GỐC RỄ TRIẾT VIỆT
DẪN NHẬP VỀ VĂN HOÁ VIỆT NAM
1. Văn hóa Việt Nam cho tới nay thường bị coi như cái gì không đáng kể, nhưng nếu nghiên cứu thấu triệt sẽ thấy nó là một trung tâm văn hóa không những cao siêu và thực tiễn của Ðông Á mà còn kiêm luôn cả Thái Bình Dương ăn sang tận Mỹ Châu tự Alaska qua Vancouver xuyên qua Mexico (Astec, Maya) cho tới Peru. Về phía tây bao Ấn Ðộ và xem ra cả Sumer rồi từ đó đi vào Ai Cập và Âu Châu. Cuối cùng với Tàu hay Khổng Giáo thì quá rõ ràng, nhưng không ai ngờ đến liên hệ từ Việt tới nho đó. Chính vì sự thiếu sót này mà cho tới nay các học giả về nho cả Tàu lẫn Tây Âu chưa sao dựng nên được một nền chủ đạo để đáp ứng cho lời đề nghị của hội nghị Triết ở Honolulu 1949 tính đưa Khổng Triết ra làm nhạc trưởng để hướng dẫn cuộc thống nhất hòa âm giữa Ðông Tây kim cổ.
Tình trạng bế tắc đó một phần tại các học giả còn giam mình trong biên giới nước Tàu, lấy từ đời Tần Hán mà gán cho những thời đầu: ít ai nhận thức rằng Tàu mới manh nha từ tộc Thương quãng thế kỷ 15 trước tây lịch. Ðang khi nho đã thành lập xong ít ra từ vài ba ngàn năm trước ở Việt tộc. Tàu cũng là miêu duệ của Việt tộc nhưng xét như dân tộc thì chỉ làm chủ nho ở đợt văn minh tức nho đã thành tựu đầy đủ chứ không trong giai đoạn văn hóa dùng nhiều biểu tượng và huyền thoại, chưa hẳn thành văn, nhưng lại giàu khả năng sáng tạo.
2. Vì thế muốn hiểu nho thấu đáo, hiểu đến độ có thể rút ra từ đó những nguyên lý hợp thời để dựng nên một nền triết mới, một đạo sống khả dĩ chỉ dẫn đời sống hiện đại, thì phải tìm hiểu nho ở đợt đầu mà tôi gọi là Việt nho. Xin nhắc lại chữ Việt đây có 3 nghĩa, một nghĩa chính nổi bật và chi phối toàn bộ văn hóa là siêu việt, còn hai nghĩa sau chỉ là tùy thì một là Việt Nam, hai là Việt tộc là tên đại chủng. Chữ Việt này có lâu trước cả chữ Bách Việt gặp thấy ở sách Cổ Tàu như Kinh Thư, Ngôi Việt Xuân Thu... Hiện người ta còn tìm được một di vật quen gọi là phủ Việt hay cây Việt đặc biệt ở chỗ có khắc hình đủ để biểu lộ căn tính nền văn hóa Việt cách rất việt nghĩa là cách sâu xa đầy đủ. Theo hình vẽ trong đó thì có thể tả người Cổ Việt là "dân có cánh và ưa dùng số 5". Hai điểm này vừa là dấu để nhận diện người Cổ Việt, đồng thời cũng là dấu chỉ đường cho biết tinh hoa văn hóa Việt ở đâu, nó sẽ giúp hiểu được mấy điểm mà các nhà khảo cứu từ trước tới nay vẫn cho là "bí nhiệm" như:
1. Hai gạch Bắc Sơn.
2. Dấu Ðông Sơn.
3. Văn Thao thiết.
4. Qui củ...
3. Ðiều làm cho văn hóa Việt bị quên là tại nó đã thể hiện đúng ý nghĩa cái tên của nó là Việt theo nghĩa siêu việt. Vì vậy tinh hoa của nó chỉ tìm ra được ở chỗ siêu việt chứ không trong những di vật thù lù hay những nghệ thuật đồ sộ, ở đây phải tìm trong dăm ba biểu tượng thí dụ "có cánh" vài ba "lược đồ bằng số độ" rồi phải tự đó suy luận ra kiểu triết siêu hình, cơ cấu, uyên tâm v.v... chứ chỉ đi theo kiểu khảo cổ: rìu có vai với rìu chữ nhật, rồi đo sọ, đo xương, đầu tròn với đầu dài... thì không thể nào thấu tới cốt tủy của nền văn hóa này được. May thay hầu hết các học giả nay đã theo lối ông Groslier bỏ đường lối vụ mắt đó. Lối vụ mắt khiến người ta không tìm được những cái tế vi siêu hình.
