36.: Ngải mê có thật hay chăng.
Và cô Ba qua Xiêm chuộc ngải như thế nào?
Về chuyện bùa mê ngải lú, ngày nay còn kể là quá hủ lậu, nhưng nó thuộc về khía cạnh của tin tưởng ngày xưa, cũng nên tìm hiểu chơi cho ra người lịch duyệt. Tôi đã viết rồi trong bộ Hiếu cổ đặc san (cuốn 1 Phong lưu cũ mới”, nay chỉ viết thêm những gì được nghe cô Ba nói lại, gọi bổ túc phần nào.
Một hôm, vào năm 1952, không nhớ rõ tháng nào, hôm ấy thuận tiện vì cô vừa trúng vài chén me khá khủm, nên kỹ sư Bảng chở cô và tôi từ giã Đại thế giới lối 11 giờ khuya, chạy xe con cóc của Bảng ra xóm Đất Thánh Chà, tìm lại động phù dung của Khang. Tôi rót cho cô một chén trà nóng, cô tiếp lấy hớp một hớp rồi nhỏ nhẹ đáp:
- Anh Sển, anh khéo bầy đặt!
Tôi nghe bao nhiêu ấy đã hoảng hồn tưởng đã không xong, nhưng cô ngó ngay mặt tôi và hạ giọng:
- Tôi tưởng anh là nhà văn, nhà khảo cổ, phải khác hơn người thường, té ra anh còn mê tín và tin dị đoan quá chừng chừng! Anh muốn biết có ngải hay không, tiện đây tôi cũng thuật cặn kẽ cho anh nghe, chuyện tin cùng không là chuyện khác không cần biết. Nhưng có mặt ông kỹ sư đây, tôi nói cho hai người biết, nếu tôi muốn bỏ bùa mê cho anh Sển nầy, anh nhớ nhé, tôi chỉ cần đem hết can tràng ra mà đối đãi với anh, rồi tự nhiên lần lần anh cảm và bị tôi chinh phục ngay, chớ ngải với nghệ là cái quái gì anh khéo hỏi! Mà nè, đừng nói lôi thôi lạc đề, ngải hay nghệ là như vầy:
Người ta nói với tôi có ba thứ ngải: 1) ngải Mọi, ở trên cao nguyên, mọi nuôi ngải bằng gà sống, thả gả vô bụi ngải, một thời gian sau xem lại gà chỉ còn bộ xương khô, nhưng ngải mọi chỉ dùng để hại cho người chết, tôi ghê quá, không dám xài. 2) ngải núi Tà Lơn và vùng Xà Tón, nhưng chưa linh chưa hiệu nghiệm cho lắm, vì các thầy ở Bảy Núi vả trên Nam Vang, tài nghệ chưa tinh thông. 3) Ngải hiệu nghiệm nhứt là ngải bên Xiêm do các thầy cao tay ấn luyện, người chuộc ngải phải nằm bảy ngày bảy đêm trần truồng cho thầy ướp phép, và người ấy phải một lòng tin tưởng và cữ kiêng nhiều bề: cữ ăn rau nặng mùi, sẽ bán phai ngải, nhứt là củ tỏi và hành lá, cấm không đi dưới dây phơi quần áo vì uế khí sẽ làm cho ngải bay mất, tránh chun lòn dưới thang gác dưới lầu mà từng trên có đặt cầu tiêu cầu tắm nhiều uế trược, trong mình nếu có đeo cà tha hay dây niệt, thì phải giữ kín không nên cho nhiều người thấy, nhứt là phải giữ tinh khiết, chỗ nào dơ dáy, phải lánh né, v.v... Tôi (Ba Trà) lúc ấy manh giáp chẳng còn, anh mái chính ở mãi Chợ Lớn không ra thăm, nợ vây phủ tứ tung, Nguyệt tiên cung vắng khách, vắng hơn chùa bà Đanh, chà sét ty than hết tiền không cho tôi vay nữa, các công tử lặn mất như sao trên trời đêm ba mươi qua mồng một, nằm gạt tay lên trán, tôi bỗng nhớ lại cứu tinh là chị Hai tóc đỏ, chỉ năm xưa khoe tài ngải bao nhiêu, nay tôi nhớ mà thương chỉ bấy nhiêu, nhưng nghe đâu chỉ có chồng bên Xiêm thì tôi phải qua bên ấy, níu lưng chỉ mà cầu cứu... nhưng rủi cho tôi là lúc ấy quân sư sắp đặt cuộc viễn du của tôi dở tệ, đã biết sa thải những người dư thừa, đã biết thu gọn cho tôi tớ phục dịch, tạm đóng cửa Nguyệt tiên cung giao cho người tin cậy coi sóc, bao nhiêu việc làm nghe trôi chảy, mà trong việc sắp đặt cho tôi qua Xiêm lại quên không biết xin trước giấy thông hành. Dở tệ là vậy. Tôi nói mà hai anh thương, tuy vậy Trà nầy còn người khuất mặt hộ trì, xe vừa bị lính Xiêm giải giao lãnh sự Pháp ở Bangkok, thì bỗng nhiên có cứu tinh xuất hiện.
