I. Vài nét về hoàn cảnh ra đời sự
phát triển của triết học Hy Lạp cổ đại
Triết học
Hy Lạp cổ đại ra đời trong bối cảnh diễn ra sự chuyển biến lâu dài và sâu sắc
các quan hệ xã hội. Đó là sự ra đời của xã hội có giai cấp đầu tiên trong lịch
sử-chế độ chiếm hữu nô lệ.
Hy Lạp cổ đại trước đây là một vùng lãnh thổ rộng lớn bao gồm phần đất
liền và vô số hòn đảo lớn nhỏ trên biển Egie, vùng duyên hải Ban căng và Tiểu
Á.
Sự thuận lợi
về thiên nhiên, địa lý đã tạo điều kiện cho Hy Lạp nhanh chóng phát triển tất cả
các lĩnh vực, mở rộng bang giao, tiếp nhận nhiều giá trị văn hoá. Vì vậy, nơi
đây đã hội tụ đầy đủ những điều kiện để tư duy con người có dịp bay bổng, để
thoả sức sáng tạo ra những giá trị triết học có ý nghĩa vô cùng quan trọng
trong lịch sử tư tưởng của nhân loại. Xứng đáng là chiếc nôi của nền văn minh
Châu Âu và của cả nhân loại. Đúng như Ph.Ăngghen nhận xét: “Không có chế độ nô
lệ thì không có quốc gia Hy Lạp, không có nghệ thuật và khoa học Hy Lạp, không
có chế độ nô lệ thì không có đế quốc La Mã mà không có cái cơ sở là nền văn
minh Hy Lạp và đế quốc La Mã thì không có Châu Âu hiện đại được”.
Sự hình
thành triết học Hy Lạp không diễn ra một cách ngẫu nhiên mà là kết quả tất yếu
của việc kế thừa những di sản tinh tuý của truyền thống trong sáng tác dân
gian, trong thần thoại, trong các mầm mống của tri thức khoa học (khoa học tự
nhiên).
Hy Lạp cổ đại là đất nước của thi ca, thần thoại. Thần thoại
là nơi để con người tưởng tượng, diễn giải về các hiện tượng thiên nhiên kỳ bí
mà còn là nơi thể hiện đời sống tâm linh, sự hình thành số phận cũng như muôn mặt
của đời sống thường ngày. Thần thoại là nơi đâù tiên để tư duy triết học ra đời
và từng bước triết học tách khỏi thần thoại, tự mình tư duy về tự nhiên, đạo đức,
về xã hội, về lẽ sống, về chân lý, về con người…
Những tinh hoa về toán học, thiên văn học, địa lý, hệ
thống đo lường, lịch pháp,…đã xuất hiện do nhu cầu buôn bán, vượt biển đến các nước
phương Đông. Vì vậy, các nhà triết học đầu tiên của Hy Lạp cũng là những người
đã nhiều lần đến phương Đông và nhiều vùng đất khác.
Như vậy, có
thể thấy rằng sự ra đời của triết học Hy Lạp cổ đại là một tất yếu-đó là kết quả
nội sinh của cả một dân tộc, một thời đại. C.Mác viết: “Các nhà triết học không
phải những cây nấm mọc trên đất. Họ là sản phẩm của thời đại mình, dân tộc mình
mà những tinh lực tinh tế nhất, quý giá nhất và khó nhìn thấy nhất đã được suy
tư trong các khái niệm triết học”.
Triết học
Hy Lạp cổ đại phát triển qua 3 thời kỳ sau:
- Triết học
thời kỳ tiền Xôcrat (thời kỳ sơ khai)
- Triết học
thời kỳ Xôcrat (thời kỳ cực thịnh)
- Triết học
thời kỳ Hy Lạp hoá
II. NHỮNG ĐẶC ĐIỂM CƠ BẢN CỦA TRIẾT
HỌC HY LẠP CỔ ĐẠI
Đặc điểm thứ nhất, triết học Hy Lạp cổ đại là
sự kết tinh những gì tinh tuý nhất của nhận thức nhân loại từ PTSX thứ nhất đến
PTSX thứ hai ở phương Tây vì vậy ở đó đã dung chứa hầu hết các vấn đề cơ bản của
thế giới quan và là một hệ thống tập hợp các tri thức về tự nhiên, về con người,
mặc dầu chưa thoát khỏi trạng thái phôi thai mộc mạc nhưng cũng vô cùng phong
phú, muôn hình muôn vẻ…Ph. Ăngghen nhận xét như sau: “Chính vì trong các hình
thức muôn vẻ của triết học Hi Lạp đã có mầm mống và đang nảy nở hầu hết tất cả
các loại thế giới quan sau này”.