Có nhiều học giả đã định nghĩa văn hóa Việt là văn hóa biểu tượng (emblématique). Chữ này theo nguyên nghĩa thì không những biểu thị, mà còn là hiện thực. Trong loạt bài này tôi sẽ thử đi theo lối đó và xin nói lại là embleme không có tính cách biểu thị trang trí mặc dầu có rất nhiều hình, nhưng các hình đó phải là những bàn nhún khác nhau để siêu lên, để vươn tới thực thể u linh không hiện hình. Có thể kể ra đến 5 loại biểu tượng hay đồ án như sau:
1. Tiên Rồng.
2. Cây Việt.
3. Sách Ước.
4. Gậy Thần.
5. Trống Ðồng.
Chúng tôi gọi là loại vì mỗi loại mỗi tầng bao gồm nhiều tượng hình như sẽ xem sau.
4. Vì thế đây không là những trang cổ sử hay khảo cứu chỉ đọc cho biết như những kỷ niệm mà là những giá trị cần được phục hoạt. Ðây không là sử ký để đi tìm những niên kỷ hay những địa danh đích xác, nhưng là những trang huyền sử mà giá trị của nó là khơi lên những ý niệm, những cảm xúc, càng gợi lên những ý niệm, những cảm xúc, càng gợi lên cách thấm thía nồng nhiệt thì càng có giá trị. Vì nó sẽ giúp vào việc quang phục lại được một đạo sống đã tỏ ra rất hữu hiệu vì đã trường tồn suốt thời gian dài dằng dặc quen gọi là bốn ngàn năm văn hiến mà sự thực có thể là vài ba chục ngàn năm vì những ấn tích đầu tiên như mang cánh chim, thờ tổ tiên, kính mến mẹ đã gặp thấy từ văn hóa Hòa Bình, mà Hòa Bình quãng muộn nhất cũng là 12 ngàn năm, còn sớm thì phải từ 50 ngàn năm. Các nhà nghiên cứu cho rằng phải có từ vài ba trăm năm trở lên mới đủ cho một ý lực lắng đọng thành biểu tượng rồi biểu tượng thành đồ án (diagrams). Vậy mà văn hóa Việt đã để lại đến 5 tầng đồ án với những hình thái cực phong phú, mà vẫn liên kết với nhau cách cơ thể, nên tôi cho là 5 tầng phát triển của một thực thể. Ðây là những ấn tích hết sức cao đẹp phải được gọi là bấy nhiêu lâu đài của một nền văn hóa cổ kính nhất của loài người đã một thời lan rộng khắp hoàn vũ.
Với người Việt (...) đang bơ vơ trước 12 bến nước, với tất cả con người hiện đại đang đói khát tinh thần vì những niềm tin cũ đóng hộp đã quá hạn, đã cạn hết chất dưỡng nuôi... tất cả đang cần một bản đồ linh thiêng với một đối tượng phụng sự. Vậy sự tìm hiểu văn hóa Việt tạo nhiều cơ may giúp ta tìm thấy được hai điều đó hơn đâu hết. Và xin nhắc rằng tìm hiểu văn hóa Việt nho không còn là để thỏa tính hiếu tri để mà tưởng nhớ như một kỷ niệm, mà chính là những giá trị nhân bản tinh tuyền cần được phục hoạt ngay trong bản thân mình, cho nước mình, cuối cùng cho cả nhân loại trên khắp cõi đất
TIÊN RỒNG
1. Ta hãy bắt đầu bằng tiên rồng, hai vật biểu của Việt Nam thăng hoa từ hai vật tổ chim rắn. Ðây là nét đặc trưng quan trọng nhất, dẫn đầu mọi nét đặc trưng sau này. Ðây là con số hai kỳ lạ: hai mà một, một mà hai. Phải siêu Việt mới nhìn ra chỗ đó không thì chỉ thấy có một. Vì thế thường người ta chỉ có một vật biểu: gấu Nga, ó Mỹ, cồ Pháp, voi Ấn, rồng Tàu, v.v... Riêng Việt có hai mà lại ở hai đầu thái cực: một chim bay tận trời, một rồng lặn sâu dưới đáy biển, thế mà vẫn đi đôi. Chữ đôi này phải được nhấn mạnh vì như trên đã nói đây không là nét nghệ thuật trang trí mà là sự biểu thị chiều sâu xa