Đó là một thanh niên Bắc Việt độ tuổi ngoài ba mươi, nhưng lịch duyệt bặt thiệp và đa tình ra phết. Nghe đâu người cha trước đó có công giúp quân đội Pháp sanh cầm đức ngài Hàm Nghi, và để thưởng công, Pháp cho con là ông nầy (tên Đỗ H. nhưng giấu bặt về sau chỉ gọi là l’ agent X.) được học bên Pháp, khi thành tài, bổ nhiệm vào hàng cao cấp toà lãnh sự, nhưng chỉ cho làm ở xứ ngoài như Xiêm chẳng hạn, và không bao giờ cho về xứ, vì e bị cho mò tôm không kịp trối, bởi quả dòng giống “Việt gian” bán nước! Trà gặp H. như buồn ngủ gặp chiếu manh, H. mềm tình người đồng hương thêm Trà sắc đẹp không ai bì, H. niềm nở tử tế chẳng những giúp cô khỏi bị giải về bản xứ, vì xuất ngoại không giấy tờ, H. sẵn biết cô Hai tóc đỏ mà H, có quen trước, thiệt là một buổi “tha hương ngộ cố tri” đáng đích!
Nói chí tình, cô Hai Tóc đỏ đối xử với tôi thật là ngọt. Trong buổi đầu đất lạ quê người, cô đã giúp tôi gặp vị sư tổ hay nhứt của châu thành Bangkok, và phép luyện xong xả, lời thầy ngải ghi chép thuộc nằm lòng, người thứ hai cư xử tuyệt diệu đối với tôi là ông đầu phòng toà lãnh sự Pháp ông Đỗ H., tuy mới quen, và trong nước nạp chưa có chi gọi là “biết nhau”, nhưng ông đối xử với tôi còn hơn bạn tri kỷ lâu ngày xa vắng, bổn thân ông gỡ rối, tôi đã khỏi bị phạt vạ và khi tôi ngỏ ý muốn trở về Sài Gòn, chính bổn thân ông lấy xe nhà tự lái đưa tôi từ kinh đô Xiêm Bangkok, đưa đến tận ranh giới Miên Xiêm, tôi đáp xe lửa, xe thổi còi tách bến, ông mới quay xe trở về Xiêm la quốc. Thiệt là “Làm chi cho bận lòng này lắm thân” và biết thuở nào trả xong món nợ nầy cho phỉ?
Về tới Sài Gòn phen nầy, phép bùa có sẵn, ngải nghệ đầy mình, nhưng người trung tín cho tôi hay Nguyệt tiên cung đang bị chủ nợ bủa vây khắp chung quanh, đặt trưởng toà trực sẵn trông bắt cho được tôi cho vào khám “giam thâu” cho tôi mau trả dứt nợ, mà như vậy còn gì thể diện và tiếng tăm nàng tiên cung nguyệt?
Vì vậy tôi đến Hôtel des Nations đường kinh lấp Charner, mở phòng tạm ẩn mặt, chỗ tôi lánh trần chỉ có bác tài xế trung tín biết và ngày ngày có phận sự báo tin tức, giờ xuống dùng bữa cũng phải chớ không có người khả nghi, tôi mới xuất hiện trong chốc lát cơm nước xong tôi lại rút về động hay phòng, nằm khoanh tôm luyện phép chớ thời. Hai anh nãy giờ nghe tôi kể thuật dông dài và trông nghe sự hiệu nghiệm của ngải. Hai anh có tin củng không, tôi không cần biết, mà người đầu tiên làm vật hy sinh cho tôi thí nghiệm phép Xiêm lại là một người xa lạ, thuở nay chưa quen biết bao giờ? Tôi có ngờ đâu bữa trưa hôm ấy tôi dùng bữa ngó thoáng qua tôi giựt mình tưởng đâu anh Toàn xuống bắt tôi để chở về Phan Rang, người ấy trao cho tôi một danh thiếp nhỏ và xưng là mãi biện của nhà băng Cần Thơ, chi nhánh của Đông Dương ngân hàng Sài Gòn: “Lâm Kỳ Xuyên, comprador de la Ban que de l’Indo-chine, annexe de Cần Thơ” sau tôi rõ lại ông là cơn nhà tỷ phú chủ hãng rượu công ty ở Châu Đốc có đại lý bán rượu nếp gần khắp các tỉnh miệt Hậu giang, và rượu trắng hãng Pháp Distillerie francaise de l’ Indochine làm không lại vì hãng Pháp đặt rượu bằng phương pháp mới, gọi “rượu máy” bằng cám, uống không “mát” không êm giọng bằng rượu hãng Hóc-Tchai Châu đốc, nấu bằng nếp tinh anh vừa bổ, gọi “rượu công-ci” tức rượu công ty, nói theo Tàu. Chưa chi Lâm Kỳ Xuyên để một bao thơ chẵn chòi mười tấm giấy xăng (Cent piastres) cắt chỉ, mà không nói một lời cắt nghĩa đó là tiền gì, hai anh nghĩ xem khi ở bên Xiêm tôi lạy lục thầy Xiêm chỉ xin “cho có tiền”, và nay tiền thinh không đến cách nầy, do Lâm Kỳ Xuyên mê tôi về nhan sắc, hay “sa bẫy” vì ma lực của ngải, đố hai anh giải thích cho êm. 1.000 đồng thuở ấy dùng làm lễ ra mắt, trong lúc một đốc phủ sứ trật hạng gần ngày về hưu mới lãnh được 250$ mỗi tháng, tức 3.000 đồng mỗi năm, hai anh nghĩ xem 1.000 đồng to tát đến bực nào? Mà có phải cho bao nhiêu ấy rồi thôi đâu? Nói tắt một điều, chính người ấy hình như in được giấy bạc “nhà băng” hay sao mà ông ta xài tiền như nước ai cầm chĩnh mà đổ, dẫu nước trong chĩnh cũng luôn có hạn, đàng nầy tôi muốn ngàn nào là được ngàn nấy, trả nợ cho các chỗ tôi thiếu, trở về Nguyệt tiên cung, có một lần ông ấy ở nhà băng Cần Thơ đang làm việc trong khi tôi đang đổ “con mèo” gọi chơi xí ngầu lác (đổ hột “tứ ngũ lục” nói theo giọng Tiều, khi nào hột lật mặt nhứt nhì tam thì thua, nhứt là khi hột lật ba mặt nhứt, gọi tục là “lỗ đít gà” thì thua tróc đít!) Bữa ấy tôi đổ hột nơi nhà 108 Bonard, nhà bác Năm Hy chủ tiệm vàng, tôi sai người gọi điện thoại xuống Băng Cần Thơ xin năm ngàn bạc và bốn giờ sau, quả nhiên có tài xế cổ áo mang chữ tắt “B.I.C.” đem lên tôi kính cẩn năm chục tờ giấy xăng bon bon cắt chỉ, tôi nào chường mặt và cũng không bổn thân nói téléphone mà tiền lên nhấp nháy, hai anh muốn hiểu sao thì hiểu. Ấy thế mà bỗng lúc sau tự nhiên tịt ngòi như phong tên bị cúp nước, chờ không thấy mặt, thơ viết gởi đi không thấy thơ trả lời, sau biết được là vì ông bắt được tôi ngồi chung xe với thầy Sáu Ngọ để vô Chợ Lớn chơi me, ông bặt, ông ghen và “ái ân chỉ có một lần”! Bạc đúc cũng không ai dám xài đến bực ấy, và tôi bị cắt đứt viện trợ, không hiểu tại ông ghen hay một lẽ khác, tại vì tôi không giữ gìn kỹ lưỡng để cho ngải lạt, phép nọ “mất linh”!
