Home » » Vụ Án Thơ Cũ - Thơ Mới- P10

Vụ Án Thơ Cũ - Thơ Mới- P10

Written By kinhtehoc on Thứ Tư, 15 tháng 2, 2012 | 22:55


F - Sự trưởng thành của thi ca Việt Nam
Qua những tài liệu trên đây, ta thấy cuộc tranh luận có vẻ gay gắt, quyết liệt vào khoảng từ 1932 đến 1937. Nhưng từ năm 1938 trở đi, tình hình lắng hẳn xuống. Vấn đề thơ mới thơ cũ, không phải người ta không nói đến nữa, nhưng người ta nói đến bằng luận điệu khác, ôn hoà chứ không có vẻ bắt bẻ, chửi bới nhau nữa : người ta vẫn yêu những áng thơ cổ tuyệt tác, và người ta không ngớt ca ngợi những bài thơ mới kỳ diệu của hàng trăm nhà nghệ sĩ trẻ.
Một điều cảm động nhất là trước đây, ai nấy đều đổ xô vào mà chửi, mà chê Tản Đà, châm biếm hài hước nhà thơ lúc nào cũng như say sưa, thì từ năm 1938, nhất là sang năm 1939, 1940 trở đi, Tản Đà được coi như vị thánh sống của làng thơ. Người ta chia nhau viết về Tản Đà, ca ngợi thơ của ông.
Nguyên một mình Nguyễn Tiến Lãng đã viết một thôi một hồi về Tản Đà :
1)- Nửa đời thi sĩ Tản Đà Nguyễn Khắc Hiếu (Tràng An số 315, 20-4-1938). 
2)- Nửa đời thi sĩ Tản Đà (Tràng An số 317, 3-5-1938) 
3)- Nửa đời thi sĩ Tản Đà (Tràng An số 319, 10-5-1938) 
4)- Nửa đời thi sĩ Tản Đà (Tràng An số 320, 13-5-1938) 
5)- Nhân ngày giỗ Tản Đà (Tràng An số 164, 5-6-1943) 
6)- Đọc lại một kỹ thuật nói về Tản Đà (Tràng An số 167, 12-6-1943) 
7)- Mùa xuân với Tản Đà (Tràng An số 253, 20-1-1944)

Ngay đến Tự Lực Văn Đoàn trước kia thù hằn Tản Đà, luôn luôn bông đùa, bới móc Tản Đà vậy mà năm 1939, báo Ngày Nay đã dành không biết bao nhiêu bài nói về Tản Đà :
1) Thi sĩ Tản Đà do Văn Bình viết (Ngày Nay số 147, 28-1-1939). 
2) Công của thi sĩ Tản Đà do Xuân Diệu viết (Ngày Nay số 166, 17-6-1939). 
3) Một tháng với Tản Đà do Lâm Tuyền Khách viết (Ngày Nay số 171, 22-7-1939). 
4) Vài truyện vui về thi sĩ Tản Đà do Khái Hưng viết (Ngày Nay số 167, 24-6-1939). 
5) Cái duyên của Tản Đà cũng do Khái Hưng (Ngày Nay số 166, 17-6-1939).

Báo Tao Đàn, số 9, 1-7-1939, ra số đặc biệt về Tản Đà :
1) Lưu Trọng Lư viết " Bây giờ đây khi cái nắp quan tài đã đậy lại ". 
2) Trương Tửu viết " Sự thai nghén một thiên tài ". 
3) Nguyễn Tuân viết " Chén rượu vĩnh biệt " 
4) Nguyễn Triệu Luật viết " Ảnh hưởng Tản Đà đối với nhà văn lớp sau ". 
5) Trức Khê viết " Tản Đà triết học ". 
6) Xuân Diệu viết " Một vài kỷ niệm về yêu thơ Tản Đà ". 
7) Nguyễn Xuân Huy viết " Tản Đà dịch văn ". 
8) Nguyễn Tuân viết " Tản Đà một kiếm khách ". 
9) Nguyễn Công Hoan viết " Ông Tản Đà đi bàn việc để tái bản An nam tạp chí ". 
10) Ngô Tất Tố viết " Tản Đà ở Nam Kỳ ". 
11) Nguyễn Nhất Lang " Tản Đà tửu điếm ". 
12) Nguyễn Công Hoan viết " Ông soát vé xe lửa với thi sĩ Tản Đà ". 
13) Lê Thanh viết " Mộng và mộng ".

Từ cuối năm 1936, sang đầu 1937, nhất là từ 1939 trở đi, không còn có vấn đề cũ mới nữa mà chỉ có vấn đề nghệ thuật, đẹp hay không đẹp : người ta đã giải thoát được cái mặc cảm mới cũ.
Lưu Trọng Lư đặt giá trị đích thực của thơ không phân biệt mới cũ
Một người say mê thơ mới trước tiên, làm thơ mới chỉ sau có Phan Khôi, và lên tiếng đả kích thơ cũ kịch liệt ngay sau Phan Khôi, người đó là Lưu Trọng Lư, thì, nay, chính người đó như lơ là với thơ mới quay trở về dĩ vãng. Cuối năm 1942 sang đầu năm 1943, trên báo Tràng An, Trọng Lư viết nhiều bài phân tích cái hay cái đẹp của thi ca cổ điển Việt Nam, và công kích sự đi quá trớn trong việc Tây hoá. Đó là ý kiến Lưu Trọng Lư trong bài " Đàn Nam giao, một nền văn chương Việt Nam " (Tràng An số 34, 9-7-1942) :" Tôi không nhớ vị giáo sư Pháp nào, ở lâu bên ta, đã nói :" Những thanh niên Việt Nam đào tạo ở trường học mới, không có một tinh thần sáng tạo chắc chắn ". Lời bình phẩm có vẻ vội vàng, gắt gao nhưng không phải là không có một phần sự thực. Vì sự thực : cái bệnh ỷ lại là cái bệnh của ta và dã ăn sâu trong xương tuỷ người nước ta, cơ hồ không gột rửa được nữa.
" Không phải bây giờ mà từ bao giờ, không phải ở văn chương mà ở khắp các địa hạt, người Việt Nam đã tỏ ra mình là một giống người sống lười biếng và cẩu thả.
" Nếu dân Pháp được người ta khen là một thứ dân " biết sống ", thì dân Nam rất đáng cho người ta chê về phương diện ấy. Dân Nam cẩu thả và biếng nhát trong sự ăn, sự mặc, sự ở, nhất là trong sự phô diễn về tư tưởng. Ở đây, tôi chỉ muốn nói đến cái điều cuối cùng này mà thôi, vì tôi không muốn ra ngoài phạm vi văn học.