không đâu có được, đây là mối Tương Quan nền tảng nối hai bên thái cực lại một, để làm nên cái vũ trụ quan năng động, đối chọi lại vũ trụ tĩnh im, đông đặc, một là một. Vì thế chữ Tương ở đây (do số hai mà một) kéo theo nhiều hình ảnh khác để nói lên diễn tiến theo bước tiến hóa của con người: Từ chim rắn vật tổ tiến lên chim rắn vật biểu rồi thăng hoa lên tiên rồng. Từ tiên rồng thăng hoa lên con người là mẹ cha làm thành một trang huyền sử cao cả mà lại thật tế, hơn nữa còn thắm thiết sâu xa: tổ mẫu Âu Cơ (Âu là chim hải âu) đẻ ra cái bọc trăm trứng, rồi trứng nở ra trăm con. Và khi bố mẹ chia tay (để phân cực) thì 50 con theo mẹ, 50 con theo cha rất công bằng không có thiên kiến cha hơn mẹ, trái lại mẹ nắm phần trội hơn để khỏi bị ăn hiếp như trong các văn hóa du mục đực rựa, nơi phụ hệ lấn át mẫu hệ. Vì thế mà nói tiên trước rồng, âm trước dương, vợ trước chồng. Lại còn vụ 50 con theo mẹ lên núi lập nước Văn Lang chứ không phải 50 theo cha, tức là nước được kiến tạo theo tinh thần của mẹ (principle of kinship) nên trong nước không hề có giai cấp bên chủ bên nô, như hầu hết trên thế giới. Theo tinh thần gia tộc thì làm chi có nô, chỉ có bà, con, cô, bác, anh, chị, mẹ, cha: thực tế là mọi người đều được hưởng bình sản và tự do. Bất cứ ai hễ đến 50 tuổi đều được vào hội đồng kỳ mục tức là được vào "quốc hội" của "làng nước".
2. Từ lối sống đầy tình nghĩa đó đã vươn lên quan niệm vũ trụ quan động tức bao giờ cũng có hai đầu thái cực nhưng không bị nhìn là hai đầu mâu thuẫn phát xuất từ hai nguyên ủy khác biệt xa cách, nên trong triết gọi là nhị nguyên (dualism) cả 2 do 2 nguyên nhân khác nhau đến độ không sao hội nhập được phải chọn một bỏ một. Trái lại ở đây 2 thái cực được nhìn như nhau hai mặt bổ túc để làm nên một thực thể vì thế giữa hai cực có một mối Tương Quan cơ thể (organic) tức cả hai cần cho toàn thể: bỏ một bên là chết. Nhưng đây là mối liên hệ nằm ngầm phải có mắt hiền triết mới nhận ra và tả lại bằng thoại ngôn rằng "Âu Cơ tổ mẫu gặp Lạc Long Quân trên cánh Ðông Tương". Ðây là mối liên hệ thuộc bản thể nó quan trọng vô cùng nhưng những nền văn hóa một chiều đã không nhìn ra (Heidegger gọi đó là đánh mất nét gấp đôi) thành ra người theo văn hóa đó chỉ thấy sự vật đặc sệt, một chiều độc khối, tĩnh lặng, vì không nhìn ra mối Tương Quan nối sự vật lại nhất thể, nên chỉ thấy sự vật đa tạp, cá biệt. Ðó là điều sai lầm rất trầm trọng nó chia văn hóa ra hai mảng mà Nietzche gọi là nhát chém chẻ đôi luôn dỉ máu qua các thời đại, bên vô bên hữu, bên chủ bên nô... gây nên đầy bất an xao xuyến. Trái lại văn hóa giữ được chữ Tương nền tảng nọ thì xem vạn vật đều là ngành ngọn ngoại vi làm nên một thể, gọi là "thiên địa vạn vật nhất thể". Nhưng nhất đây không là thái nhất một chiều, nhưng là "nhất nguyên lưỡng cực" và tự hai cực có sự đong đưa bất tận làm nên vũ trụ năng động giữa hai bộ âm dương nhị khí, được ví với sông Tương luôn chảy qua cánh Ðồng Tương chở đầy tình người, tình nước:
"Sông Tương nước chảy hai chiều.
Chàng tại Tương giang đầu.
Thiếp tại Tương giang vĩ.
Tương tư bất Tương kiến.
Ðồng Ẩm Tương giang thủy".