Đặc điểm thứ hai, triết học Hi Lạp đặc biệt
quan tâm đến vấn đề con người, khẳng định con người là vốn quý, là trung tâm hoạt
động của thế giới. Mặc dù vậy, con người ở đây cũng chỉ là con người cá thể,
giá trị thẩm định chủ yếu ở khía cạnh đạo đức, giao tiếp và nhận thức.
Đặc điểm thứ ba, Triết học Hi Lạp cổ đại
mang tính chất duy vật tự phát và biện
chứng sơ khai, cố gắng giải thích các sự vật hiện tượng trong một khối duy nhất
thường xuyên vận động và biến đổi không ngừng. Với ý nghĩa đó, những tư tưởng
biện chứng của triết học Hi Lạp cổ đại đã làm thành hình thức đầu tiên của phép
biện chứng.
III. MỘT SỐ TRIẾT GIA TIÊU BIỂU
HERACLITTE (khoảng 540 - 475)
Ông được xem là trung tâm trong lịch sử của phép biện chứng Hi Lạp cổ đại.
Lênin coi ông là một trong những người sáng lập ra phép biện chứng. Tư tưởng của
ông có ảnh hưởng lâu dài đến sự phát triển của phép biện chứng sau này.
1. Về khởi nguyên của vũ trụ
- Lửa là khởi
nguyên của thế giới, lửa tạo ra từng sự vật cụ thể hàng ngày gần gũi cho đến những
hành tinh xa lắc. “Thế giới này chỉ là một đối với mọi cái, không phải do thần
thánh hay do con người tạo ra nhưng nó mãi mãi đã, đang và sẽ là ngọn lửa vĩnh
cửu, như là độ đo của những cái đang rực cháy và mức độ của những cái đang lụi
tàn”.
- Lửa là cơ
sở làm nên sự thống nhất của thế giới. “Thế giới chỉ là một ngọn lửa đang bập
bùng cháy suốt ngày đêm”. Các hiện tượng tự nhiên như nắng mưa, các mùa,…theo
ông không phải là những hiện tượng thần bí mà chỉ là những trạng thái khác nhau
của lửa. “Cái chết của lửa chỉ là sự ra đời của không khí, cái chết của không
khí chỉ là sự ra đời của nước. Nước sinh ra từ cái chết của đất, không khí sinh
ra từ cái chết của nước, lửa sinh ra từ cái chết của không khí”.
- Thế giới
vận động theo trật tự mà ông gọi là logos: logos khách quan và logos chủ quan
quan hệ với nhau như là quan hệ giữa khách thể và nhận thức. Và như vậy thì sự
phù hợp với logos khách quan là tiêu chuẩn để đánh giá tư duy con người. Đây là
một đóng góp có giá trị của Heraclit cho phép biện chứng sau này.
2. Về sự vận động là phổ biến
Quan niệm về
vận động đã được một số nhà triết học trước đó đề cập nhưng phải đến Heraclit
thì mới tồn tại với tư cách là học thuyết về vận động với câu nói nổi tiếng
“không ai có thể tắm hai lần trên cùng một dòng sông”.
Quan niệm về
vận động của ông có nội dung cốt lõi là tư tưởng về sự thống nhất và đấu tranh
của các mặt đối lập.
Thứ nhất, thống nhất là sự đồng nhất của cái đa dạng
và là sự hài hoà giữa các mặt đối lập. Đồng nhất được xem là giới hạn
theo nghĩa cùng tồn tại trong một tương quan để so sánh, nếu thiếu thì không
còn sự so sánh nữa như là không thể quý sức khoẻ khi không biết mặt đối lập của
nó là bệnh tật.
Tính chất của
sự đồng nhất là tương đối. Bản chất của sự vật chỉ có thể được xác định trong mối
liên hệ với các sự vật khác. Nhưng ở những tương quan khác nhau sẽ cho những kết
quả so sánh khác nhau. “Con khỉ đẹp nhất trong loài khỉ cũng không thể so sánh
với con người. Con người sáng suốt nhất so với Thượng đế cũng chỉ là con khỉ
xét về trí tuệ, sắc đẹp”.
Thứ hai, mỗi sự vật, mỗi hiện tượng trong quá trình biến
đổi đều trải qua các trạng thái đối lập và chuyển thành các mặt đối lập với nó.
Ông viết:
“Cùng một thứ ở trong ta như sống và chết, thức và ngủ, trẻ và già, vì sau khi
biến đổi cái này trở thành cái kia và ngược lại”.
