GỐC RỄ TRIẾT VIỆT
II
Cây Việt
1. Như trên đã nói chữ Việt chính nghĩa là siêu việt. Về sau đại chủng lấy làm tên cho chủng của mình thành ra Việt tộc. Rồi về sau, một số chi bắt chước cũng dùng tên Việt đặt cho chi mình, trong sử gọi là Bách Việt. Người ta đếm được đến hàng tá Việt trong đó Việt Nam gồm Lạc Việt và Việt Thường, còn đến 70% Bách Việt ở lại miền Bắc để ra người Tàu. Sau dần các chi bỏ tên Việt hầu hết, còn có Việt Nam kiên trì giữ tên Việt, tính ra trong sử đến 6 lần, nên tên Việt còn theo đến ngày nay. Phải chăng Trời định thế cho giòng Việt có kẻ nối dõi tông đường khói nhang nghi ngút, cho triết Việt có chỗ phục sinh?
Như vậy Việt Nam chỉ là một chi của đại chủng Việt, còn chính chữ Việt thì có nghĩa là siêu lên, nhưng siêu lên một cách rất Việt, nghĩa là không siêu lên một chiều lên hay xuống, mà cả lên cả xuống, sau nho gọi lên là "triệt thượng" hay "phối thiên", siêu xuống là "triệt hạ" hay "phối địa". Triệt thượng thì biểu thị bằng chim Hồng Hộc cũng gọi là Thiên Nga ý chỉ nói bay cao sát trời. Triệt hạ thì chỉ bằng rồng lặn sâu tận đáy biển. Ý tưởng thâm sâu đã được minh họa lại trong Cây Việt. Ðây là một may mắn cực kỳ lớn lao.
2. Vì Cây Việt có nét đặc trưng nổi bật là lưỡi cong xéo. Loại tìm được ở Ðông Sơn lại có hình trên 2 giao long đang cài tay gọi là hát cài hoa kết hoa, dưới là 3 người đeo lông chim đang múa. Tất cả chìa khóa của nền văn hóa Việt tộc cũng như Việt Nam nằm gọn trong bộ số 2-3 này. Như trên đã nói người Việt là "dân ưa dùng số 5 và đeo lông chim khi múa". Ta hãy khởi đầu xét tự điểm dễ nhất đó là tiên rồng ở trong Cây Việt. Ở đây ta gặp tiên rồng trong người đeo lông chim và hai giao long như được khắc rõ trong cây Việt. Ðó là dấu chỉ rõ nhất mẫu số chung của đại chủng. Các chi khác khi lìa gốc thì nhiều chi bỏ bê mẫu số này. Thí dụ Tàu đi nhận Bạch hổ, mãi sau mới nhận lại được có nửa bố là rồng, chứ thiếu chim tiên (đó là dấu phụ hệ) còn Việt Nam thì giữ y nguyên cả tiên mẫu lẫn long phụ kể ngay từ lúc phải lìa đại chủng.
3. Theo lưu truyền vào năm 2879 trước Kỷ Nguyên, Việt Nam tách rời khỏi đại tộc, để làm một nước riêng, thì họ khai quốc gọi là Hồng Bàng tức chim và rồng như đã nói trên. Chỉ ghi rằng lúc trước khi ta còn thờ mặt trời thì là các dương điểu (cũng gọi là hỏa điểu) như trĩ cũng gọi là Lạc địch và Chương dương, Tất phương, Uyên ương... Tất cả đều mang dấu Việt là tả nhậm con nào cũng "chấp kỳ tả dực": xếp cánh tả. Và thường có 1 chân 8 cánh (thái cực và bát quái). Ðây là thời Viêm Việt hay Hoàng Việt. Từ Họ Hồng Bàng thì bước lên đợt thờ Trời, nhận chim nước để liên lạc với cha ở thủy phủ, đó là Bàng cũng đọc là Bàn như trong Bàn Cổ và Bàn Quì. Bàn Quì là thứ rồng một chân (không nói có 8 cánh nhưng thấy nói ông Vũ xoè cánh đánh trống). Vậy hai chữ Hồng Bàng nói ra bằng hình ảnh cái nét song trùng sơ thủy cũng gọi là lưỡng nhất (dual-unit) mà các nhà nghiên cứu quen gọi là nét đặc trưng của Ðông Nam Á. Ðó là thứ số co giãn hai mà một thành ra ba, nên cũng gọi là "vài ba" nó nói lên mối Tương quan nền tảng giữa không và có, ngược với văn minh tây âu có hay không. Bộ số "vài ba" này cũng nói lên rằng văn hóa Việt không bao giờ đánh mất nguyên lý Mẹ như văn minh tây phương đã đánh mất (được chỉ rõ do hai ông Bachofen 1851 và Briffault 1927).