3. Không thấy nhưng cũng tưởng nghĩ đến nhau, hơn thế còn đồng uống trong dòng Tương Giang. Vì thế chữ Tương được diễn tả lu bù bằng những hình tác động "giao chỉ" cơ bản hơn hết như:
1. Nữ Oa Phục Hi giao chỉ bằng đuôi.
2. Hai rồng giao chỉ bằng tay và chân.
3. Chim Hồng giao chỉ với Lạc Long Quân bằng miệng (Hình thuyền tình Bể ái).
4. Hai cặp chim rắn tìm được ở người Mường và mới khai quật được ở Tràng Sa (bản địa của Việt tộc).
5. Hoặc thần chim rắn Quetzalcoatl ở Astec, Toltec (Mexico)... Ðây là hai vật biểu dẫn đầu các dấu chỉ khác chỉ tỏ người bản thổ Mỹ Châu tự Alaska xuống tận Peru cùng thuộc đại tộc Việt (các dấu khác như đeo lông chim khi múa. Thờ cúng tổ tiên, tôn kính mến yêu mẹ (dấu tỏ nguyên lý mẹ vẫn được duy trì bền bỉ).
4. Tất cả các tiêu biểu trên đều nhờ cái bọc Âu Cơ quốc mẫu đã thăng hoa tới đợt cuối cùng thành ra quả trứng vũ trụ cũng vẫn giữ được con sông Tương chảy ngòng ngoèo chữ S làm nên một biểu thị vũ trụ quan cực đẹp, cực sâu xa và đầy đủ không thể nào có được cái thứ hai như vậy.
Có chăng là "Hà Ðồ Lạc Thư" cố diễn lại tích đẻ trăm trứng: Hà Ðồ 55 trứng, Lạc Thư 45 (như xem hình dưới chương IV) cũng chính cái trứng đó đã gợi lên trang sách về sáng thế ký thời danh trong Kinh Dịch:
"Thái cực sinh lưỡng nghi.
Lưỡng nghi sinh tứ tượng.
Tứ tượng biến hóa vô cùng"...
Nhiều học giả phải tán thán rằng đây là trang sử tóm tắt cuộc khai thiên lập địa gọn nhất mà lại hợp với khoa học hơn cả, hợp cho tới vật lý vi thể ngày nay.
Vì chân lý nền tảng trên đây nên người Việt không lúc nào li lìa 2 vật biểu đã biến thành tổ mẫu tổ phụ. Họ khai quốc xưng mình là Hồng Bàng. Hồng là chim thiên nga đại diện cho sự trong trắng tinh tuyền là cái làm cho nên đẹp cái đẹp trinh trong siêu thoát. Bàng là rồng chỉ những chân lý thâm sâu như đáy bể, phát xuất từ cõi tiềm thức u linh. Không những thế mẹ còn đẻ theo lối chim (điểu tục) đẻ trứng rồi ấp ra con. Và cổ thời các bà bao giờ cũng mặc áo có lông hồng, hay vẽ hình chim trĩ gọi là "Ðịch y". Ðịch là một thứ trĩ gọi là "dã kê", "hùng kê" đuôi dài màu ngũ sắc nên biến ra phượng. Còn cha thì vẽ hình rồng trên mình gọi là thể đạo: mặc lấy đạo vào mình. Sách Sơn Hải Kinh kê khai 4 lối tham dự linh lực vật tổ là: (1) ăn thịt; (2) gọi tên; (3) mặc lốt; (4) xâm mình.
Chú Thích:
Con cháu lâu ngày không hiểu bảo là vẽ mình để thủy quái khỏi làm hại, là tin theo lời Cố Dã Vương viết thế trong quyển Ðịa Dư Chí rồi cứ lập lại nguyên văn. Tội nặng hơn nữa là quyển Cương Mục Triều Nguyễn (Tự Ðức) còn đòi bỏ từ Lạc Long Quân về trước. Hoặc gọi sự phân cực là bố mẹ chia rẽ nhau!... Ðó là những lỗi nặng nề phải đền tội bằng nước mất nhà tan. Ðạo mất trước nước mất sau là khởi sự tự đó.
Tiên chim thì dễ thấy ấn tích nơi người mang lông chim. Còn rồng vì vẽ vào mình không thấy trong bức chạm nên dưới đây thêm một phụ chương để đọc lai rai. Nên nhớ rằng tục đua thuyền là để mừng lễ giỗ tổ phụ rồng. Và vì tổ ở thuỷ phủ nên con cháu giỏi đi thuyền (Bắc chi mã, Nam chi chu) và vì giỏi đua thuyền nên tỏa sang tận Mỹ Châu rất sớm không cần qua eo bể Béring