Và đó là phen “nhị xuất Kỳ sơn” tôi phải trở lại Xiêm quốc kỳ nhì, để tìm thầy thay bùa niệt và cho tôi ngải mới. Nhưng chuyến nầy tôi đã học khôn được rồi, đã xin cấp giấy thông hành hợp lệ (tire d’ identité thời đó, tiền lệ phí chỉ có năm cắc bạc (0$50) mà hiệu nghiệm vô cùng, có lá thông hành tuỳ thân, đi khắp xứ từ Nam chí Bắc khỏi cần xin phép).
Chuyến nầy tôi đã thuộc đường đi nước bước, đi tìm gặp vị thầy cũ, tôi giải bày cặn kẽ sau khi cột tay cho thầy một sợi tim đèn bằng chỉ vải có vấn một khoanh vàng y năm chỉ mà thời ấy giá không tới ba chục bạc (30$00) và thầy tôi đã dẫn đường đưa tôi ra mắt vị tổ sư, thầy của thầy tôi, tức nói ví dụ, tôi đã gặp Chí Thiện thoàn sư của phái võ Thiếu Lâm, thầy của “mình đồng da sắt” võ sĩ Phan Thế Ngọc anh hùng bạt tuỷ trong truyện Tàu “Càn long hạ Giang Nam”, nhưng Chí Thiệt thì tay chân lành lẽ mới thí võ di quyền được, còn vị sư tổ nầy không phải cùi cũng không phải phung hủi, mà mười ngón tay và mười ngón chơi đều rụng sạch không còn ngón nào, vì ngải quá linh quá mạnh, đã ăn hai chục ngón của thầy trụi lủi! Sau khi nghe tôi giải bày “nhưng phải thoát y vũ trước bàn Tổ”, vị sư cả trao cho tôi đủ số ngải và thần chú lại còn cho một đồ đệ cao tài theo tôi về Sài Gòn, mà vị đồ đệ nầy không ai khác là ông thầy ngải tôi đã quen kỳ nhứt ở Bangkok. Việc đưa người Xiêm qua Nam Việt không khó vì tôi đã có cố nhân họ Đỗ lo cho tôi giấy tờ hợp lệ. Đến Sài Gòn tôi phải ăn chay nằm đất và thoát y vũ đủ bảy ngày nữa là thầy tôi gói phép trở về Xiêm, còn tôi, đạo giới đủ điều, ngải mê ngải quyến rũ “đầy mình”, khi ấy tôi mới dắt một chị đầm chơi thân (Madame Pit) cùng xuống Hậu giang thử phép hay là đấu phép.
Lúc ấy Cần Thơ chưa đúng là kinh đô xinh đẹp miền Tây, như sau nầy báo chí tôn lên, và chị em tôi bị cụ bị nồi ống xuống tới đó không chọn lữ quán Bungalow vì bày binh bố trận có bàn đèn chủ Tây nó không vui, nên chúng tôi lựa Hôtel de l’Ouest, tức nhà ngủ Trần Đắt Nghĩa đóng đô ở đường kinh lấp, nhớ mang tên Pháp là boulevard Delanoue, khiến cho buổi ấy có câu: “Rộn ràng một đoá trà mi, ngoài đường nô nức ong đi bướm về” (lảy Kiều)
Ngày nay chuyện cũ nhắc lại, tôi lấy làm hối hận cho cử chỉ thiếu đẹp của tôi lúc ấy. Mãi biện ân nhân là người rất tốt, thế mà tôi trả ơn bằng hai chữ “đoản hậu” thiệt vô duyên. Tôi xuống tới nơi, ngỡ ngàng bỡ ngỡ, viết thơ mời ông lại phòng, trong khi nói chuyện bằng lời nói trổng điệu đánh dây thép:
- Xuống hồi nào?
- Mới tới!
- Xuống chi vậy?
- Thua quá, thiếu nợ nhiều, xuống kiếm anh...
- Nhiều bao nhiêu?
- Bốn chục ngàn?
- Chớ một giờ nữa được không?
- Được.