" Cái tinh thần lười biếng và cẩu thả ấy đã làm cho văn chương ta nghèo nàn gần như " không có ". Tự ta, ta không hề cố gắng và tạo tác ra một cái gì hoàn toàn của ta ; ta chỉ muốn hưởng thụ những " của sẵn ", và cam tâm làm kiếp con ve của thơ Ngụ Ngôn. Ta đã vay mượn của người hàng xóm từ một điệu thơ nhỏ nhặt đến một đạo lý cao xa.
" Hồi xưa kia chúng ta là những người Tàu, gần đây chúng ta là những người Tây, và chưa có một lúc nào chúng ta là người Việt Nam cả.
" Nếu ông cố đạo kia không có cái ý hay hay, ngộ ngộ áp dụng vào tiếng ta cái lối viết la tinh, thì ta đến nay có lẽ cũng chưa có chữ quốc ngữ. Và nền văn học của ta không biết còn nghèo nàn đến thế nào nữa.
" Nhưng ta cũng không nên bi quan lắm, và thứ nhất là phải hết sức công bình. Cách đây độ vài mươi năm, ở nước ta đã có một phong trào sùng bái quốc văn, cầm đầu là Phạm Quỳnh tiên sinh.
" Người ta kiểm soát lại các giá trị hiếm có, và " phát minh " ra truyện Kiều. Người ta mới bắt đầu tin ở mình, tin ở tài lực mình, tin ở cái thiên tài của dân tộc, tin ở những cái khả năng ghê gớm của quốc âm. Một tương lai rất mênh mông và rất gần gụi. Người ta hăng hái, người ta nhiệt thành, nguời ta chỉ xin " cúc cung tận tuỵ " cho quốc văn. Một sự nỗ lực đáng đánh dấu lại trên cái lịch trình tiến hoá của dân tộc. Nhưng cái bệnh của nhà Nho ngày xưa vẫn chưa tuyệt nọc : ta vẫn đi vay mượn của người xưa. Xưa kia người ta vay mượn vì quá siêng năng. Và vì một nguyên lý khác : Làm cho tiếng Việt Nam được giầu thêm. Nhưng chẳng khác nào người ta đã " ghép " một giống cây tốt vào một thân cây đã khô héo. Người ta ham vay mượn mà nhãng quên cái gia tài sẵn có của mình. Phải chăng tại những người lúc bấy giờ quá sùng thượng truyện Kiều và coi nó là một cái khuôn vàng cho sự đúc nặn Quốc văn. Mà truyện Kiều, dầu sao ta cũng phải nhận là một tác phẩm chứ thoát khỏi lề lối Tàu : từ cốt truyện cho đến triết lý cuốn sách, nhất là lời thơ, đầy những điển cổ Tàu.
" Truyện Kiều là cái thí nghiệm tốt đẹp thứ nhất của tiếng Việt Nam mà còn bị phải " cố tật " ấy huống hồ là những người sùng bái truyện Kiều, lấy truyện Kiều làm " kinh nhật tụng ". Không những người ta không nhìn nhận cái bệnh ấy của truyện Kiều mà người ta còn coi đó là một sự vẻ vang cho truyện Kiều. Chẳng thế mà ta thấy những nhà chú giải truyện Kiều bắt những câu thơ hay, hay một cách vô tình và tự nhiên, cũng phải từa tựa với những câu văn xưa nào ở trong các Kinh truyện Tàu, nghĩa là họ đã cố làm cho bực thiên tài Việt Nam không sản xuất được một cái gì thật là của riêng mình, của dân tộc Việt Nam. Họ đã gán cho Nguyễn Du những sự vay mượn mà tiên sinh không hề làm.
" Theo cái óc của nhà Nho thì một bậc thiên tài trước hết phải là một " bồ chữ " động một cái gì cũng có thể " dẫn sách " được. Họ không biết rằng : cái giá trị của mình chỉ có thể có bởi mình. Và những câu thơ hay đẹp nhất ở trong truyện Kiều lại là những câu thơ thuần tuý Việt Nam. Những nhà nho chú giải truyện Kiều vô tình đã gây nên một lề thói rất không tốt cho sự gây dựng quốc văn mà chính họ chủ trương : vô tình ngưòi ta vẫn khuyến khích sự vay mượn những danh từ, những điển tích Tàu. Họ có biết đâu rằng tinh thần sáng tạo của ta vì thế trở nên lười biếng và quốc văn không tiến được như ý nguyện . Cái thời kỳ vay mượn của Tàu đến nay đã qua rồi, nhưng điều di hại vẫn còn từ nhà nho Tàu người ta trở nên nhà nho Tây. Ta hãy để lại một bên những người mê say viết Pháp văn ta chỉ nói đến những ngọn bút vẫn một niềm phụng sự tiếng mẹ đẻ và chỉ nên tiếc rằng : Cũng như xưa, tiếng mẹ đẻ không được phụng sự một cách toàn vẹn hơn ? Họ là những người học Tây ; họ có cái khuynh hướng " Âu hoá " những danh từ, những điệu ngữ, cả cái cách xuất diễn tư tưởng. Họ còn dám làm một việc không thể làm được, họ sửa đổi cả những tiết tấu thiên nhiên, những âm luật huyền bí của tiếng Việt Nam. Nhiều khi, việc ấy cũng có thể coi như là một sự cải cách cần thiết, một sự nhu cầu của cuộc đời mới.
" Nhưng cái gì cũng có một giới hạn : cái giới hạn đã bị vượt, điều hay lại trở nên dễ dàng một điều rất xấu. Xưa kia, chúng ta có những chữ sáo rỗng không mượn ở Tàu, thì bây giờ chúng ta cũng lại có những chữ sáo vô nghĩa dịch ở Tây. Thật là không nên nói, mà thật là có như vậy. Những ngữ điệu bị " Pháp hoá " đó hay những danh từ bị Việt hoá đó chính không phải là tai nạn, mà chỉ chứng tỏ một cái bệnh về tinh thần, nguy nan hơn : Chúng ta đã cảm xúc, đã tư tưởng theo người Tây. Cái hình thức kia chỉ là kết quả đương nhiên của biến đổi của một tâm hồn. Trong một bài nói đến thơ Xuân Diệu, tôi có tự hỏi :" ...đã từng ở giữa những xóm dừa, ăn rau sắng, ngửi mùi lúa ngự, ta có thể nhất đán trở nên một người Tây, một người Tây thành thực và trọn vẹn được không ? ". Ở đây, ta hãy thí dụ là có thể được nữa, nhưng đó không phải là một cái lý để " âu hoá " nền văn chương Việt Nam. Nền văn chương ấy nếu nó đã có thì nó phải có mãi, và phải độc lập mãi mãi, đứng riêng ra một địa vị ngoài sự chi phối của chính trị hay kinh tế. Chúng ta có thể mất hết, trừ văn chương. Và chúng ta chỉ mất " văn chương " khi ta muốn " ngoại hoá " nó đi mà thôi, nghĩa là muốn lột hết những tính cách riêng của nó.
