư-tưởng đó, bảo sao chúng nó không sống lâu.
Nhưng không phải riêng gì xứ Tàu hay xứ mình, bên Thiên-Trước, bên Ba-Tư, bên Âu-Châu, bên Mỷ-Châu, nói tóm lại là khắp các nước trên Hoàn-Cầu đều có những truyện Thần-Tiên như bên mình vậy.
CHƯƠNG THỨ BA
CHUYỂN-DI TƯ-TƯỞNG
SAO GỌI LÀ CHUYỂN-DI TƯ-TƯỞNG
Chuyển-di tư-tưởng nghĩa là: truyền sang tư-tưởng người nầy qua người kia.
Còn Thần-giao-cách-cảm (Télépathic) có nghĩa là cảm ở đàng xa (sentir à distance). Lẽ thì phải dùng nó riêng cho sự chuyển-di các thứ tình-cảm mà thôi; nhưng thường-thường người ta cho nó đồng-nghĩa với chuyển-di tư-tưởng. Mình có thể giữ cái nghĩa nó là: Chuyển-di hình-ảnh, tư-tưởng hay là tình-cảm từ người nầy qua người kia bằng những phương-pháp vô-hình.
BA CÁCH CHUYỂN-DI TƯ-TƯỞNG
Thần-giao-cách-cảm có thể làm ba cách khác nhau. Có thể thông tin:
1. Từ cái óc tinh-khí nầy tới cái óc tinh-khí kia (Entre deux cerveaux éthériques).
2. Từ cái vía nầy tới cái vía kia.
3. Từ cái trí nầy tới cái trí kia.
1. CÁCH THỨ NHỨT
Phương-pháp thứ nhứt tức là phương-pháp hồng-trần hay là phương-pháp tinh-khí.
Cục hạch phía trước óc (glande pinéale) để chuyển-di tư-tưởng cũng như con mắt là cơ-quan của Thị-giác (Quan Thấy).
Đối với phần-đông nhơn-loại thì cục hạch nầy chưa mở ra, song nó đang tấn-hóa và có phương-pháp giúp nó chóng tấn-hóa để dùng nó bây giờ, cũng như nhân-loại sẽ dùng nó trong tương-lai vậy.
Nếu ta tưởng quả-quyết về một vấn-đề nào (ta tập-trung tư-tưởng lại) thì ta cảm-biết có sự rung-động trong cục hạch trước phía óc ta “tùng quả-tuyến” (glande pinéale) nghĩa là chính giữa chơn mày có hơi nhột-nhột. Sự rung-động nầy vốn từ chất thanh-khí bao-bọc cục hạch (glande pinéale) sanh ra. Khi chất thanh-khí nầy rung-động, thì nó sanh ra những làn-sóng tinh-khí lan tràn ra tứ-hướng. Đụng tới hạch trán (glande pinéale) nào khác thì nó bắt chất tinh-khí bao bọc cục hạch đó rung-động theo in như nó rồi truyền sự rung-động đó qua cái vía và cái trí của người thọ-cảm. Nhờ vậy người nầy hay biết cái tư-tưởng ở đàng xa gởi lại.
Nhưng nếu cục hạch (glande pinéale) thọ-cảm mà không đủ sức lập lại những thứ rung-động truyền tới thì tư-tưởng đi ngang qua mà người ta không hay biết. Cũng như một người đui dầu cho yến-sáng chiếu vô mắt cũng không thấy chi cả.
KHÔNG PHẢI NGƯỜI TA CHUYỂN-DI MỘT CÁI HÌNH SANH RA TRONG ÓC TINH-KHÍ
Có phải người ta chuyển-di một cái hình từ óc tinh-khí nầy qua óc tinh-khí kia chăng?
Không phải như vậy. Tôi xin giải cho các bạn nghe. (1) [(1) Phải học với thầy chuyên môn mới hiểu rỏ].
Người nào tưởng mạnh-mẽ đến một vật hữu-hình trong óc thì người đó làm ra một cái hình bằng chất tinh-khí. Trong khi rán sức làm thành cái hình đó thì có những làn sóng tinh-khí lan-tràn ra tứ-hướng. Người ta tưởng rằng khi anh A chuyển-di một cái hình như vậy cho anh B thì cái hình đó bay lại cho anh B. Nhưng không phải như vậy. Không phải cái hình đó đi đàng nầy tới đàng kia, mà chánh là những sự rung-động đủ sức kết-hợp lại làm ra một cái hình đi từ anh A tới anh B. Cái hiện tượng nầy cũng giống như cái hiện-tượng xẩy ra khi hai người dùng điện-thoại thông-tin với nhau: người ở đàng kia không phải là nghe chánh tiếng nói của người ở đàng nầy đưa lại. Không phải là lời nói bị chuyển-di mà chỉ là lời nói làm cho điễn-khí rung-động rồi truyền sang tới đầu kia. Mấy cái rung-động đó mới hiệp-nhau lại thành lời nói.