4. Ðiểm hai là bộ số "vài ba" hàm tàng một chân lý tối quan trọng được Việt tộc chú ý đặc biệt đó là nó diễn tả sự hòa hợp giữa hai thế đối ngược (chẵn lẻ) mà tây âu gọi là mâu thuẫn còn Việt tộc gọi là bổ túc, chẵn lẻ đây đại diện cho tròn vuông.
Duy vật ưa hình vuông chỉ địa, chỉ có, hay là hữu, với siêu hình là Hữu Thể học giỏi về ngoại vật (ontology).
Duy tâm ưa tròn (rắn cắn đuôi) với siêu hình đặt trên Vô thể: Thế giới ngoài bị gọi là "tuồng ảo hóa đã bày ra đó" (maya).
Việt tộc nhận cả tròn cả vuông nhưng đặt tròn trên vuông, dân chúng quen nói "mẹ tròn con vuông" với ý nghĩa là văn trên võ, nhân nghĩa trọng hơn tiền tài, nó làm ra một lối sống giàu tình người, nên rất uyển chuyển được diễn tả bằng nét cong. Có thể nói nét cong là hậu quả của tròn vuông cộng lại. Nét cong được diễn tả ba cách một là bằng chữ S đứng. Hai là chữ S ngã như dấu Ðông Sơn ~. Ba là mái cong, đao đầu cong, để chỉ lối ở đời đừng quá cứng kiểu duy lý, logic, nhưng phải uyển chuyển theo tình người.
"Yêu nhau trăm sự chẳng nề,
Dù trăm chỗ lệch cũng kê cho bằng".
Nhà Việt cong ngay từ xa xưa như thấy trên trống Ðông Sơn, còn bên Tàu mới cong từ đời Ðường thế kỷ 8. Nét cong được diễn trong Cây Việt ở hình lưỡi cong xéo. Cong xéo đây là hậu quả giữa vuông (sống phủ Việt vuông búa) cộng với tròn (ở đây là lưỡi sắc thay cho tròn vì vuông tròn cùng diễn bằng nét sắc chỉ nét dọc I hay là O nên nét sắc là đại diện tròn) hai đàng tròn vuông hợp nhau làm thành nét cong vì thế Cây Việt có tính Việt hơn đâu hết: (1) đã rồng tiên; (2) còn 2-3; lại thêm nét cong nữa!
Hình Cây Việt
1. Hình Cây Việt (chính là phủ Việt) tìm được ở Ðông Sơn có khắc 5 hình: chìa ra 2 tầng: trên, 2 giao long đang giao chỉ (giao tay); dưới, 3 người mang lông chim (hay 3 con vật). Lưỡi Việt cong xéo. Nét cong là nét đặc trưng của Việt tộc nằm giữa vuông và tròn cộng lại thành nét cong. Tuy ban đầu nước ta không gọi là Việt, nhưng Cây Việt mang dấu tính Việt là tiên rồng thì còn hơn danh hiệu.