" Với sự " âu hoá ", tôi sợ nền văn chương Việt Nam sẽ mất những tính cách riêng, rồi sẽ không thành thực nữa vì bị " mất gốc ". Mà sự " mất gốc " ở địa hạt văn chương rất nguy hiểm. Văn chương không cần phải có những sự phiêu lưu nguy hiểm mới to lớn. Điều trái lại có lẽ đúng hơn. Một ngày rời khỏi khí hậu, cái cây ấy sẽ héo ngay. Nó phải hút chất màu ở ngay chỗ nó mọc. Thật ra nhiều khi nó cũng có thể mang trồng qua chỗ khác được ; nó cũng vẫn sống như thường.
" Cây cam Xã Đoài dời qua làng cạnh nó vẫn sống, nhưng không còn là cây cam xã Đoài nữa. Văn chương Việt Nam chỉ có thể có giá trị khi nó là văn chương Việt Nam mà thôi.
" Chúng ta là lớp người cuối cùng được dự xem một thế giới đương suy tàn : Cái cuộc đời Việt Nam đương trỏ nên một cuộc đời khác...Đó là ta muốn gọi là một sự tiến bộ cũng được, nhưng khi trèo bước tới một cuộc đời quốc tế đó, ta phải nhận rằng : cái gì sâu xa, chân thật trong tâm hồn, trong cuộc đời Việt Nam đã rơi rụng hết, để nhường chỗ cho những cái khác ở ngoài vào...Đó có thể là một sự rất may mắn cho cuộc sinh hoạt của cả dân tộc, nhưng là một điều rất không may cho văn chương. Cái nhiệm vụ của nhà văn Việt Nam trong lúc này thiệt là nặng nề mà cũng thật rõ ràng : được chứng kiến một giai đoạn độc nhất trong lịch sử, nhà văn Việt Nam với sự tai nghe mắt thấy trong giờ phút này phải tạo tác ra một nước Việt Nam trong văn chương.
" Một nước Việt Nam còn ngân mãi bởi những câu hát đúm của các cô gái quê, còn sống mãi bởi cái phong vị say sưa của các cô gái quay tơ (vì cái chế độ đại kỹ nghệ sắp làm chết cái nghề tầm tang đầy thi vị) và lưu giữ mãi bởi cái này và cái kia đã làm nên những cái đặc sắc của một nền văn chương.
" Nhà văn Việt Nam trong lúc này có cái sứ mệnh phải tiếp tục quá khứ, và truyền giao quá khứ ấy lại cho hậu lai, làm cho người Việt Nam bất diệt trong tinh thần, trong tư tưởng.
" Xưa kia ta đã sống một cách rụt rè, lười biếng.
" Đã đến lúc ta phải siêng năng trong sự phô diễn tư tưởng cố gắng trong sự sáng tạo. Với những tài liệu hoàn toàn Việt Nam, ta sáng tạo lại những cảnh đời Việt Nam sắp sụp đổ.
" Tôi cầu nguyện cho sớm xuất hiện một cuốn thơ hay một cuốn tiểu thuyết xây dựng với những tài liệu lấy ở đất nước và một thiên tài của xứ sở, một cuốn thơ hay là một cuốn tiểu thuyết có thể nói với thiên hạ rằng :" Đâylà một tác phẩm của người Việt Nam, một giống người đã nghĩ và đã cảm ".
" Cái tác phẩm mong mỏi ấy, ta phải can đảm mà nhận rằng hiện nay ta chưa có, nhưng rồi ta phải có - nếu quả Trời chưa muốn nước Việt Nam ta phải diệt hẳn ở trong tư tưởng của người đời ".
Trên Tràng An số 69 (3-10-42) Lưu Trọng Lư viết bài " Sự hài hước trong dân chúng Việt Nam ", lên tiếng cực tán nền văn chương dân gian, một nền văn chương thuần tuý dân tộc, không chịu ảnh hưởng Tàu hay Tây.
" Nước ta là trong những nước có một nền phong tục thuần nhã và trang nghiêm vào hạng nhất. Ảnh hưởng Khổng giáo với một luân lý chặt chẽ đã đi sâu vào tâm hồn mỗi chúng ta ; những khuôn phép, lề lối đã làm cho ông cha chúng ta trở nên những trang văn nho lễ độ và đài các.
" Văn chương vì vậy lúc nào cũng đượm một vẻ nghiêm nghị, thận trọng, và nhà văn sĩ hay thi sĩ trước nhất là một nhà đạo đức. Người ta ít tìm thấy những cử chỉ hài hước, bông lơn. Hồ Xuân Hương là một ngoại lệ.
" Nhưng đó phải chăng là tính cách đặc biệt Việt Nam. Văn chương ấy là do một số thượng lưu, tinh ba trong nước, được thấm nhuần văn học, những lời lẽ của Thánh Hiền. Họ là số ít. Ta phải đi xuống thấp hơn, đến những hạng người mà sách vở là non sông, cây cỏ, những người chỉ được học trong quyển sách thiên nhiên : đất đai, đồng ruộng, là nơi họ sống - Tôi muốn nói đến bình dân - Chỉ có bình dân là hình ảnh rõ rệt của một dân tộc...Chỉ ở đó ta mới nhận thấy tâm hồn chất phác, tự nhiên nẩy nở, không bị ràng buộc bởi những tục lệ quá cầu kỳ.
" Đó ta thấy họ ca tụng ái tình, họ biết yêu, và không dấu diếm cõi lòng.
" Cả một văn chương chân thật, cảm động, súc tích trong những câu ca dao mộc mạc, mà bà mẹ hát ru con hay đứa mục đồng nghêu ngao trên lưng trâu giữa những lề ruộng um cỏ, trong những câu hò bên sông, trong những điệu hò khoan, mà ta đã nghe trong những cuộc giã gạo dưới trăng, giữa những làng quê bình lặng, hay trong những truyện cổ tích mà ta đã được nghe bà hay mẹ kể lại cho.
" Tôi để riêng những tính cách đạo tình - người ta đã nói nhiều - tôi, chỉ nói riêng về tinh thần hài hước. Họ châm biếm nhau trong những lời hát ứng khẩu giữa trai gái...Đây ta thấy người dân Việt Nam ranh mãnh, lanh trí, nhận xét rõ ràng về thực tế, thấy rõ những tật xấu, tính hư của người bên cạnh và rất sẵn lòng nêu ra cho kẻ khác thấy. Thực họ cũng hơi ác thật...Đây là người học trò " dài lưng tốn vải " bị diễu :
" Nhất sĩ nhì nông, không gạo chạy rông, nhất nông nhì sĩ ".