Rồi ông ra về, xuống lầu, quá nửa giờ sau, tôi nóng ruột, sai tài xế cầm thơ tay viết mấy chữ vắn tắt, chưa tàn điếu thuốc, bác tài xế xách về một bao bố nhỏ, mở ra, mẹ ôi, giấy một trăm la liệt đầy bàn, đếm đúng 40.000$00. Thình lình anh Tư Phước (Phước Georges theo gánh hát) bỗng xô cửa bước vào, và xui xẻo là hai đứa tôi đang ôm nhau tỏ tình cách mặt theo Tây, chưa kịp buông nhau ra thì khiến có họ Lâm cũng vừa bước vô bắt gặp. Thế mà ông không giận, vẫn bắt tay chào Tư Phước như thường, và Tư Phước ra về rồi, khi ấy anh Lâm có ý bảo tôi sửa soạn để lát nữa anh đem xe lại rước tôi cùng đi Rạch Giá vì anh phải xuống nơi ấy điều tra việc công. Chẳng lành mà chớ, tôi nằng nặc đòi ôm bạc về Sài Gòn trả nợ. Anh buồn rầu bảo đưa tiền bà Pit mang về cho má tôi cũng được còn tôi phải theo anh xuống Rạch giá. Tôi cương quyết một hai cũng đòi về Sài Gòn cho được, anh không nói gì bà Pit khuyên dỗ tôi cũng giả điếc, thế rồi chia tay không thấy mặt nhau từ buổi ấy. Bây giờ tôi nhớ lại việc cũ, không biết tại tôi thiếu tình thương hay tại ngải hành, ngải nầy làm cho ra tiền chớ không phải đẻ ra tình yêu, tôi đểu giả và tàn nhẫn quá, không xứng đáng là có máu giang hồ khí phách, đành lòng nào nuốt của anh Lâm ngót 70.000$: 10.000 ra mắt, 20.000 gầy lại Nguyệt tiên cung, 40.000 nói láo thua bài, một người ngọt đến thế, quân tử đối với tôi đến thế mà tơ duyên ngắn ngủi chỉ một lần giao hoan, nhắm lại sao Ngưu sao Chức có một lần mỗi năm, tệ bạc trời dành hay tôi thiếu sót không hiểu chữ”ân” chữ “nghĩa”? Anh Lâm tha tội cho tôi! (Chỗ nầy cô Ba thuật với tôi thì nhơn vật ấy là họ Lâm, Tàu lai rất giống Toàn, tình nhơn buổi đầu, còn báo Tiếng Dội, thì gọi đó là phó giám đốc ngân hàng Cần Thơ, một Pháp lai đã có vợ người Pháp và si mê nhan sắc của Trà đến thế)
Tôi xin không kết luận và để cho độc giả tự trả lời có ngải mê thật hay là không, chỉ xin nhấn mạnh ngày nay còn sờ sờ gương đàn bà đi xe lam hay xe đò bị thổi bùa mê lột vòng vàng “cho điếm lạ mặt”, chừng tỉnh lại là sự đã rồi, và thiếu chi chuyện ngờ ngợ người tai mắt có học thức vẫn thương người không có chút gì hấp dẫn và khi tỉnh ngộ thì gia đình đổ nát sự nghiệp tan tành, cũng vì một lúc say mê lầm lạc không giải thích được. Cô Ba kết thúc buổi bàn luận bằng bùa ngải mê tín với câu đầy triết lý: “Trai mê gái hay gái mê trai, cũng tuỳ, và ngải linh nghiệm nhứt, nhứt là đối với hàng thức giả, ngải ấy là mối chân tình, nói cách khác là tình thương chân thật, một sự âu yếm thẳng thắn bằng pha nước nóng lau chơn cho chàng đánh tơ nít vừa về, lột giày bổn thân đem cất, lo bữa ăn lo giấc ngủ, nhưng những ấy Trà nói được mà không làm được, Trà là đứa hư rồi! Tại xã hội, tại thiếu giáo dục, tại cha mẹ không biết dạy con hay gì gì nữa? Nghĩ cho má tôi cho tôi ăn củi đòn và mỗi lần đánh là nhiếc “cho tiệt dòng đản hậu (đoản hậu), đến phiên tôi, không đánh đòn không mắng nhiếc, tôi trả thù gián tiếp cho mẹ tôi, mà ân nghĩa anh thầy thuốc và của anh mãi biện họ Lâm, quá là quá ác, và gẫm lại dùi đánh đục, đục đánh săng, cá ăn kiến, kiến ăn cá, Trà nầy quả là đứa không ra gì!
Chuyện bùa ngải làm cho chúng tôi ngẩn ngơ, suốt một tuần vô sở tôi không làm gì cho nên thân, chỉ chấm công ăn tiền, qua thứ bảy sau, chúng tôi hội lại nữa, cũng một mâm đèn, một ống hút trúc Hạ châu quí giá và một nồi hút, Khang khoe là của một ông hoàng ở Huế kỷ niệm, tròn như trái thẩu, vốn bằng đất châu sa Mạnh Thần, có chạm một ông già tay xách gậy đi trước theo sau là một tiểu đồng tay ôm một chiếc đàn tranh và câu chữ nhỏ rí: “Át Tỵ vân vân...” chữ hán tôi không đọc được trọn, vì tôi là một thằng dốt, chỉ biết dọc tẩu nầy chế tạo năm Ất Tỵ đời Kiền long, đến niên hiệu vua Mãn mình thuộc cháo chan, đó là năm dương lịch 1785, tức năm thứ 50 Kiền long (sau tôi nài được mà không phải của Khang và có bạc triệu tôi không cho rớ, vì rõ lại đó là báu vật ngót hai trăm năm, dễ gì gặp!). Hôm ấy tôi lo le một hộp thuốc điếu giẹp bằng đồi mồi Hà Tiên, cô Ba vừa thấy vụt nói:
- Anh Sển cũng biết hút thuốc lá à? Chớ chi tôi gặp anh sớm, tôi có một vật quí tặng anh mà tôi đã làm mất tại ngã tư Cai Lậy, vì bị đụng xe đến bất tỉnh nhơn sự, khi hoàn hồn thì chúng đã chọt mất cái bóp vàng đựng thuốc thơm có nạm hai chục hột kim cương lớn bằng hột đậu, do một ông hoàng “lưỡi đen” ở Xiêm kỷ niệm cho tôi buổi gặp mặt trong khoảng khắc tựa hồ chiêm bao. Nhưng chuyện ấy còn dài và còn lâu mới tới, nay tôi kể tiếp bước đường truân chuyên của tôi cho đủ đầu đuôi cái đã!