2. Một phủ Việt khác đã trút hết hình nhưng điểm đặc trưng là nét cong thì nổi bật. Nét cong do hình vuông ở sống vuông và lưỡi phủ Việt sắc (chỉ đường thẳng thay cho tròn) làm thành, nét cong lại là cái cung (cong) cũng đọc là phủ, một thứ hình thêu vào áo tế.
3. Hình Thao Thiết là đồ đồng đời Thương. Chính ra là hình thần rồng (giao long) gặp được ở nhiều đảo Thái Bình Dương đan bằng một thứ cây mềm thành hình cá sấu có mang lông chim, miệng mở rất lớn để nuốt lọt người được điểm đạo vào bụng để được tẩm nhuận linh lực (Mothers trang 323: Kopiravi) khi truyền vào đất liền thì được đúc thành đồ đồng. Sau lại biến ra Văn Qui long, rồi cuối cùng ra chim và rồng, tức tiên rồng hòa hợp rồi lại phân cực.
4. Văn quì long biến từ Thao Thiết thành một thứ nửa chim nửa rồng. Là Rồng nên có chân trước chân sau, là chim nên có cánh.
5. Thao Thiết đang biến trở lại thế rồng, có lẽ đây là nơi phát xuất ra con rồng ngày nay: nơi giao long góp 4 chân với xà long góp cái mình dài. Các nhà nghiên cứu gọi đây là nghệ thuật sông Hoài, vì có lẽ vụ biến thể nọ xảy ra ở miền đó. Ðó là miền hơn kém thuộc Giang Tô trước kia có Châu Từ quê hương đồ sứ (do chữ Từ, Tàu phát âm là Sư) quê hương Nữ Oa Thái Mẫu và Phục Hi.
6. Vài hình người hóa tiên tức là mọc cánh chim, nên chim là tiên, tiên là chim. (Hình người tiên có lông chim nên gọi là Vũ hóa. Vũ là lông chim đối với Mao là lông thú).
7. Hình vuông tròn biểu thị bằng bánh dầy bánh chưng. Ðây là tròn vuông diễn bằng cách xếp các quẻ Kinh Dịch. Hình tròn vuông diễn bằng số là lẻ chẵn: 3-2 trong Cây Việt, tàng ẩn trong hai giao long và ba người.
8. Hình thái cực phân lưỡng nghi phát xuất từ 2 giao long số chẵn (chỉ âm) và 3 người (số lẻ chỉ dương). Dương tròn, âm vuông, khi cộng lại thì ra hình cong chữ S.
9. Cũng hình cong nhưng lấy ra khỏi âm dương và đặt ngang để trở thành dấu Ðông Sơn ~ = ~. Và cũng là dấu của Việt tộc. Nếu Tây Âu gọi được là vuông, Ấn Ðộ là tròn, thì Việt là cong. Cong là sản phẩm của vuông tròn cộng lại.
10. Hình cong kép gọi là hình xoáy ốc, cũng là một diễn đề (leimotif) của Việt tộc, nhiều nhà nghiên cứu đoán là phát xuất từ hình rắn uốn khúc.
11. Vài hình cong khác, nó là dấu đặc trưng của Việt tộc. Tàu phân biệt chút ít bằng hồi văn gẫy khúc có trong cái tước.
12. Nhà mái cong. Ta quen nghe nói nên "tránh góc ao đao đình vì có quỉ ở đó". Ðấy là hình thái sa đọa ra dị đoan. Sự thực là nét cong chứa ẩn bài học ở đời nên tránh sự bắt góc đừng quá lý sự mà phải uyển chuyển theo tình người, đó là lối ở đời đặc biệt của dòng Việt được tiền nhân khảm vào nhà ở. Nhà Việt mái cong mãi từ Ðông Sơn. Nhà Tàu mới cong tự đời Ðường.