2. PHƯƠNG-PHÁP THỨ NHÌ
Đi từ cái vía nầy tới cái vía kia.
Theo phương-pháp nầy thì cái óc tinh-khí không can-thiệp đến. Nhưng hình tư-tưởng tình-cảm đi từ cái vía nầy tới cái vía kia.
3. PHƯƠNG-PHÁP THỨ BA
Đi từ cái trí nầy qua cái trí kia.
Theo phương-pháp nầy thì khi làm xong một cái hình tư-tưởng trên cõi Thượng-giới rồi không truyền nó vô trong óc mà bắt nó lập tức đi ngay tới cái trí người khác. Muốn làm được cách nầy thì phải tấn-hóa cho cao, phải mở được thiên-nhãn và dùng cái trí như dùng xác-thịt vậy. Phương-pháp nầy cao hơn phương-pháp thanh-khí. Ngày sau khi nhân-loại tấn-hóa cao rồi thì nó sẽ là cách giao-thiệp hằng ngày.
Hiện giờ các Chơn-sư dùng cách nầy để huấn-luyện đệ-tử ở xa các ngài và nhờ thế đó mà các ngài chuyển-di một cách dễ-dàng những tư-tưởng khó-khăn.
CHUYỂN-DI TƯ-TƯỞNG CÁCH VÔ-TÌNH (La transmission de la pensée inconsciemment)
Khi nãy tôi đã nói những làn-sóng tư-tưởng, những hình tư-tưởng và những hiệu-quả của tư-tưởng đối với người khác. Những hiệu-quả nầy rất trọng-hệ, ta cần phải khảo-xét cho kỹ-càng.
Xin nhắc lại rằng: “Mỗi người lúc đi đường rải ra những tư-tưởng phần nhiều là mơ-màng bông-lông. Mỗi khi ta đi ngoài đường là mỗi lần ta lặn-lội trong cái đại-hải tư-tưởng của bao nhiêu khách đi qua đường đã sản xuất ra.
Nếu để cái trí ở không một phút thì những tư-tưởng ấy xáp lại, nhập vào và đi ngang qua cái trí, nhiều khi không gây ra hiệu-quả trọng-hệ, nhưng đôi phen cũng làm cho cái trí xao-động dữ-dội.
Thình lình ta đương đi, một cái tư-tưởng xông vào buộc cái trí phải chủ-ý tới nó, rung-động theo nó. Nếu không kịp phân-biện, ta nhận lấy tư-tưởng đó làm tư-tưởng của mình, thêm sức cho nó rồi thả nó đi ra ngoài mạnh bạo hơn hồi mới sáp nhập để nhiễm-phá người khác.
Ta không chịu trách-nhậm đối với những tư-tưởng vẫn-vơ trong không-khí do kẻ khác sanh ra, nhưng khi ta thâu nhận những tư-tưởng đó làm của mình, nuôi dưỡng cho mạnh thêm rồi thả nó đi phá người khác thì ta phải gánh chịu chung một phần tội-lỗi với chủ chúng nó.
Nếu ai chịu khó ngồi không đừng tưởng cái chi nội trong hai phút đồng hồ thì sẽ thấy cái trí mình như ngả ba đường cái, cả chục cái tư-tưởng qua lại, vô ra không ngớt, phần đông là mơ-màng bông-lông và xấu-xa nhiều hơn là tốt-đẹp.
Xét cho kỹ thì tư-tưởng của mình sanh ra không được một phần tư số tư-tưởng của kẻ khác vô trong trí mình, và mình lấy tư-tưởng của kẻ khác làm của mình.
DU-LUẬN CÔNG-CHÚNG
Đại đa số dư-luận của công-chúng là cái kết-quả của sự chuyển-di tư-tưởng. Phần-đông người ta tưởng như nhau, không phải lẽ tại họ đã chiêm-nghiệm một vấn-đề đó lâu rồi, nhưng tại đầu-tiên có một người tưởng như vậy rồi va kéo mấy người khác theo luồng tư-tưởng của va. Tư-tưởng đó lần lần trở nên mạnh-mẽ và có ảnh-hưởng đến một số đông người.