Thứ ba, Đấu tranh của các mặt đối lập không chỉ là sự
đối lập mà còn là sự thống nhất giữa các mặt đối lập, là điều kiện của tồn tại
Trái với
quan điểm đang thịnh hành lúc bấy giờ xem đấu tranh như một hiện tượng hoàn
toàn tiêu cực, như là sự xung đột giữa các lực lượng mù quáng bất động mang
tính chất phá huỷ, Hêraclit khẳng định đấu tranh sẽ tạo ra một trật tự hài hoà
về sự thống nhất.
Theo ông,
cái vốn có ở trong hài hoà là đấu tranh và đó là điều kiện để hài hoà. Ở đâu không
có sự khác biệt thì ở đó không có sự thống nhất. Đấu tranh là nguồn gốc của mọi
cái đang hiện hữu, là khởi nguyên sáng tạo của sự sống và tồn tại. Vì vậy đấu
tranh là phổ biến tất yếu.
Từ quan niệm
về dòng chảy, về vận động là phổ biến, Heraclit đã kháiinh ra một khái niệm triết
học mới đó là Độ. Độ là cái tạo ra sự hài hoà, tính chu ky, tính ổn định, sự biến
đổi của sự vật hiện tượng và các quá trình trong thế giới. Với cách hiểu như vậy,
độ chính là logos của logos.
Với nội
dung triết học được diễn đạt bằng hình ảnh là điểm mạnh đồng thời cũng là hạn
chế của Heraclit. Hình ảnh so với khái niệm là cùng một lúc có thể thu tóm được
các mặt đối lập, biểu diễn được cái chung và cái riêng, gây được những ấn tượng
trực quan sinh động, những mối liên tưởng so sánh nhưng do tính chất đa nghĩa của
nó, khó có thể diễn tả chính xác bản chất của vấn đề vì vậy thường phải viện dẫn
đến những nghịch lý, châm ngôn, một kiểu làm quen thuộc của văn học chứ không
phải triết học.
3. Về nhận thức luận và nhân bản học
Về mặt nhận
thức. Theo ông, nhận thức khởi đầu từ cảm tính thông qua các giác quan để con
người nhận thức các sự vật cụ thể. Ông cũng nhận thấy vai trò không giống nhau
giữa các giác quan trong nhận thức “mắt và tai là người thầy tốt nhất nhưng mắt
tốt hơn tai”.
Ông chia nhận
thức thành hai cấp độ là nhận thức cảm tính và nhận thức lý tính. Nhận thức cảm
tính chỉ là sự tiếp cận với logos nhưng không chắc chắn. Nhận thức lý tính là
con đường đạt tới chân lý nên ông đề cao.
Về nhân bản học. Con người là sự thống nhất cả hai mặt đối lập ẩm ướt và
lửa. Linh hồn của con người là biểu hiện của lửa. Lửa đưa con người đến điều
thiện, làm cho con người trở nên hoàn hảo, lửa là thôi thúc ở trong tim để ngăn
ngừa những cám dỗ vì chống lại khoái cảm còn khó hơn chống lại sự giận dữ.
Theo ông, hạnh
phúc không phải là sự hưởng lạc về mặt thể xác thoả mãn dục vọng mà ở chỗ phải
biết vượt lên trên mình biết nói, biết suy nghĩ, hành động theo logos.
Tóm lại,
Heraclit được xem là mọt trong những người sáng lập ra phép biện chứng. Giá trị
mà ông để lại chính là những vấn đề mà ông đã đặt ra.
ĐÊMOCRITE (khoảng 460-370)
Chiếm vị
trí nổi bật trong triết học Hi Lạp cổ đại là khuynh hướng nguyên tử luận mà đại
biểu là Lơxip và Đêmocrit. Là một trong những nhà triết học duy vật lớn nhất thời
cổ đại.Ông cho rằng, tất cả mọi vật đều hình thành từ nguyên tử, đó là phần tử
vật chất bé nhỏ, cơ sở của mọi vật và không phân chia được nữa. Học thuyết
nguyên tử của Đêmôcrit là thành quả vĩ đại của tư tưởng duy vật trong thế giới
cổ đại. Những tư tưởng vũ trụ học của ông xây dựng trong lý luận nguyên tử về cấu
tạo vật chất và thấm nhuần tinh thần biện chứng tự phát có một ý nghĩa sâu sắc
đối với lịch sử triết học.
Thừa nhận
vũ trụ là vô tận và vĩnh cửu, Đêmocrit cho rằng có vô số thế giới vĩnh viễn
phát sinh, phát triển và tiêu diệt.
Ông phỏng đoán rằng, vận động không tách rời vật chất,
đó là một phỏng đoán thiên tài. Theo ông, vận động của những nguyên tử là vĩnh
viễn, không có điểm kết thúc.