13. Hình Cái Tước, một thứ chén tế lễ đời Thương diễn tả rõ con số vài ba: 3 chân 2 tai, trong các đỉnh cũng 3 chân 2 tai, nhà 3 căn 2 chái v.v... "tham thiên lưỡng địa nhi ỷ số" Thuyết quái 1.
14. Hình trong cái qua: trên, 3 người; dưới, 2; sửa soạn cho ngũ hành trong Sách Ước
Phụ Trương Cây Việt
1. Ban đầu chúng tôi có ý né tránh dùng nhiều tiếng Việt, sợ có thể bị mang tiếng ái quốc quá khích, nhưng càng nghiên cứu càng thấy không né tránh, bởi từ Việt có nghĩa là Siêu Việt trước, rồi sau tổ tiên Việt tộc mới dùng để gọi chủng tộc mình, làm như là lý tưởng để miêu duệ cố vươn tới, chứ tuyệt không có ý gì là kiêu thái ra vẻ ta đây là giống siêu việt. Rồi lâu ngày từ Việt đã trở nên tên thị tộc và lan rất rộng tức rất nhiều chi tộc cùng mang tên Việt. Hình như có lúc tên Việt được dùng làm tên chung toàn khối. Hơn thế lại thêm có được di vật đầy ý nghĩa kèm theo nên cuối cùng chúng tôi không ngần ngại dùng. Lúc ấy tôi mới nhận ra lối làm việc kỳ lạ của các nhà nghiên cứu lớp trước (mà nay nhiều nhà ngữ lý còn lập lại cách ngoan ngoãn) là cứ đặt đại ra tên mới mà không xá gì tới những tên quen thuộc trong sử như Man, Di, Nhung, Ðịch, Khương và nhất là Việt. Họ ở chỗ nào trong cái tên hổ lớn Austronesien, Austroastique? khiến những người không chuyên muốn nhận diện mấy dân cũ Cửu Lê Tứ Di chẳng biết đâu mà lần. Hai tên mới này cũng giống tên Mông Cổ xưa. Tên này được dùng nhiều do giả thuyết là sau đại hồng thủy loài người chết hết còn một ít giống người sống chung quanh Thiên Sơn... rồi dần dần tỏa ra nhiều nơi. Những người tỏa xuống phía Ðông là dân da vàng gọi là Mongol nên hễ là da vàng thì đều bị cho là gốc Mongol: Mongol Bắc, Mongol Nam... Thuyết đó chỉ là một giả thuyết đã giả thiết một khởi đầu nhân loại quá vắn, rất sai với sự thực là loài người đã có lâu đời, có thể cả hàng nhiều trăm ngàn năm. Dr. Leaky cho là ít nhất 800,000 năm. Vì sai lạc thế nên càng ngày càng tỏ ra khó lòng chứng minh được ngay khi đứng về phương diện chủng tộc. Ngày nay nói về người Tàu với không Tàu cũng khó lòng tìm ra dấu phân biệt (Origins 149-150).
2. Tốt hơn hết nên căn cứ trên dấu văn hóa. Về điểm này thì Mongol chẳng có được bao, nếu có kể được ít dấu thì nói là phát xuất tự miền Thái Bình Dương xem ra có lý hơn nhiều. Vì thế thiết nghĩ các dân da vàng nên gọi là Việt hơn là Mongol. Chính chữ Mongol có thể phát xuất từ Lạc Việt như sau: Họ sáng lập Lạc Việt tên là Hồng Bàng. Chữ Bàng cũng đọc là Bàn là Ban là Man (Xem Văn Hiến Thông Khảo của Mã Ðoan Lâm thế kỷ 12 phần các dân phía Nam ngay trang đầu). Ðàng khác theo ngữ lý thì hai âm B, M đều là âm môi nên đổi cho nhau dễ dàng: Bồ côi đổi ra mồ côi, Ban ra Man, rồi Man ra Mân ra Môn dễ nữa.
Còn vụ tiếp vĩ tuyến thêm sau thì không thiếu, thí dụ như Man ra Mana ở vùng Tiểu Nê, Ða Nê chỉ linh lực.