Dư-luận công-chúng một phen thành-lập thì nó cai-quản lý-trí của phần-đông. Nó dục thiên-hạ tưởng như nó vậy. Nên biết rằng: “Phần-đông con người có tánh thụ-cảm hơn là hoạt-động”. Bởi vậy cho nên họ bị nhiễm những tư-tưởng ở ngoại-cảnh đưa tới. Họ hành-động theo chúng nó chớ kỳ-thật trong lòng họ không muốn như vậy chút nào.
Hiểu như vậy rồi chúng ta mới biết những hình tư-tưởng liên-hiệp lợi hại là dường nào và cần-ích là dường nào trong sự sửa đổi tinh-thần người ta, trong sự đào tạo những thành-kiến và sự thành-lập những tình-cảm quốc-gia hay chủng-tộc.
Mỗi dân-tộc trên địa-cầu đều có một cái không-khí quốc-gia riêng, làm cho cái luận-điệu, sự phán-xét và cách hiểu-biết không giống như nhau được. Cho nên cũng đồng đứng trước công việc in nhau mà mỗi nước đều hiểu-biết một cách riêng, lại thêm bớt vô những thành-kiến của mình thì tránh sao khỏi phần kết-luận phải cách-dị với nhau hết.
Nhiều người chưa nhận được điều nầy vì chưa đủ sức tự giải-thoát ra khỏi ảnh-hưởng của vô số hình tư-tưởng do dư-luận công-chúng sanh ra; vì vậy không bao giờ lãnh-hội được chân-lý và cũng không ngờ có chân-lý nữa. Bởi những hình tư-tưởng to-tát kia nó làm mờ-quáng sự sáng-biết và tăng thêm tánh tự-đắc tự-cao. Đối với nhà Pháp-môn thì trái hẳn lại, điều cần-nhứt là phải đoạt được cách cảm-giác rõ-ràng, phải thấy mọi việc rành-rẽ, chớ không phải như phần đông người ta tưởng thấy.
ẢNH-HƯỞNG CỦA NHỮNG HÌNH TƯ-TƯỞNG LIÊN-HIỆP ĐỘC-ÁC
Những hình tư-tưởng liên-hiệp độc-ác chẳng những làm hại cho mấy thể con người mà thôi, chúng nó còn gây nên cái tai-họa to lớn trong phàm-gian như: bão-tố, hạn-lụt, lửa phun, đất sụp, chiến-tranh, giặc-giã. Các bịnh truyền-nhiễm và những tội-ác khác của cá-nhân cũng đều do đó mà ra.
TAI-HẠI CỦA SỰ NÓI HÀNH VÀ SỰ NÓI VU
Ta hãy xem tai hại của một bọn người làm ra khi xúm xít nhau để nói hành một người kia cho rằng có tánh ganh ghét. Họ sanh ra những luồng tư-tưởng đi ngay đến người bị nói hành đặng thêm sức cho tật xấu đó. Người nầy có tánh ganh ghét hay không mình đâu có rõ. Nếu trong lòng va sẵn có mầm ganh gổ thì va sẽ bị tư-tưởng họ làm cho va càng ngày càng xấu thêm. Nhưng nếu thật va chưa có tánh ấy thì tư-tưởng của họ rán sức đào tạo ra cái tánh xấu ấy mà họ chỉ nghi ngờ cho va có mà thôi.
Ngày nầy qua ngày kia họ rải cả trăm cả ngàn tư-tưởng ganh gổ đến cho người bị nói hành, thì tài nào người nầy lại không bị nhiễm mà hóa ra người có tánh ganh gổ. Lấy tánh nầy mà suy ra thì biết mấy tánh kia cũng vậy.
Vì lẽ trên đây, không nên nói tới tánh xấu của kẻ khác ví dầu họ có thật tánh xấu đó. Vậy mới thật là có lòng nhơn. Nói tới tánh xấu của ai tức là nuôi nó cho mau lớn thêm đặng phá người không khác nào lửa đang cháy mà chế thêm dầu.
Trái lại ta nên tưởng luôn luôn đến những tánh tình tốt đẹp của kẻ khác, chủ ý là để làm cho những mỹ-điểm ấy được tăng sức thêm, hầu diệt trừ những mấm giống xấu xa đi. Đó là bổn phận của ta phải làm, dầu có học đạo hay là không học đạo cũng vậy.
Tai hại của sự nói hành hay nói vu thật là vô-hạn. Có người bị nó mà tan nát cữa nhà, vợ chồng chia rẽ, thậm chí phải tự-vận tự-tử, đặng thoát khỏi sự tủi nhục. Người nói-hành hay nói-vu dẫu thoát khỏi luật-hình của xã-hội chớ không tránh được quả-báo phải trả sau nầy đâu.