" Đây người trọc phú hà tiện bị đem ra làm trò cười, đây một ông già có hầu non, đẹp bị họ chế nhạo...
" Nhưng những tính cách ranh mãnh, mồm mép, đùa bỡn, hơi cay nghiệt ấy không đâu rõ rệt bằng trong một bộ sách - ta có thể gọi đó là một bộ sách, dầu không ai biết nó dầy mỏng bao nhiêu - một bộ sách mà ít người để ý đến, tuy nó rất có giá trị để hiểu biết rõ ràng tâm lý của người Việt Nam dân giả...Quyển sách đó, có lẽ là quyển sách hài hước bực nhất trong tất cả các văn chương, là quyển " Tiếu lâm ". Và đó có lẽ là bộ sách đặc biệt Việt Nam nhất.
" Tương truyền rằng tác giả Tiếu lâm là một người học trò thi mãi không đậu, phẫn chí, viết ra để công kích, chế diễu thiên hạ. Khi làm xong, vì châm biếm tất cả trời đất nên lăn ra cười rồi chết...Tuy nhiên, đó không phải là công việc của một người. Nó cũng như ca dao ngạn ngữ, là của chung của nhiều người, lần hồi truyền tụng cho nhau.
" Người ta đã buộc nhiều về " Tiếu lâm ". Nhưng tại sao lại bắt người ta phải dấu diếm những cái mà lòng họ nghĩ ra...Người ta thường nói đến tính cách quá sỗ sàng, hay cứ nói thẳng...tục tằn của bộ sách ấy, - nhưng nó là cái biểu thị dĩ nhiên của những hạng người sống tự nhiên giữa ruộng lúa, giữa khoảng đất rộng trời cao, không bị một bó buộc tinh thần nào cả.
" Nhưng nếu công việc của " Tiếu lâm " là làm cho cười, những câu chuyện cỏn con, lý thú ấy đã rất thành công. Cái cười tuy thô tháp, nhưng nó là cái cười nở trên những cặp môi bình dị, tự nhiên, nó không như chiếc hoa tỉa vẽ, uốn nắn trong những chiếc chậu kiểng xưa, nó là cây đại thụ bao quát cả một khoảng non sông.
" Ta đã nói bộ " Tiếu lâm " cho ta biết rõ tâm lý của người dân Việt Nam. Trước hết đó là một người vui vẻ, thích diễu cợt, bông đùa. Họ lại rất tỉ mỉ về khoa nhận xét...vạch rõ những bí ẩn của những đời tư...của ái tình...Và họ cười...Họ cười không phải để cải tạo xã hội, để sửa sang tính nết của người họ cười, theo như quan niệm của nhà triết học, họ cười vì họ ưng cười...Nhưng cái cười ấy có vẻ chua cay lắm. Họ nhận xét quá rõ ràng thành ra họ không còn tin tưởng gì nữa. Họ không tin đến cả ái tình, mà ta cho là thiêng liêng, đáng quí.
" Từ chỗ thiếu tin tưởng, họ đến chỗ không biết kính nể ai cả. Cả đến trời đất, quỷ thần họ cũng đem ra châm biếm...
" Sự dĩ nhiên đó không phải là tánh tốt, nhưng đó là sự thật.
" Và cũng như bài ngụ ngôn của thời phong kiến Pháp (Roman de Renart, Les Fabliaux) ta không nhắc đến thơ của La Fontaine, vì đó là văn chương, lời lẽ quá đẹp, ý tứ quá sửa sang, khuôn phép là tinh thần của người dân giả Pháp... " Tiếu lâm " là hồn của dân giả Việt Nam.
" Ta có quyền khinh họ, nhưng ta phải công nhận rằng họ không dối lòng họ. Việc gì phải che đậy những cái không đáng che đậy.
Tuy nhiên tôi không khuyên đọc " Tiếu lâm ", biết đó là những sự thật nhưng có những sự thật ta không cần biết đến. Và ta chỉ nhắc đến tên " Tiếu lâm " để biết rằng nước ta không phải thiếu tinh thần hài hước " (Tràng An số 69, 3-10-1942).
Tràng An số 107 (5-1-43), Lưu Trọng Lư nói về Nguyễn Công Trứ và coi ông có một cái gì chưa từng có ở trong văn chương Việt Nam, một nguồn cảm hứng mau lẹ, quả quyết như một đạo cảm tử :
" Nguyễn Công Trứ không chỉ là một thi sĩ của Quốc gia, mà còn là một bậc công thần xứng với nền Quân chủ, một nhà nho xứng với Thánh đạo, hơn thế nữa, một võ tướng có thao lược, một nhà chính trị có tài kinh luân, một người có tiết tháo. Cái sự nghiệp của tiên sinh ai cũng biết rõ, không cần phải nhắc lại nữa. Ta chỉ nên ký nhận rằng trên tâm hồn của tiên sinh, trên thân thể của tiên sinh, đã un đúc, đã tụ kết lại bao nhiêu cái hay, cái đẹp, cái hùng, cái mạnh của cái tinh hoa chủng tộc.
" Thật là sự điều hoà của những cái tương phản nhau : sự điều hoà của Mộng với Thực, cái ngông cuồng của một kẻ lãng tử, với cái nề nếp của một nho sinh, và cuối cùng là một sự điều hoà của thơ văn với Khổng giáo. Nguyễn Du muốn là người bạn hoàn toàn của thơ văn, đã phải lảng Nho mà theo Phật...Nguyễn Công Trứ vẫn ở trong cái phong khí khắc khổ của Nho, mà vẫn khoáng dật thích thảng như một đồ đệ của lão Trang. Tiên sinh vừa hành binh, trị nước, vừa ngâm hoa vịnh nguyệt mà cái này không hại đến cái kia.