Tôi thiệt là không biết điều, anh Lâm đối xử với tôi như đã nói, mà tôi còn hại anh cách khác thật là tàn nhẫn và đáng trách. Tôi ôm bạc kè kè về Sài Gòn, trả được mớ nhắm cho các chủ nợ may mà gặp được tôi, còn lại gần hai chục ngàn, tôi ôm vô cúng trong sòng me sạch bách! Thiệt là đồng tiền phi nhơn phi ngải, làm không chút đổ mồ hôi, nó bội bạc hơn tôi nhiều, và cầm chưa nóng tay nó đã vù bay qua tay khác. Tưởng anh Lâm đi Rạch Giá như lời nói, nào dè anh bốc xe lái thẳng lên Nguyệt tiên cung nằm chờ tôi thẳng thét hai ngày một đêm, trong lúc tôi đang mài miệt say mê trong canh bạc, đi cặp với vua cờ bạc Sáu Ngọ (để lọt mắt anh Lâm thấy mà tôi không dè), và tôi cặp bồ với người khác không đáng gì, và đã bỏ rơi một người đủ tình đủ nghĩa, đủ ân đủ đức như anh Lâm, ông trời có mắt sau nầy, hành hạ tôi như hôm nay cũng đáng!
Tôi xui quá, thua me sạch túi, một thời gian nằm nhà trốn nợ, bổng thần tài chiếu mạng, tôi gặp một công tử xứ Trà Vinh trùng tên với cậu chủ rạp chớp bóng Cần Thơ. Nhưng B. đã có vợ là cô Tám B. để cho ở nhà ở Tiểu Cần, bất hạnh cho tôi, ngày B. đưa tôi lại hãng Auto-hall kéo cho tôi một cái xe cắt chỉ bốn chỗ ngồi Citroen, thì cô Tám lên Sài Gòn tìm chồng, bắt gặp tôi tại trận, báo hại hai đàng gấu ó đến đưa nhau xuống bót quận Nhì, B. xấu hổ, biệt vợ nhà, dắt tôi lập ổ uyên ương xài không mấy tháng, đổ nợ lung tung, B. bị bắt giam thâu vào khám, tôi lo tròn cho B. đủ cơm đen cơm trắng, ít lâu sau B. được tha, nhưng sạch túi, cả hai đành chia tay, B. về xứ, tôi vừa đói vừa bơ vơ lạc lõng...
Về chuyện bùa mê ngải lú, ngày nay còn kể là quá hủ lậu, nhưng nó thuộc về khía cạnh của tin tưởng ngày xưa, cũng nên tìm hiểu chơi cho ra người lịch duyệt. Tôi đã viết rồi trong bộ Hiếu cổ đặc san (cuốn 1 Phong lưu cũ mới”, nay chỉ viết thêm những gì được nghe cô Ba nói lại, gọi bổ túc phần nào.
Một hôm, vào năm 1952, không nhớ rõ tháng nào, hôm ấy thuận tiện vì cô vừa trúng vài chén me khá khủm, nên kỹ sư Bảng chở cô và tôi từ giã Đại thế giới lối 11 giờ khuya, chạy xe con cóc của Bảng ra xóm Đất Thánh Chà, tìm lại động phù dung của Khang. Tôi rót cho cô một chén trà nóng, cô tiếp lấy hớp một hớp rồi nhỏ nhẹ đáp:
- Anh Sển, anh khéo bầy đặt!