TAI HẠI CỦA NHỮNG TƯ-TƯỞNG OÁN-THÙ
Người nào nuôi những tư-tưởng oán-thù cũng vậy. Dầu va chưa có dịp rửa hận-cừu, chớ tư-tưởng của va đã đi xúi giục kẻ khác làm những việc ác rồi.
Thí dụ tư-tưởng va gặp tên X đương giận tên Y, tức thì nó xông vô trí tên X xúi đi hạ-sát tên Y lập tức, không cho tên X đủ thì giờ nghĩ ngợi việc phải chẳng nữa. Thế thì người sanh ra tư-tưởng ác đã bị nghiệp duyên trói buộc với tội-nhân, dầu lâu nay hai người chưa hề có dịp quen biết nhau, gặp gở nhau lần nào cả.
Đừng lầm rằng, tưởng rồi không làm thì không mắc tội trời. Luật quả-báo không phải vì sự dốt-nát hay sự quên-lửng mà dung tha được. Theo công-lệ thiên-nhiên, người ta hưởng thụ cái kết-quả những tư-tưởng, những tình-cảm và những sự hành-động của mình như những công-ăn việc-làm ở phàm-gian vậy.
ẢNH HƯỞNG CỦA NHÀ DIỄN-VĂN ĐỐI VỚI NHỮNG NGƯỜI DỰ-THÍNH
Thường thường trong khi diễn-thuyết, mấy người dự-thính tuy xưa nay chưa thông hiểu về vấn-đề diễn-giảng, nhưng trong lúc nghe thì cũng như mấy cây đờn hòa với nhau. Cái trí họ đều bị tư-tưởng mạnh mẽ của thuyết-sĩ bắt buộc rung-động theo cho nên lúc bây giờ họ hiểu rõ lắm. Ngày mai khi mất cái sức kích-thích của diễn-giả rồi thì họ quên gần hết, chỉ còn hiểu một cách mơ màng về câu chuyện mà bữa trước họ cho là thật dễ.
Đó là khi nào những người dự-thính thật lòng tìm hiểu nhà diễn-giả. Còn trái lại nếu sẵn CÓ Ý PHÊ-BÌNH, CHỈ-TRÍCH thì mấy điều ấy sanh ra những sự rung-động phản-nghịch pha luồng tư-tưởng cùa diễn-giả làm cho nó thêm rối loạn. Như thế mới sanh ra sự phản-đối theo ý-kiến riêng của mình.
ẢNH-HƯỞNG TƯ-TƯỞNG ĐỐI VỚI TRẺ CON
Ảnh-hưởng tư-tưởng đối với trẻ con còn quan-hệ lắm nữa. Trong thời kỳ ấu-trỉ, cái trí và cái vía nó cũng dễ uốn nắn như xác thịt. Cái trí của trẻ con hút tư-tưởng của người khác như bông đá hút nước. Trong lúc nhỏ mà đã bị tư-tưởng xấu xa thấm nhập vào trí thì ngày trổ quả cũng không xa đâu. Vì lẽ đó mà cần phải nuôi nấng trẻ con trong cái không-khí thanh-khiết bác-ái. Không nên làm cho chúng nó sợ-sệt, hóa ra giả-dối. Không nên cho chúng nó thấy những cảnh tượng xấu xa gớm-ghiết, quái-gở. Không có việc chi làm người có Thần-nhãn đau thương hơn là trông thấy hào-quang tươi-tốt của trẻ con bị những tư-tưởng dơ dấy của những người ở chung quanh làm cho thâm đen, hư-hoại trong một thời gian rất ngắn-ngũi. Ai có nghĩ rằng nếu những người lớn tuổi ở chung với trẻ con đều ăn ở và cư-xử được cao-thượng thì tánh-tình của chúng nó sẽ trở nên tốt đẹp là dường nào.
ẢNH-HƯỞNG TƯ-TƯỞNG ĐỐI VỚI HOÀN-CẢNH KIẾP SAU
Những tư-tưởng của ta sanh ra kiếp nầy tạo ra hoàn-cảnh của ta kiếp sau.
Tùy theo tánh cách tốt hay xấu, chúng nó sẽ làm cho ta gặp bạn-hữu hay là thù-địch, những người trợ-giúp hay những chướng-ngại trên đường đời của ta. Ta sẽ gặp những kẻ yêu-thương, chìu-chuộng ta hay là những kẻ ghét-bỏ, khinh khi ta, nhưng ta chưa có hề thương-yêu, chìu-chuộng hay khinh-khi ghét-bỏ họ trong kiếp sau nầy. Đó là luật “Nhân nào sanh ra quả nấy”. “Ta trồng dưa đặng dưa, trồng đậu đặng đậu” chớ không có chi lạ.