" Thành thực ta phải nhận rằng Nguyễn Công Trứ không có cái nghệ thuật điêu luyện của Chu Mạnh Trinh, Nguyễn thị Điểm, không có cái tâm hồn uyển chuyển của Nguyễn Du, hay cái giọng điệu dễ dàng của Hồ Xuân Hương, nhưng ở trong thi văn của Nguyễn Công Trứ, một cái gì chưa từng có ở trong văn chương Việt nam - một nguồn cảm hứng mau lẹ, quả quyết như một đạo cảm tử. Cái thể ca trù nhờ pháp thần của Nguyễn Công Trứ đã trở nên một thể cách hoàn toàn Việt Nam, rất thích hợp với sự diễn xuất hùng mạnh...Tôi nhớ như có một lần ông Huỳnh Thúc Kháng ví cái điệu thơ ấy với thuỷ triều - thật không phải là một lời nói vu vơ. Điệu ca trù còn hơn là một sức mạnh nữa. Nhưng khi những bài thơ ấy, ngâm lên với điệu phách nhịp đàn, thì ta lại thấy nó có một vẻ hào phóng vừa trả lời vừa kín đáo, vừa gắn bó, vừa sỗ sàng. Nó là một thứ sản vật hoàn toàn Việt Nam, nó phải lâu dài với đất nước. Một ngày kia, năm bảy trăm năm sau, trong cái đám hậu lai man mác, nếu có một người nào còn ngâm được một bài ca trù của Nguyễn Công Trứ chẳng hạn, tôi tin rằng người ấy có một mối u sầu nặng bâng khuâng nhớ tiếc một thời khoáng dật to nhớn, rộng rãi và kiêu sa. Cái thời buổi của những nhà nho tuy vẫn nhọc nhằn cặm cụi với nhân sinh, nhưng cũng là những kẻ " bốc giời " phung phí mà không tiếc tay, những kho tàng vũ trụ, những kẻ biết sống mà cũng biết chơi, biết làm trọn nghĩa vụ mà cũng biết rõ cái đùi non mà giốc hớp rượu cuối cùng...
Cho nên sau một cuộc đời sóng gió, hoạt động, Nguyễn Công Trứ hàng ngày thường thắng một cái xe bò mà ngao du sơn thuỷ. Đó cũng chỉ là để tỏ một lần nữa rằng : sau khi là một bậc công thần, một tay thao lược, một kẻ " chiến sĩ ", Nguyễn Công Trứ ung dung và thích thảng, đánh xe đi ra ngoài cõi thế, vừa phẩy quạt vừa mỉm cười, để đùa với cuộc đời, đùa với số mệnh.
" Nguyễn Công Trứ vào đời nghiêm trang như đức Trọng Ni, ra đời hiền vui như thầy Trang Tử. Không phải chỉ là một thi nhân đáng lưu truyền hậu thế, mà là một quan niệm về nhân sinh đáng truyền bá ra giữa cuộc đời âu tây chật vật.
" Một người như Nguyễn tiên sinh, khi là một vị đại thần, rồi khi chỉ còn là một tên lính nhỏ, rồi từ một tên lính, lại nhẩy lên một địa vị tướng quân, đánh Nam dẹp Bắc, cho đến khi về già thắng một cái xe bò, và cô hầu non, ngao du khắp chín mươi chín đỉnh Hồng sơn, mà người như thế hẳn có thể dạy ta được một cái gì mới về sự sống của con người. Thật là " Lãng mạn ", thật là ngông nhưng mà người ấy đã là một kẻ giúp đời, và có công lớn với Tổ quốc. Nguyễn Công Trứ đã tỏ ra cho chúng ta thấy rằng : văn chương và hành động là hai điều biệt lập, và một tâm hồn lãng mạn cũng không thể hại đến chí chiến đấu, nếu quả người ta muốn chiến đấu " (Tràng An, số 107, 5-1-1943).
Hán Quỳ ca ngợi Thế Lữ, Huy Thông, Nhược Pháp
Trên Tràng An số 108 (24-3-1936), Hán Quỳ ca ngợi Thế Lữ, Huy Thông, Nhược Pháp mà ông coi là giống Lamartine, giống V. Hugo, giống Musset :" Những cuộc cãi nhau về " thơ cũ " và " thơ mới " đã qua. Nay chúng ta chỉ biết có thơ. " Thơ mới " chỉ là một hình thức của Thơ để diễn tả những tính tình và cảm giác của tâm hồn người ta ở thời đại mới.
" Thơ mới " đã đứng vững với tác phẩm giá trị của những thi sĩ có tài : Thế Lữ, Huy Thông, Nhược Pháp.
" Cũng ba tên ấy gợi cho tôi ý viết bài này. Đây tôi không phê bình. Tôi chỉ là một người yêu thơ, ham đọc thơ nói chuyện cùng các bạn những điều hay hay mình đã thấy.
" Xem thơ của ba thi sĩ trên kia, trong trí tôi nẩy ra một sự so sánh : Thi ca Việt Nam vào hồi này cũng tựa như thi ca nước Pháp vào khoảng 1830. Tôi không nói Thế Lữ, Huy Thông, Nhược Pháp giống đủ phương diện những thi sĩ Pháp hồi đó. Nhưng phong trào thơ bên Pháp hồi 1830 và thơ ta bây giờ có chỗ so sánh được.
" Với Lamartine, thi ca lãng mạn xuất hiện. Lamartine đem lại cho văn chương Pháp một lối thơ mới về tình cảm và âm điệu, hợp với tâm hồn người đương thời, nên được công chúng cực lực hoan nghênh. Cái buồn vẩn vơ, nỗi ước ao một đời cực lạc, những tiếng than não nuột trong thơ Lamartine đã làm " mê " cả một xã hội. Nhưng bên cạnh thi sĩ cái hồi đó người ta đã để ý đến một thi sĩ trẻ tuổi khác. Victor Hugo trong hai tập Odes et Ballades  Les Orientalesđã từ thơ ly tao đi đến thơ hùng tráng. Buồn vẩn vơ và mơ ước cuộc đời lý tưởng cùng Lamartine người ta theo trí tưởng tượng của Hugo sống lại thời xưa mãnh liệt cùng những cảnh lộng lẫy của " phương đông ". Đến năm 1830 Musset bước lên văn đàn, cười rộ. Tập Contes d'Espagne et d'Italie của ông là một tiếng cười hóm hỉnh và tinh quái lẫn giữa giọt nước mắt não nùng của Lamartine và những cảnh rực rỡ oai nghiêm của Hugo.
" Ba thi sĩ đi ngang nhau làm thi ca Pháp rực rỡ một thời.
" Nhưng ta hãy để công việc phê bình ba thi sĩ ấy cho nhà văn học sĩ nước Pháp...
" Mỗi lúc đọc thơ Thế lữ, tự nhiên tôi nghĩ đến Lamartine. Cũng như nhà thi sĩ Pháp, Thế Lữ bắt đầu một kỷ nguyên mới về thi ca. Ông Hoài Thanh đã bàn rõ điều này trong một bài phê bình thơ Thế Lữ. Tôi chỉ nhắc qua rằng : Lamartine là thi sĩ xã hội Pháp mong đợi sau những cuộc binh lửa khắp Âu Châu dưới triều Napoléon 1er , cũng như Thế Lữ đã " ru " người ta " dạy cho cả một thời đại yêu " (Hoài Thanh), kiếm sự an ủi trong tình yêu và mơ mộng, tìm một lý do để vui sống sau những vụ đổ máu năm 1930. Thanh niên ta hồi đó đang bỡ ngỡ trước những tấn kịch thảm khốc dễ làm họ chán đời vì chán nản. Thi sĩ Thế Lữ kịp thì ra an ủi họ. Những bài thơ đầu của Thế Lữ đăng ở báo Phong Hoá được người ta hoan nghênh cũng như tập Méditationscủa Lamartine được dân chúng Pháp ca tụng hơn một trăm năm về trước (1820).