Người Nhật đọc Việt Nam ra Beto-manu. Ðến Mã Lai thì phiền toái hơn chút ít vì trước khi nhận tiếp vĩ tuyến ai thì Man đổi ra Mal. Rồi lắp ai vào thành ra Ma-Lai. Ta có thể hỏi đã xảy ra như vậy cho Mongol chăng vì Man biến ra Mân rồi Mon rồi Mông (miền Nam Việt Nam quen đọc 2 chữ này như nhau: Bang=Ban, Môn=Mông, như có tên núi Mông bên núi Vũ ở Châu Từ (Giang Tô) rồi thêm tiếp vĩ tuyến ol cho Mong hay gol cho Môn thành ra Mongol. Như vậy thì Mongol chỉ là một chi tộc của Việt đã tỏa lên Mạn Bắc rồi nhiễm thói du mục. Giả thuyết này hợp với nguồn gốc văn hóa Tàu mới khám phá ra là do Việt. Trong The Archeology of Ancient China ông Kwang Chi Chang có viết "Sở, Việt, Ba, Ðiền, Miền Nam có thể chứng minh được là tổ của Tàu, tr. 481) tức văn hóa Tàu phát xuất từ miền Nam chứ không từ miền Bắc. Cũng có thể nói như thế về Mon Khmer và Mãn Châu tức cũng do từ Man mà ra. Mới nghe tưởng xa lạ mà phân tích kỹ thì ra có liên hệ vậy đó ngay về ngữ lý. Huống chi các mẫu số khác như tượng, số, chế thì như nhau.
Chỗ này nên ghi chú là: tiếng môn có 2 âm là R-mon và R-man nói lên rõ đây là một chi Việt phát xuất từ Man, thế mà hầu hết các học giả lại nói tiếng Việt bởi Môn. Lẽ ra phải nói Môn do Việt hay nói sát vào từ ngữ thì Môn do Man, cùng quá nữa thì nói Môn cùng một gốc với Mân với Man hay với Ban hay Bàn hay Bàng mới đúng.
3. Về các thứ Nê: Tiểu Nê, Ða Nê, Ấn Nê, Úc Nê... Nê bởi đâu mà ra vậy? Vì trong cổ sử không thấy có âm Nê nào, nên tôi đoán là Lê đọc trại ra Nê... Cửu Lê thì được nói đến nhiều trong Kinh Thư. Còn L đọc ra N thì là điều phổ cập ngay Pháp Mỹ cũng có: Pháp Niveau, Mỹ Level nên về ngữ lý không có ngăn trở. Còn về dấu chung là mang lông chim khi múa. Ấy là chưa kể mấy nét khác.
Sở dĩ ghi chú vài nhận xét trên đây vì không hiểu sao có khuynh hướng chung là cố bỏ rơi từ Việt. Xưa kia Bách Việt ở nước Tàu có đến 70% mà nay không còn tên Việt nào, đang khi Tạng, Hồ, Mãn, Kim, Hán chẳng có bao chứng tích văn hóa và chỉ là thiểu số thì lại có tên đàng hoàng.
Khi thực dân Pháp đến Việt Nam thì họ ghìm tên Việt vào cái khối Indochina (do ông Malte Brun mới đặt ra) để cho chìm mất tăm tên Việt hay nói "Việt do Mã Lai từ Ấn Ðộ tràn sang mà!" Làm liên tưởng tới liên hệ giữa Việt với Atlantis tiếp nối bị dìm mất tích! Sao vậy? Phải chăng vì người Ðông Á đã nhãng bỏ việc hiện thực vai trò triết lý Thái Hòa của mình.
Vậy bây giờ phải làm thế nào.
Thưa hãy nhớ lại thực thi lời trối trăn của tiên tổ là phải: Việt, Việt, Việt. Let us transcend. Transcend. Transcend