NHỮNG THÚ-VẬT CŨNG BIẾT CHUYỄN-DI TÌNH-CẢM
Loài cầm-thú cũng biết chuyễn-di tư-tưởng và tình-cảm như con người.
Ông WILLIAM J. LONG trong quyễn sách HOW ANIMALS TALK của ngài trước-tác, quả-quyết rằng ngài có nhiều lẽ đích-đáng nên tin rằng phương-pháp thông-tin âm-thầm đó là ngôn-ngữ thường dùng của loài cầm-thú.
Ngài có cho nhiều cái Tỷ-dụ để dựng chắc cái thuyết của ngài.
Như con chó tên DON mỗi khi chủ nó về gần tới nhà, bất câu giờ nào, nó cũng đều biết trước. Nó cũng biết trước gần tới ngày thứ bảy và những ngày lễ, vì mấy ngày ấy chủ nó thường quen dắt nó vô rừng.
Một con chó khác tên WATCH làm bạn thân với một con ngựa. Khi chủ nó bắt con ngựa kéo xe đi xa, chừng trở về gần tới nhà thì nó biết trước chạy đi đón chủ nó.
Người ta để ý thấy mỗi khi con chó sói con đi xa thì mẹ nó không cần chạy theo nó làm gì, chỉ ngồi yên một chỗ, ngước đầu lên và ngó chăm-bẩm theo hướng con nó đã đi.
Bây giờ sói con ngần-ngại, đứng lại rồi chạy trở về một nước chỗ mẹ nó ngồi.
Con chó FOX cái cai-quản cả gia-đình song nó không bao giờ lên tiếng chi. Nó chỉ dòm mấy con nó một cái tức thì mấy con nó thôi chơi giởn đi lại chỗ nằm và không động địa cho tới lúc mẹ chúng nó trở về.
Người ta thuật chuyện một con chó sói bị bịnh, sau khi nằm yên một chỗ trong mấy ngày, liền đi ngay tới một cái thây của một con thú bị giết cách xa đó mười ngàn thước, mà lại không có một dấu-tích nào để chỉ đường đi từ chỗ nó nằm cho tới chỗ con thú bị giết.
Ông quan ba (đại-úy) RUII đã quan-sát rõ-ràng mỗi khi ngài đâm trúng một con cá voi thì bao nhiêu con khác ở trong vùng 10 ngàn thước cũng dảy-dụa đùng đùng như bị đâm vậy.
Có nhiều thứ chim rừng, hể đúng giờ cho gà vịt ăn thì chúng nó bay lại ăn chung dường như có ai báo tin trước.
Nhiều người săn bắn để ý rằng mỗi khi đi săn không đem súng theo hay không chủ-ý bắn thì gặp nhiều thú vật còn mấy lúc đi ra mà cố-ý săn thì mấy con thú họ gặp thấy họ thì ra mòi sợ-sệt và khó lại gần chúng nó.
Ông WILLIAM J. LONG còn nói rằng ngài đã gặp nhiều người Ấn-độ và nhiều người khác có một giác-quan riêng mà bên Phi-châu gọi là CHUMFO. Giác-quan nầy báo trước tai-nạn sẽ tới khi ngũ-quan không thể cho hay được.
CHUYỂN-DI TƯ-TƯỞNG CÁCH HỮU-TÂM (La transmission de la pensée conselemment)
Chuyển-di tư-tưởng cách hữu-tâm là một khoa-học, biết luật thì ai làm cũng có kết-quả, nhiều hay ít tùy theo công-phu luyện-tập.
Điều cần nhứt là phải tập định-trí và tham-thiền. Ý chí cứng cỏi rồi mới có thể điều-khiển tư-tưởng theo ý mình muốn.
Các nhà thôi-miên đều biết chuyển-di tư-tưởng cách hữu-tâm. Dưới đây là những chuyện chứng chắc rằng phép chuyển-di tư-tưởng là sự thật một trăm phần trăm.