" Nếu thơ Thế Lữ " ru " người ta thì thơ Huy Thông mạnh mẽ và mới lạ hơn. Ông Lê Tràng Kiều đã ví Huy Thông nhà thơ ly tao và hùng tráng với V. Hugo. Sự so sánh ấy tôi tưởng đúng lắm từ cái tuổi cho đến cái tài và nàng thơ " Siêng năng " của thi sĩ Phạm Huy Thông.
" Như Alfred de Musset, Nguyễn Nhược Pháp đã dám cười khi người ta đang mơ màng theo Thế Lữ hay hậm hực như mang hận chiến sĩ theo Huy Thông Musset nói truyện Y Pha Nho, Ý Đại Lợi thì Nhược Pháp kéo chúng ta về " ngày xưa ", ngày xưa cũng là một xứ lạ đối với hiện tại của nước ta. Trong cảnh lạ và khác ấy, thi sĩ Nhược Pháp ấy xen lẫn nụ cười của ông, nụ cười " hóm hỉnh " và có duyên rồi ông giục chúng ta cười theo...
" Chỗ giống nhau giữa thi ca nước Pháp một trăm năm về trước vần thơ ta hiện giờ không làm tôi ngạc nhiên. Văn chương lãng mạn Pháp ảnh hưởng sâu xa đến văn chương hiện đại của ta. Vả lại thi ca ta cũng ở vào một trường hợp giống như thi ca Pháp vào hồi 1820-1830.
" Thế Lữ, Huy Thông...cũng là những nhà thơ lãng mạn thành thử đối với Pháp về thi ca ta sống thụt lùi một thế kỷ. Sự chậm trễ đó không có gì đáng trách vì ta theo gót người - nếu có thể nói được như thế. Mà trách sao được ? Chúng ta không có quyền kết án thơ lãng mạn. Tuy thế, xã hội ta ngày nay không phải là xã hội Pháp hồi năm 1830. Ta không thể cấm đoán thi sĩ lãng mạn, mơ màng song ta có quyền mơ ước : ngoài những giờ mơ màng đắm say trong giấc mộng các thi sĩ nên nhìn cảnh đời xung quanh mình mà ca lên cho ta nghe những bài ca nói đến người nghèo, đứa con ghẻ xã hội, một thi sĩ có chân tài thì dù trong giấc mộng đẹp đẽ hay trước một cảnh thực tế thảm khốc dơ dáy, cũng tìm được những vần hay ý mới. Cuộc đời hàng ngày là một kho tài liệu cho thi ca, cho thi ca lãng mạn nữa.
" Về tiểu thuyết ta đã có những quyển như Kép tư Bền của Nguyễn Công Hoan, Giông Tố của Vũ Trọng Phụng. Ta cũng mong các thi sĩ vẽ cho ta đọc những bài thơ nói đến sự thực gần ta như thế " (Tràng An, số 108, 24-3-1936).
Xuân Phương ca ngợi tập Xác Thu của Hoàng Điệp
Bây giờ không còn phải là lúc một tờ báo chỉ bênh thơ mới hay thơ cũ nữa. Trên mặt báo Tràng An, nhà thơ mới Lưu Trọng Lư, bỏ thơ mới, quay về dĩ vãng, ca ngợi, phê bình thơ cũ. Cũng trên mặt báo Tràng An nhiều người vẫn tiếp tục tán dương thơ mới của nhiều nhà thơ mới, có điều họ không khen thơ mới như là thơ mới mà chỉ khen như là thơ hay, thơ có giá trị không đả động gì đến mới hay cũ.Xuân Phương, trên Tràng An số 314 (22-4-38) phê bình và ca tụng ba tập thơ : Hận chiến trường, Điêu tàn, Xác thu là ba tập thơ ra đời năm 1937 :
Với tập Xác thu,ta không phải theo ông Hoàng Điệp ra bãi chiến trường đầy cả xương, tanh cả máu, hay bay lên cung Hằng để nghe ngóng hơi thơ của muôn tiên, để hớp lấy giòng trăng đương chảy. Ta chỉ nhẹ bước theo sát ông, nhập vào ông để cùng ông nuốt lấy cái Đau thương, vồ lấy cái Chán nản trong người ông. Ta hãy nghe tim ông hồi hộp, hồn ông rung chuyển khi mùa thu tới :
Tất cả mùa thu vàng xám lại 
Chán chường cũng lại giết hồn tôi 
(Xót xa)
Và trong lúc ông thất thểu đi tìm lại cái linh hồn trong sạch ngày xưa, ông chỉ thấy trơ vơ những xác chết trên vệ đường : Hẻo lánh bên đường ít quán tranh.
Nầy đây sắp sửa lá xa cành 
Vài ba cánh cửa không buồn mở, 
Khói nhẹ lan chùm cỏ xám xanh 
(Xác thu)
" In hình như ông Hoàng Điệp bị hoàn toàn thất bại trên đường tình, nên ông chỉ lấy cái Đau khổ làm Nàng Thơ để ôm ấp, nâng niu trong những đêm buồn nản ông đã quá tàn ác mà đặt tên người yêu ông là Nàng Đau đớn để kêu gọi, van xin :
Hỡi nàng Đau đớn của ta ơi ! 
Khổ lắm, cho ta một nụ cười, 
Hãy nắm tay ta thêm chút nữa 
Để truyền cảm giác xuống đầu môi. 
(Đau đớn)
" Nhưng càng van xin chừng nào, người yêu ông vẫn không buồn trở lại, nàng vẫn là một hình ảnh đau xót trong trí tưởng tượng của ông mà thôi :
Anh chỉ yêu em...ngồi xích lại 
Cho anh gạn hỏi một đôi điều, 
Cho anh lọc hết giòng cay đắng 
. . . . 
Có phải em là : xác quạnh hiu. 
(Đau đớn)
" Từ cái buồn rướm máu ở đáy lòng ông cho tới cái buồn bao la của vũ trụ, của những buổi chiều vàng úa, của một đêm trăng nhạt nhạt, ông đều tả ra với những lời thơ thật dễ thương và mới lạ :
Trong tôi : 
Mặt trăng mờ nhạt. 
Ngôi chùa đổ nát 
Con đường quạnh hiu. 
Một buổi chiều, 
Tôi đón lời tiêu, 
Tôi đưa lá chết 
Tôi nhìn đám tang, 
...Xác thu vàng ! 
(Đám tang)
" Với ông Hoàng Điệp, ta được thấy những khung cảnh nho nhỏ, xinh xinh và bao gồm được lắm ý nghĩa sâu xa.