Tôi nghe bao nhiêu ấy đã hoảng hồn tưởng đã không xong, nhưng cô ngó ngay mặt tôi và hạ giọng:
- Tôi tưởng anh là nhà văn, nhà khảo cổ, phải khác hơn người thường, té ra anh còn mê tín và tin dị đoan quá chừng chừng! Anh muốn biết có ngải hay không, tiện đây tôi cũng thuật cặn kẽ cho anh nghe, chuyện tin cùng không là chuyện khác không cần biết. Nhưng có mặt ông kỹ sư đây, tôi nói cho hai người biết, nếu tôi muốn bỏ bùa mê cho anh Sển nầy, anh nhớ nhé, tôi chỉ cần đem hết can tràng ra mà đối đãi với anh, rồi tự nhiên lần lần anh cảm và bị tôi chinh phục ngay, chớ ngải với nghệ là cái quái gì anh khéo hỏi! Mà nè, đừng nói lôi thôi lạc đề, ngải hay nghệ là như vầy:
Người ta nói với tôi có ba thứ ngải: 1) ngải Mọi, ở trên cao nguyên, mọi nuôi ngải bằng gà sống, thả gả vô bụi ngải, một thời gian sau xem lại gà chỉ còn bộ xương khô, nhưng ngải mọi chỉ dùng để hại cho người chết, tôi ghê quá, không dám xài. 2) ngải núi Tà Lơn và vùng Xà Tón, nhưng chưa linh chưa hiệu nghiệm cho lắm, vì các thầy ở Bảy Núi vả trên Nam Vang, tài nghệ chưa tinh thông. 3) Ngải hiệu nghiệm nhứt là ngải bên Xiêm do các thầy cao tay ấn luyện, người chuộc ngải phải nằm bảy ngày bảy đêm trần truồng cho thầy ướp phép, và người ấy phải một lòng tin tưởng và cữ kiêng nhiều bề: cữ ăn rau nặng mùi, sẽ bán phai ngải, nhứt là củ tỏi và hành lá, cấm không đi dưới dây phơi quần áo vì uế khí sẽ làm cho ngải bay mất, tránh chun lòn dưới thang gác dưới lầu mà từng trên có đặt cầu tiêu cầu tắm nhiều uế trược, trong mình nếu có đeo cà tha hay dây niệt, thì phải giữ kín không nên cho nhiều người thấy, nhứt là phải giữ tinh khiết, chỗ nào dơ dáy, phải lánh né, v.v... Tôi (Ba Trà) lúc ấy manh giáp chẳng còn, anh mái chính ở mãi Chợ Lớn không ra thăm, nợ vây phủ tứ tung, Nguyệt tiên cung vắng khách, vắng hơn chùa bà Đanh, chà sét ty than hết tiền không cho tôi vay nữa, các công tử lặn mất như sao trên trời đêm ba mươi qua mồng một, nằm gạt tay lên trán, tôi bỗng nhớ lại cứu tinh là chị Hai tóc đỏ, chỉ năm xưa khoe tài ngải bao nhiêu, nay tôi nhớ mà thương chỉ bấy nhiêu, nhưng nghe đâu chỉ có chồng bên Xiêm thì tôi phải qua bên ấy, níu lưng chỉ mà cầu cứu... nhưng rủi cho tôi là lúc ấy quân sư sắp đặt cuộc viễn du của tôi dở tệ, đã biết sa thải những người dư thừa, đã biết thu gọn cho tôi tớ phục dịch, tạm đóng cửa Nguyệt tiên cung giao cho người tin cậy coi sóc, bao nhiêu việc làm nghe trôi chảy, mà trong việc sắp đặt cho tôi qua Xiêm lại quên không biết xin trước giấy thông hành. Dở tệ là vậy. Tôi nói mà hai anh thương, tuy vậy Trà nầy còn người khuất mặt hộ trì, xe vừa bị lính Xiêm giải giao lãnh sự Pháp ở Bangkok, thì bỗng nhiên có cứu tinh xuất hiện.
Đó là một thanh niên Bắc Việt độ tuổi ngoài ba mươi, nhưng lịch duyệt bặt thiệp và đa tình ra phết. Nghe đâu người cha trước đó có công giúp quân đội Pháp sanh cầm đức ngài Hàm Nghi, và để thưởng công, Pháp cho con là ông nầy (tên Đỗ H. nhưng giấu bặt về sau chỉ gọi là l’ agent X.) được học bên Pháp, khi thành tài, bổ nhiệm vào hàng cao cấp toà lãnh sự, nhưng chỉ cho làm ở xứ ngoài như Xiêm chẳng hạn, và không bao giờ cho về xứ, vì e bị cho mò tôm không kịp trối, bởi quả dòng giống “Việt gian” bán nước! Trà gặp H. như buồn ngủ gặp chiếu manh, H. mềm tình người đồng hương thêm Trà sắc đẹp không ai bì, H. niềm nở tử tế chẳng những giúp cô khỏi bị giải về bản xứ, vì xuất ngoại không giấy tờ, H. sẵn biết cô Hai tóc đỏ mà H, có quen trước, thiệt là một buổi “tha hương ngộ cố tri” đáng đích!
Nói chí tình, cô Hai Tóc đỏ đối xử với tôi thật là ngọt. Trong buổi đầu đất lạ quê người, cô đã giúp tôi gặp vị sư tổ hay nhứt của châu thành Bangkok, và phép luyện xong xả, lời thầy ngải ghi chép thuộc nằm lòng, người thứ hai cư xử tuyệt diệu đối với tôi là ông đầu phòng toà lãnh sự Pháp ông Đỗ H., tuy mới quen, và trong nước nạp chưa có chi gọi là “biết nhau”, nhưng ông đối xử với tôi còn hơn bạn tri kỷ lâu ngày xa vắng, bổn thân ông gỡ rối, tôi đã khỏi bị phạt vạ và khi tôi ngỏ ý muốn trở về Sài Gòn, chính bổn thân ông lấy xe nhà tự lái đưa tôi từ kinh đô Xiêm Bangkok, đưa đến tận ranh giới Miên Xiêm, tôi đáp xe lửa, xe thổi còi tách bến, ông mới quay xe trở về Xiêm la quốc. Thiệt là “Làm chi cho bận lòng này lắm thân” và biết thuở nào trả xong món nợ nầy cho phỉ?
Về tới Sài Gòn phen nầy, phép bùa có sẵn, ngải nghệ đầy mình, nhưng người trung tín cho tôi hay Nguyệt tiên cung đang bị chủ nợ bủa vây khắp chung quanh, đặt trưởng toà trực sẵn trông bắt cho được tôi cho vào khám “giam thâu” cho tôi mau trả dứt nợ, mà như vậy còn gì thể diện và tiếng tăm nàng tiên cung nguyệt?