I
Ở ÂU-CHÂU
CHUYỆN HAI ÔNG ÉMILE DESBEAUX VÀ ÔNG LÉON HENNIQUE
CHUYỂN-DI TƯ-TƯỞNG
Năm 1891, hai nhà văn-sĩ chuyên khoa Pháp-môn là ông ÉMILE DESBEAUX, chủ rạp hát Odéon tại Paris và ông LÉON HENNIQUE ở Ribemont (Aisne) có thí-nghiệm về sự chuyển-di tư-tưởng và cái kết-quả làm cho khoa-học-giới phải kinh-ngạc vì thuở đó người ta chưa nghiên-cứu vấn-đề đó như bây giờ. Ông ÉMILE DESBEAUX ở Paris tập-trung tư-tưởng vào một vật để trước mặt ông, rồi ông LÉON HENNIQUE ở Ribemont (Aisne) kiếm trong trí coi ông ÉMILE DESBEAUX tưởng tới vật chi rồi vẽ hình vật đó ra.
Những hình của ông LÉON HENNIQUE vẽ ra tuy không được in hệt những vật của ông ÉMILE DESBEAUX tưởng, song chứng chắc rằng hình tư-tưởng của ông ÉMILE DESBEAUX đi tới Aisne và vô trí ông LÉON HENNIQUE.
II
TRUYỀN TỪ-ĐIỄN CHO NGƯỜI Ở CÁCH XA 300 CÂY SỐ
CHUYỆN MỘT NGƯỜI ĐUI
NHỜ ÔNG HECTOR DURVILLE TRUYỀN TỪ-ĐIỄN
Chuyện nầy xẩy ra năm 1880 hồi ông HECTOR DURVILLE mới ra trị bịnh bằng từ-điễn. Danh ông đồn ra xa; có một người thợ làm bánh mì chừng 30 tuổi ở Lerouville (Meuse) mù hai con mắt vì cái vỏng-mạc ở trong con mắt bị lột ra lối một năm rưởi, tới xin ông trị dùm họa may có sáng lại chăng. Va ở chung với ông, mỗi ngày ông truyền từ-điễn cho va nhiều lần.
Dưới đây là lời ông thuật lại, tôi dịch đại ý mà thôi.
“Chú thợ X ít cảm-động hơn mấy người bịnh khác, song mỗi lần tôi truyền-điễn thì mi con mắt chú giựt lia cho tới chừng tôi thôi thì nó mới hết giựt. Được ít lâu thì bịnh con mắt chú được khá một chút.
Sự giựt mí mắt nầy không phải tự chú muốn. Bất kỳ chú ở chỗ nào hay là làm cái chi hễ tôi tưởng tới chú thì mi con mắt chú giựt liền.
Chú bèn nói: “Ông truyền từ-điễn cho tôi đó”. Hễ tôi không tưởng tới chú nữa thì mi con mắt chú hết giựt. Trong thời kỳ ấy tôi trị nhiều bịnh. Mỗi tuần tôi đi Versailles ba lần đặng săn-sóc 3 người bịnh tại nhà họ. Năm giờ chiều tôi đi thì tôi truyền từ-điễn cho 2 người nội buổi đó. Sáng bữa sau tôi lại nhà người thứ ba. Lối 9 giờ rưởi tôi lên xe lửa trở lại Paris, một giờ sau tôi trở về tới nhà.
Có một lần kia khi lên xe lửa, tôi sực nhớ tới chú thợ X. Tôi mới tập-trung tư-tưởng vào chú 10 hay12 phút, nhưng tôi không ngờ là chú tiếp từ-điễn được. Tôi vừa về tới cửa, chú bèn nói với tôi: “Ông Durville, ông truyền từ-điễn cho tôi, tôi biết ảnh-hưởng nó ít nữa là 10 phút. Tôi muốn ngưng sự giựt mi con mắt song ngưng không được”. Tôi biết chú tin cậy nơi tôi, tôi sợ sự tưởng-tượng của chú làm cho mi con mắt chú giựt, chớ có lẽ nào xe lửa đang chạy mà sự truyền tư-tưởng thấu đến chú, tôi bèn trả lời: “Có lẽ tôi tưởng tới chú đó”. Kỳ sau, khi tôi bước lên xe lửa về Paris cho tới lúc bước vô nhà, tôi cứ tưởng quyết tới chú luôn-luôn.
Tôi thấy chú đi qua đi lại bộ mệt-mỏi và nóng-nảy lắm. Chú bèn nói với tôi: “Ông Durville, chuyến nầy tôi dám chắc rằng ông truyền từ-điễn cho tôi mạnh lắm, ít nữa là trong một giờ đồng hồ. Mí con mắt tôi giựt mạnh hơn mọi lần, tôi ở một chỗ không được, nó làm cho tôi nóng-nảy và trái tim tôi hồi-hộp nữa”. Tôi bèn đáp: “Những sự cảm xúc đó dầu cho có thiệt đi nữa cũng là quá lẽ. Tôi có tưởng tới chú song tôi không đem hết nghị-lực”.