Ai đi nhặt tiếng vàng rơi 
Trong trăng trong gió, trong người, mùa Thu.
" Ta cũng đủ hiểu tác giả muốn đi tìm những tấm ảnh tầm thường, giản dị và diễn tả được cái tầm thường " Không màu sắc " ấy, là tài riêng của ông Hoàng Điệp." Mùa Thu của ông mới và lạ lắm, đầy những lá vàng đẫm máu, vang dậy cả tiếng lòng u uất, hình ảnh của một đời tình đau khổ (Nếu tôi không lầm).
" Về nghệ thuật, tập Xác Thuhẳn có phần kém hơn hai tập Hận chiến trường Điêu tàn. Những lối thơ tám chữ của ông Hoàng Điệp cần phải sửa đổi thêm nhiều.
" Nhưng nói về ý tứ sâu xa để giải phẩu tình yêu, nói đúng hơn, một mối tình tuyệt vọng, tràn cả mùi " xót xa ", cả vị " cay đắng ", tập " Xác Thu " sẽ là một tập thơ có giá trị riêng về chỗ đó.
Xuân Phương ca ngợi Hận Chiến Trường của Thanh Tịnh
" Ông Thanh Tịnh với tập Hận chiến trường đã tả hết sự tàn ác của chiến tranh, đã níu hồn ta lại những nơi tràn cả thây người, nặc cả mùi tanh của máu xương và sặc sụa cả hơi thuốc súng. Có lúc ông lại nhịp đàn lòng theo điệu trầm bổng của một chiều mong đợi, của nỗi niềm thương tiếc dưới bóng trăng chênh, hay là một linh hồn " Lạc lối giữa thành sầu mù mịt ".
Xuân Phương ca ngợi Điêu Tàn của Chế Lan Viên
" Giữa lúc ấy, ông Chế Lan Viên lại ranh mãnh hơn, gan dạ hơn. Ông sụy xuống mồ vô tận để đánh thức yêu ma. Ông bay lên nguyệt điện để sai biểu tinh tú. Ông lang thang đi tìm người chiêm nữ lúc ẩn lúc hiện trong đêm biếc, giữa dòng trăng. Ông điên hẳn lên, ông không phải là ông nữa, ông là cái sọ dừa vỡ rạn, ông là đám dân chiêm sống lại, ông là muôn sao đang chới với, ông là máu, là xương, là tủy, là trăng là mây, là gió vv..." Ông Hoàng Điệp lại thầm kín, rụt rè quá. Ông không dám bước nặng, ông không dám la to, vì ông sợ phải lay đổ cả, cái im lặng đầy bí mật của đêm thâu của khói hương bay, của làn sương mỏng. Ông đi nhặt những mảng trăng rơi lả tả trên tà áo của thiếu nữ, ông ngừng hơi thở để nghe những xác cây nẩy nở những lời thán oan của chiếc lá lìa ngành. Ông lại một mình lẳng lặng xây đắp trong hồn ông một cảnh thu kết bằng lá Đau Thương và Cảnh Chán Nản.
" Các thi sĩ thường sung sướng hay đau khổ và thường sống trong những cảnh tưởng tượng. Họ sống riêng trong những thế giới riêng của họ. Nhưng thế giới ấy là bãi Chiến Trường của ông Thanh Tịnh, là cái tháp điêu tàn của ông Chế Lan Viên, là những xác lá chết của ông Hoàng Điệp.
" Nói tóm lại, làng thơ năm 1937 đã hiến cho ta ba viên ngọc quí :
" Hận chiến trường, Điêu tàn và Xác thu " (Xuân Phương, Tràng An, 22-4-1938, số 314)
Lương An ca ngợi Lửa Thiêng của Huy Cận
Lương An, trên Tràng An số 12 (tháng 3 năm 1941) ca ngợi Lửa Thiêng của Huy Cận và nhìn nhận có một nguồn thơ bất diệt :" Đọc những bài thơ này, người ta ngỡ đâu như đọc bài " Premières Solitudes " của Sully Prudhomme, tả bọn học trò còn nhỏ phải đưa vào trường, đêm khuya nhớ nhà ôm nhau mà sụt sùi.
" Tuy nhiên cái đời học sinh trẻ thơ ấy có bao giờ lâu dài được đâu, người ta chỉ có thể vô tư vào độ hai mươi trở xuống ; từ tuổi ấy trở lên người ta đã bắt đầu bước vào cuộc đời và nhấm vị chua cay của nhân tình thế sự. Tâm trí, hoài bão, ý niệm người ta cũng đổi khác đi. Lúc này là lúc phải lo âu, phải suy nghĩ để tìm lấy một xu hướng.
" Thi nhân của ta cũng thế. Tuy sự thay đổi trong đời chàng chỉ là một sự thay đổi không khí cỏn con nhưng cái tuổi không cho phép chàng ngây thơ như trước nữa. Bởi lẽ ấy người ta bắt đầu thấy Huy Cận buồn buồn. Mối buồn của thi nhân bao giờ cũng là một mối buồn vô hạn. Huy Cận cũng trở nên thi sĩ của tình cảm thống thiết, cũng tham lam đòi hỏi tình yêu, nhưng chàng thực chưa nặng tình cùng yêu mến như " Bạn chàng Xuân Diệu ".
" Chàng cũng yêu tất cả, nhớ tất cả. Tâm hồn chàng là một khu vườn cũng theo mùa mà nở hoa hoặc hiu quạnh. Tâm hồn chàng bây giờ là đối tượng của những hiện tượng của thời tiết. Một điều đáng chú ý là cái nhớ của chàng rất đỗi mênh mông và ôm trùm cả vũ trụ.
" Nuôi một mối tình muôn dặm, yêu vẩn vơ một nàng cỡi ngựa trong rạp xiếc, nằm trông lên thả mộng ra khắp phương trời, nếu không phải chàng Huy Cận đang độ vô tư lự thì là ai nữa ! Những hành động thơ ngây, những mối tình trẻ trung ấy phải là của một chàng thi nhân sống ngoài nhân tình thế sự ; chàng thi nhân ấy nếu không phải Huy Cận thì là ai nữa ! Nhưng ngày thơ ấu ấy bây giờ không còn nữa. Bây giờ là độ thanh xuân chạm trán với cuộc đời, bây giờ là lo âu, là nghĩ ngợi. Bắt gặp cảnh biệt ly mà sầu, đi giữa đường thơm mà lo tình mất, thấy dấu chân trên đường mà thẩn thờ, nghe mưa rơi lác đác mà buồn buồn, chao ôi, sao lòng chàng thi nhân của ta thiết tha và dễ cảm xúc đến thế.