Lần đầu tiên trong lịch sử triết học, Đêmocrits nêu ra khái niệm không
gian. Theo ông, không gian là khoảng chân không
rộng lớn, trong đó những nguyên tử vận động vĩnh viễn. Không gian là những
khoảng trống giữa các vật thể, nhờ đó các vật thể có thể tụ lại hoặc giãn ra.
Xuất phát từ học thuyết nguyên tử, Đêmmocit cho rằng không gian là gián đoạn và
có thể phân chia vô tận.
Đặc điểm nổi
bật của chủ nghĩa duy vật Đêmôcit là quyết định luận (thừa nhận sự ràng buộc
theo luật nhân quả và tính quy luật của các hiện tượng tự nhiên) nhằm chống lại
mục đích luận (là quan điểm duy tâm cho rằng cái thống trị trong tự nhiên không
phải là tính nhân quả mà có tính mục đích). Sự thừa nhận tính nhân quả, tính tất
yếu và tính quy luật trong giới tự nhiên là một trong những thành quả có giá trị
nhất của triết học duy vật Hi Lạp cổ đại.
Đêmocrit có nhiều
công lao trong việc xây dựng lý luận về nhận thức. Ông đặt ra và giải quyết một
cách duy vật vấn đề đối tượng của nhận thức, vai trò của cảm giác với tính cách
là điểm bắt đầu của nhận thức và vai trò của tư duy trong việc nhận thức tự
nhiên.
Nét đặc sắc
trong triết học duy vật của Đêmôcrit là chủ nghĩa vô thần. Ông cho rằng sở dĩ
con người tin vào thần thánh là vì con người bất lực trước những hiện tượng khủng
khiếp của tự nhiên. Theo ông, thần thánh chỉ là sự nhân cách hoá những hiện tượng
tự nhiên hay là những thuộc tính của con người. Thí dụ, mặt trời mà tôn giáo Hi
Lạp đã thần thánh hoá thì ông cho đó chỉ là một khối lửa.
Công lao có ý nghĩa lịch sử của Đêmôcrit là
ông đã bền bỉ đấu tranh cho quan niệm duy vật về tự nhiên. Nó đã có ảnh hưởng
sâu sắc đến sự phát triển tiếp theo của triết học duy vật.
Đối lập với
chủ nghĩa duy vật Hi Lạp cổ đại là chủ nghĩa duy tâm trong triết học mà đại biểu
lớn nhất là Platôn.
PLATÔN (427-347)
Platôn là
người dầu tiên xây dựng hệ thống hoàn chỉnh đầu tiên của chủ nghĩa duy tâm
khách quan, đối lập với thế giới quan duy vật. Ông đã tiến hành đấu tranh gay gắt
chống lại chủ nghĩa duy vật đặc biệt là chống lại những đại biểu của chủ nghĩa
duy vật thời bấy giờ như Hêraclit, Đêmôcrit.
Theo Platôn, giới tự nhiên-thế giới của những vật cảm tính-bắt nguồn từ
những thực thể tinh thần tức là từ những ý niệm; vật thể cảm tính chỉ là cái
bóng của ý niệm. Ông cho rằng, để nhận thức được chân lý người ta phải từ bỏ mọi
cái hữu hình cảm tính; phải “hồi tưởng” lại những gì mà linh hồn bất tử quan
sát được trong thế giới ý niệm. Thuyết hồi tưởng thần bí này được xây dựng trên
cơ sở học thuyết về linh hồn bất tử, tính độc lập của linh hồn với thể xác.
Nếu ở
Đêmocrit, phép biện chứng được sử dụng để phục vụ khoa học thì ở Platôn phép biện
chứng lệ thuộc vào triết học duy tâm. Đường lối Platôn chống lại đường lối
Đêmôcrit trong triết học Hi Lạp cổ đại, chống lại thuyết nguyên tử của
Đêmôcrit. Các hiện tượng tự nhiên bị ông quy về các quan hệ toán học. Đạo đức học
của ông được xây dựng trên học thuyết về linh hồn bất tử là một hình thức của
lý luận tôn giáo, là bộ phạn quan trọng nhất của ý thức tư tưởng của tầng lớp
chủ nô quý tộc.
Là kẻ thù chính trị của chế độ dân chủ chủ nô Aten, Platôn coi “chế độ
quý tộc” tức là chế độ nhà nước của tầng lớp thượng lưu là “nhà nước lý tưởng”.
Triết học Platon được nhiều nhà triết học thời trung cổ
và sau đó, nhiều nhà duy tâm thời cận đại lặp lại dưới những hình thức cải
biên…nhằm phục hồi và đẩy cao tính duy
tâm mà Platôn mắc phải làm cho nó trở nên thần bí hơn với khẩu hiệu “trở về với
Platôn”.