Lần thứ ba, tôi mệt quá vì thức gần nửa đêm đặng săn sóc một người làm-xung dữ-dội. Khi lên xe lửa tôi nói để ý tưởng tới chú, song trong giây-lác tôi ngủ quên đi, tới chừng xe lửa tới Paris ngừng, tôi mới thức dậy. Tôi bèn nhớ tới chú một lát mà thôi. Chừng bước vô nhà chú nói: “Chuyến nầy ông không truyền điễn mạnh-mẽ như kỳ trước: trong giờ đó tôi biết ông truyền điễn cho tôi có 2, 3 phút, rồi nửa giờ sau trong giây-lát thì hết.
Tôi lặp-đi lặp-lại sự thí-nghiệm đó cả chục lần thì cái kết-quả cũng in như vậy.
Chú thợ có việc phải đi Lerouville từ 15 tới 20 ngày, chú bèn xin tôi cứ truyền điễn cho chú như mọi bữa. Tôi hứa chịu, Lerouville cách Paris 300 cây số nhưng tôi không chắc trước rằng có kệt-quả vì tôi tưởng rằng sự cách xa sẽ dứt-tình liên-lạc giữa tôi và chú. Tôi mới dặn chú mỗi bữa sáng thì cứ nằm trong giường tới 5 giờ rưởi và mỗi ngày chú viết thơ cho tôi rõ cái kết-quả thể nào vì tôi sẽ tưởng tới chú từ 5 giờ tới 5 giờ rưởi.
Trọn 4,5 ngày tôi tưởng quả-quyết tới chú và mỗi bữa đều được thơ của chú tỏ cái hiệu-quả, giống như hồi tôi đi xe lửa từ Versailles về Paris.
Dầu vậy tôi cũng còn nghi là sự tưởng-tượng của chú có ảnh-hưởng một phần lớn tới cái kết-quả, tôi bèn định thử vài lần nữa coi.
Một buổi sớm mai kia, tới giờ kỳ-hẹn, tôi không tưởng tới chú. Sáng ra tôi được thơ chú nói không có tiếp được từ-điễn của tôi. Tôi không trả lời. Luôn hai bữa sau nữa, tôi cũng không làm gì hết. Mỗi bữa tôi đều được thơ chú coi bộ buồn bực lắm, chú tưởng tôi đau, không săn-sóc tới chú, nên chú thất-vọng. Qua ngày thứ tư tôi tưởng tới chú như cũ, thì ngày sau chú nói chú có tiếp được từ-điễn của tôi.
Tôi bèn thay đổi giờ truyền từ-điễn, lần nào con mắt chú cũng giựt. Có một bữa tôi truyền từ-điễn hồi hai giờ khuya, sáng ra chú viết thơ nói hồi hai giờ chú giựt mình thức dậy, vì mí mắt chú giựt dữ lắm.
Mấy thí-nghiệm nầy chứng nhận rằng sự tưởng-tượng của bịnh-nhơn không có ăn-nhặp chi với sự truyền từ-điễn vì mỗi lần tôi tưởng tới chú thì mi con mắt chú giựt, hể chủ ý nhiều chừng nào thì mí con mắt chú giựt nhiều chừng nấy. Bao nhiêu đủ làm cho tôi tin rằng có thể chuyển-di tư-tưởng được.
Ông Hector Durville còn thí-nghiệm nhiều trường-hợp khác nữa, cái kết-quả vẫn mỹ-mãn luôn luôn. (Les actions à distance par Hector Durville)
III
Ở ÚC-CHÂU
MỘT ĐOẠN DIỄN-VĂN CỦA ÔNG DAVID UNAIPON NÓI
VỀ CÁCH CHUYỂN-DI TƯ-TƯỞNG
CỦA THỔ-DÂN XỨ ÚC-CHÂU (indigene d’Australie)
Ông David Unaipon, thổ-dân xứ Úc-Châu vô đạo thiên-chúa và học-thức rộng sâu, trong tháng Juillet 1914 có diễn-thuyết về phong-tục và sự tín-ngưỡng của dân bổn-xứ tại dinh xã-tây Ballarat (État de Victoria). Trong bài diễn-văn của ông có một đoạn nói về sự chuyển-di tư-tưởng của thổ-dân như vầy: “Có nhiều người du-lịch về xứ nói rằng: Dân bổn-xứ tại Úc-Châu muốn thông tin-tức cho nhau thì lấy khói lửa làm dấu hiệu”. Sự thật thì chẳng phải như thế.