Vì vậy tôi đến Hôtel des Nations đường kinh lấp Charner, mở phòng tạm ẩn mặt, chỗ tôi lánh trần chỉ có bác tài xế trung tín biết và ngày ngày có phận sự báo tin tức, giờ xuống dùng bữa cũng phải chớ không có người khả nghi, tôi mới xuất hiện trong chốc lát cơm nước xong tôi lại rút về động hay phòng, nằm khoanh tôm luyện phép chớ thời. Hai anh nãy giờ nghe tôi kể thuật dông dài và trông nghe sự hiệu nghiệm của ngải. Hai anh có tin củng không, tôi không cần biết, mà người đầu tiên làm vật hy sinh cho tôi thí nghiệm phép Xiêm lại là một người xa lạ, thuở nay chưa quen biết bao giờ? Tôi có ngờ đâu bữa trưa hôm ấy tôi dùng bữa ngó thoáng qua tôi giựt mình tưởng đâu anh Toàn xuống bắt tôi để chở về Phan Rang, người ấy trao cho tôi một danh thiếp nhỏ và xưng là mãi biện của nhà băng Cần Thơ, chi nhánh của Đông Dương ngân hàng Sài Gòn: “Lâm Kỳ Xuyên, comprador de la Ban que de l’Indo-chine, annexe de Cần Thơ” sau tôi rõ lại ông là cơn nhà tỷ phú chủ hãng rượu công ty ở Châu Đốc có đại lý bán rượu nếp gần khắp các tỉnh miệt Hậu giang, và rượu trắng hãng Pháp Distillerie francaise de l’ Indochine làm không lại vì hãng Pháp đặt rượu bằng phương pháp mới, gọi “rượu máy” bằng cám, uống không “mát” không êm giọng bằng rượu hãng Hóc-Tchai Châu đốc, nấu bằng nếp tinh anh vừa bổ, gọi “rượu công-ci” tức rượu công ty, nói theo Tàu. Chưa chi Lâm Kỳ Xuyên để một bao thơ chẵn chòi mười tấm giấy xăng (Cent piastres) cắt chỉ, mà không nói một lời cắt nghĩa đó là tiền gì, hai anh nghĩ xem khi ở bên Xiêm tôi lạy lục thầy Xiêm chỉ xin “cho có tiền”, và nay tiền thinh không đến cách nầy, do Lâm Kỳ Xuyên mê tôi về nhan sắc, hay “sa bẫy” vì ma lực của ngải, đố hai anh giải thích cho êm. 1.000 đồng thuở ấy dùng làm lễ ra mắt, trong lúc một đốc phủ sứ trật hạng gần ngày về hưu mới lãnh được 250$ mỗi tháng, tức 3.000 đồng mỗi năm, hai anh nghĩ xem 1.000 đồng to tát đến bực nào? Mà có phải cho bao nhiêu ấy rồi thôi đâu? Nói tắt một điều, chính người ấy hình như in được giấy bạc “nhà băng” hay sao mà ông ta xài tiền như nước ai cầm chĩnh mà đổ, dẫu nước trong chĩnh cũng luôn có hạn, đàng nầy tôi muốn ngàn nào là được ngàn nấy, trả nợ cho các chỗ tôi thiếu, trở về Nguyệt tiên cung, có một lần ông ấy ở nhà băng Cần Thơ đang làm việc trong khi tôi đang đổ “con mèo” gọi chơi xí ngầu lác (đổ hột “tứ ngũ lục” nói theo giọng Tiều, khi nào hột lật mặt nhứt nhì tam thì thua, nhứt là khi hột lật ba mặt nhứt, gọi tục là “lỗ đít gà” thì thua tróc đít!) Bữa ấy tôi đổ hột nơi nhà 108 Bonard, nhà bác Năm Hy chủ tiệm vàng, tôi sai người gọi điện thoại xuống Băng Cần Thơ xin năm ngàn bạc và bốn giờ sau, quả nhiên có tài xế cổ áo mang chữ tắt “B.I.C.” đem lên tôi kính cẩn năm chục tờ giấy xăng bon bon cắt chỉ, tôi nào chường mặt và cũng không bổn thân nói téléphone mà tiền lên nhấp nháy, hai anh muốn hiểu sao thì hiểu. Ấy thế mà bỗng lúc sau tự nhiên tịt ngòi như phong tên bị cúp nước, chờ không thấy mặt, thơ viết gởi đi không thấy thơ trả lời, sau biết được là vì ông bắt được tôi ngồi chung xe với thầy Sáu Ngọ để vô Chợ Lớn chơi me, ông bặt, ông ghen và “ái ân chỉ có một lần”! Bạc đúc cũng không ai dám xài đến bực ấy, và tôi bị cắt đứt viện trợ, không hiểu tại ông ghen hay một lẽ khác, tại vì tôi không giữ gìn kỹ lưỡng để cho ngải lạt, phép nọ “mất linh”!
Và đó là phen “nhị xuất Kỳ sơn” tôi phải trở lại Xiêm quốc kỳ nhì, để tìm thầy thay bùa niệt và cho tôi ngải mới. Nhưng chuyến nầy tôi đã học khôn được rồi, đã xin cấp giấy thông hành hợp lệ (tire d’ identité thời đó, tiền lệ phí chỉ có năm cắc bạc (0$50) mà hiệu nghiệm vô cùng, có lá thông hành tuỳ thân, đi khắp xứ từ Nam chí Bắc khỏi cần xin phép).