" Sở dĩ Huy Cận buồn thương như vậy là vì chàng lo sợ một ngày rất gần hạnh phúc sẽ không cười duyên với chàng nữa, mà chàng thì ham sống và tin vào cuộc đời quá. Chàng sầu vì tâm can chàng bắt chàng phải thế. Đó là một trong những lý do đã đưa chàng lên lầu thơ bất tuyệt. Mối sầu của chàng có thể cho là một mối sầu vạn cổ.
" Từ đây Huy Cận là một con người nặng tình sông núi, cảm gió sầu trăng. Bây giờ chàng đã thấy những sự mâu thuẫn của đời nên thơ chàng cũng rẽ vào lối " đoạn tràng ". Chàng chạy theo rõi một mối tình mất mà thương tiếc ; Chàng ngậm ngùi khi nắng chiều xế vàng trên bãi ; chàng nhớ nhà vì một cảnh tràng giang ; chàng ngơ ngẩn khi bắt gặp một cảnh thu trên núi rừng ; chàng thẫn thờ sau một cái xe tang ; chàng đau khổ khi nghĩ đến một ngày sắp tới người sẽ mất hết linh hoạt để " bước vào mồ nhỏ tí " Chàng đã bị những sự mắt thấy tai nghe hàng ngày cảm hoá và làm cho xúc cảm nhiều quá. Ý nghĩ của chàng chỉ quanh quẩn trong cõi sầu thương ; chàng là thế đó, trọn một đời thương nhớ và hồn bị thiên hạ bỏ đìu hiu ; chàng than thở với Thượng Đế, đã làm ra thân thể con người để đau khổ và để làm nên tội lỗi.
" Huy Cận sinh ra với một tấm linh hồn đơn chiếc, đa sầu đa cảm. Chàng than van không có bạn bè tri kỷ, chàng đi bơ vơ trên đường đời âm thầm và đau đớn. Tình yêu không lưu luyến chàng, mọi việc gợi ra trước mắt chàng sự ê chề, sự chán ghét. Tất cả những nguồn sống ở đời đối với chàng đơn sơ quá nên không thể làm cho cái tinh thần sinh hoạt của chàng (vie intellectuelle) đầy đủ được.
" Tả một phong cảnh tráng lệ biết bao. Mây đun núi bạc chim nghiêng cánh nhỏ, nhẹ nhẹ ánh chiều sa, tưởng ngần ấy cũng đã đầy đủ như một bức tranh của một họa sĩ tài hoa. Chính thi nhân cũng nhận rằng cái cảnh tràng giang ấyđã làm cho mình ca tụng và mê mẩn. Ta hãy nghe thi nhân nói cảm giác của mình :
Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà
" Ngày xưa, Thôi Hiệu đứng trước cảnh lầu hoàng hạc mà ngậm ngùi và thấy khói sóng trên sông mà nhớ nhà.
Nhật mộ hương quan hà xứ thị, 
Yên ba giang thượng sử nhân sầu.
Nhưng ở đây, Huy Cận thấy trời nước mông mênh quá tráng lệ quá mà nhớ nhà. Vì lẽ ấy mà cảnh không tang thương, lòng không hoài cổ, sông không đùn sóng mà cũng ngậm ngùi mối tình lữ thứ." Tả một buổi chiều xuân, Huy Cận viết :
Hai hàng cây xanh 
Đâm chồi hy vọng... 
Nhạc vươn lên trời 
Đời măng đang dậy
Thật là nói đủ tất cả hy vọng, trẻ trung, êm dịu của một mùa xuân." Tả một cảnh thu ở núi rừng :
Non xanh ngây cả buồn chiều 
Nhân gian nghe cũng tiêu điều dưới kia
" Xem chữ " ngây " nó nhẹ nhàng, thấm thía biết bao. Không, mùa thu đến non xanh có buồn gì đâu ; non xanh chỉ thấy trời buồn mà buồn lây mà thẩn thờ lây đấy thôi." Đại để chỉ đơn cử ngần ấy tỉ dụ kể cho hết thì quá dài. Những chữ vừa trích ra đây trong tập " Lữa thiêng " không phải ít. Đọc nó lên là thu được một cảm giác, thấy được một cử động, nghe được một dư thanh. Thực là những chữ " thần tình ".
" Thơ Huy Cận nhờ thế mà trong như thuỷ tinh và đẹp như ngọc thạch. Đọc Xuân Diệu thấy trong người sôi nổi ngọn trào lòng rào rạt ; đọc Huy Cận thấy trong người lâng lâng, tâm hồn khoan khoái. Trí phán đoán sáng suốt mắt nhận xét tinh vi, cách dùng chữ thần tình. Đó là ba đặc điểm của Huy Cận.
" Văn Huy Cận là một thứ văn chải chuốt ; tình Huy Cận là một tấm tình đơn giản mà thấm thiết.
" Đừng thấy chàng buồn buồn mà cho chàng là người lạnh nhạt hững hờ ; đừng thấy văn chàng chạm trổ quá mà cho là mất vẻ tự nhiên. Huy Cận viết văn rất điêu luyện ; song không bao giờ để rơi những ý niệm của mình. Bởi vậy khi đọc thơ Huy Cận ta thấy trong người nhẹ nhàng nhu khoái. Đã lâu lắm từ ngày " Thơ thơ " ra đời đến nay mới lại có một tập thơ đã khiến người phải đọc đến mà sinh vô hạn cảm tình với tác giả.
" Tập thơ " Lửa thiêng "là một tập thơ rất đáng chú ý về tình cảm cũng như về văn pháp. Không cần so sánh cũng đủ nhận thấy đó là một tập thơ hay và tác giả là một thi nhân có đặc tài. Trong công cuộc xây đắp thi giới nước nhà, một tập thơ như thế là tất cả một sự gắng công, và có lẽ là một công trình văn nghệ rất đáng chú ý nữa.
" Huy Cận hiện đang đi tới giữa chúng ta với một tài hoa đương thời nảy nở. Tương lai của chàng chắc hẳn càng tốt đẹp và sáng lạn hơn nữa.
" Lửa thiêng " ra đời, được hoan nghênh nhiệt liệt, cái đó không phải nghi ngờ gì nữa. Nhưng phần thưởng đích đáng nhất cho Huy Cận là tác phẩm của chàng sẽ được sống lâu (Lương An, Tràng An, tháng 3 năm 1941, số 12).
Share this article :
 
Support : Creating Website | phuctriethoc | NGUYỄN VĂN PHÚC
Copyright © 2013. NGUYỄN VĂN PHÚC - All Rights Reserved
By Creating Website Published by KINH TẾ HỌC
Proudly powered by NGUYỄN VĂN PHÚC
NGUYỄN VĂN PHÚC : Website | Liên hệ | phuctriethoc@gmail.com
Proudly powered by Triết học kinh tế
Copyright © 2013. NGUYỄN VĂN PHÚC - All Rights Reserved