Khói và lửa làm cho người ta chủ ý đến mà thôi. Thí dụ tôi muốn truyền một cái tin cho anh tôi ở cách đây hai ba chục dậm Anh. Tôi đốt khói bay lên rồi tôi ngồi tập-trung tư-tưởng tới anh tôi. Luồn khói bay lên cao dân bổn-xứ ở cách xa đây mấy dậm đều thấy. Họ bèn định trí và để cái óc thâu những tư-tưởng bay đến. Nhưng duy có một mình anh tôi nhận được tin tôi gởi đến mà thôi. Đó là cách chuyển-di tư-tưởng mà dân bổn-xứ thật-hành đã lâu, trước khi người da trắng nghiên-cứu tới vấn-đề đó.
Dân bổn-xứ cũng có thần-nhãn. Khi họ nhập-định rồi họ xuất-hồn đi thăm viếng thân-bằng cố-hữu ở xa . . . Các đạo-sĩ ở Úc-Châu cũng có tài kêu mưa hú gió như các đạo-sĩ ở Phi-Châu vậy.
IV
Ở PHI-CHÂU
Năm 1899, ông Đốc-tơ J. Shepley Part, nguyên cựu lương-y ở thuộc-địa Côte de l’Or bên tây Phi-Châu (Afrique Occidentale) có viết một bài gởi cho “Hội khảo-cứu những vấn-đề thuộc về Tâm-linh ở Luân-đốn” (Société des Recherches Psychiques de Londres) nói rằng: “Trong thời kỳ tôi ở Phi-Châu, tôi thấy nhiều hiện-tượng xẩy ra mà lấy phương-pháp khoa-học cắt-nghĩa không được.
Tỷ như chuyện sau nầy:
Lúc gần xong việc chinh-phục cuối cùng xứ Achantis, tôi ở ngoài mé biển, dầu con đường vắn hơn hết đi từ Coumassie tới biển. Trước ngày mà người ta trông đợi đạo-binh tới Coumassie thì người bồi của tôi cho tôi hay rằng “Quan Thống-Đốc đã nhập thành hồi đúng ngọ.”. Một giờ sau, viên tù-trưởng, người có học-thức cũng cho hay tin ấy. Ổng thấy tôi tức cười, ổng bèn nói: “Dân bổn-xứ có cách thông tin-tức nhậm-lẹ hơn phương-pháp của người da trắng dùng. Quả thật chiều bữa sau có tờ thông-tư chánh-phủ chứng-nhận tin ấy.
Tôi phải nói thêm rằng: “Đường giây-thép phía trên thì thuộc về nhà-binh kiểm-soát còn những đường ở mé biển thì để thông tin-tức của chánh-phủ mà thôi. Đầu đường giây-thép của nhà-binh cách Coumassie từ 30 đến 40 dậm Anh”. Mấy thầy giây-thép không thể nào thông tin với nhau được. Những trạm chạy ngựa phải mất 5 ngày từ mặt trận đi tới đây, trong xứ đầy những rừng-rú. Còn nói rằng dân bổn-xứ dùng tiếng trống đặng thông tin cho nhau dọc theo mé sông thì cũng không đúng vì không có đường-thủy đi ngay từ Coumassie tới mé biển.
LOÀI THÚ CŨNG BIẾT CHUYỂN-DI TƯ-TƯỞNG CÁCH HỮU-TÂM
Ông Fabre có thuật lại sự thí-nghiệm của ông như vầy: Tôi bắt một con bươm-bướm cái thuộc về giống lạ ít có lắm, bỏ vô lưới để trong phòng, mở cửa sổ. Giống bướm nầy dám chắc ở chung quanh đó không có. Muốn kiếm vài con phải đi xa lắm lối mấy chục cây số. Sáng bữa sau, tôi thấy đậu trên vách và trên trần trong phòng năm sáu con bướm đực một giống với con cái”.
Mình suy ra biết trong lúc ban đêm con bươm-bướm cái thông tin cho bọn nó hay rằng nó bị nhốt trong phòng nên mấy con đực bay lại với con cái. Chúng nó thông tin với nhau bằng cái vòi, vì cái vòi giống như cột vô tuyến-điện để truyền tin và thâu tin. Như thế mới biết Trời sanh loài nào cũng có sự khôn ngoan cả.
Bây giờ tôi xin nói qua tánh-nết cái trí và cách sửa trị nó đặng nó trở nên một khí-cụ đắc dụng trong tay con người.