Chuyến nầy tôi đã thuộc đường đi nước bước, đi tìm gặp vị thầy cũ, tôi giải bày cặn kẽ sau khi cột tay cho thầy một sợi tim đèn bằng chỉ vải có vấn một khoanh vàng y năm chỉ mà thời ấy giá không tới ba chục bạc (30$00) và thầy tôi đã dẫn đường đưa tôi ra mắt vị tổ sư, thầy của thầy tôi, tức nói ví dụ, tôi đã gặp Chí Thiện thoàn sư của phái võ Thiếu Lâm, thầy của “mình đồng da sắt” võ sĩ Phan Thế Ngọc anh hùng bạt tuỷ trong truyện Tàu “Càn long hạ Giang Nam”, nhưng Chí Thiệt thì tay chân lành lẽ mới thí võ di quyền được, còn vị sư tổ nầy không phải cùi cũng không phải phung hủi, mà mười ngón tay và mười ngón chơi đều rụng sạch không còn ngón nào, vì ngải quá linh quá mạnh, đã ăn hai chục ngón của thầy trụi lủi! Sau khi nghe tôi giải bày “nhưng phải thoát y vũ trước bàn Tổ”, vị sư cả trao cho tôi đủ số ngải và thần chú lại còn cho một đồ đệ cao tài theo tôi về Sài Gòn, mà vị đồ đệ nầy không ai khác là ông thầy ngải tôi đã quen kỳ nhứt ở Bangkok. Việc đưa người Xiêm qua Nam Việt không khó vì tôi đã có cố nhân họ Đỗ lo cho tôi giấy tờ hợp lệ. Đến Sài Gòn tôi phải ăn chay nằm đất và thoát y vũ đủ bảy ngày nữa là thầy tôi gói phép trở về Xiêm, còn tôi, đạo giới đủ điều, ngải mê ngải quyến rũ “đầy mình”, khi ấy tôi mới dắt một chị đầm chơi thân (Madame Pit) cùng xuống Hậu giang thử phép hay là đấu phép.
Lúc ấy Cần Thơ chưa đúng là kinh đô xinh đẹp miền Tây, như sau nầy báo chí tôn lên, và chị em tôi bị cụ bị nồi ống xuống tới đó không chọn lữ quán Bungalow vì bày binh bố trận có bàn đèn chủ Tây nó không vui, nên chúng tôi lựa Hôtel de l’Ouest, tức nhà ngủ Trần Đắt Nghĩa đóng đô ở đường kinh lấp, nhớ mang tên Pháp là boulevard Delanoue, khiến cho buổi ấy có câu: “Rộn ràng một đoá trà mi, ngoài đường nô nức ong đi bướm về” (lảy Kiều)
Ngày nay chuyện cũ nhắc lại, tôi lấy làm hối hận cho cử chỉ thiếu đẹp của tôi lúc ấy. Mãi biện ân nhân là người rất tốt, thế mà tôi trả ơn bằng hai chữ “đoản hậu” thiệt vô duyên. Tôi xuống tới nơi, ngỡ ngàng bỡ ngỡ, viết thơ mời ông lại phòng, trong khi nói chuyện bằng lời nói trổng điệu đánh dây thép:
- Xuống hồi nào?
- Mới tới!
- Xuống chi vậy?
- Thua quá, thiếu nợ nhiều, xuống kiếm anh...
- Nhiều bao nhiêu?
- Bốn chục ngàn?
- Chớ một giờ nữa được không?
- Được.
Rồi ông ra về, xuống lầu, quá nửa giờ sau, tôi nóng ruột, sai tài xế cầm thơ tay viết mấy chữ vắn tắt, chưa tàn điếu thuốc, bác tài xế xách về một bao bố nhỏ, mở ra, mẹ ôi, giấy một trăm la liệt đầy bàn, đếm đúng 40.000$00. Thình lình anh Tư Phước (Phước Georges theo gánh hát) bỗng xô cửa bước vào, và xui xẻo là hai đứa tôi đang ôm nhau tỏ tình cách mặt theo Tây, chưa kịp buông nhau ra thì khiến có họ Lâm cũng vừa bước vô bắt gặp. Thế mà ông không giận, vẫn bắt tay chào Tư Phước như thường, và Tư Phước ra về rồi, khi ấy anh Lâm có ý bảo tôi sửa soạn để lát nữa anh đem xe lại rước tôi cùng đi Rạch Giá vì anh phải xuống nơi ấy điều tra việc công. Chẳng lành mà chớ, tôi nằng nặc đòi ôm bạc về Sài Gòn trả nợ. Anh buồn rầu bảo đưa tiền bà Pit mang về cho má tôi cũng được còn tôi phải theo anh xuống Rạch giá. Tôi cương quyết một hai cũng đòi về Sài Gòn cho được, anh không nói gì bà Pit khuyên dỗ tôi cũng giả điếc, thế rồi chia tay không thấy mặt nhau từ buổi ấy. Bây giờ tôi nhớ lại việc cũ, không biết tại tôi thiếu tình thương hay tại ngải hành, ngải nầy làm cho ra tiền chớ không phải đẻ ra tình yêu, tôi đểu giả và tàn nhẫn quá, không xứng đáng là có máu giang hồ khí phách, đành lòng nào nuốt của anh Lâm ngót 70.000$: 10.000 ra mắt, 20.000 gầy lại Nguyệt tiên cung, 40.000 nói láo thua bài, một người ngọt đến thế, quân tử đối với tôi đến thế mà tơ duyên ngắn ngủi chỉ một lần giao hoan, nhắm lại sao Ngưu sao Chức có một lần mỗi năm, tệ bạc trời dành hay tôi thiếu sót không hiểu chữ”ân” chữ “nghĩa”? Anh Lâm tha tội cho tôi! (Chỗ nầy cô Ba thuật với tôi thì nhơn vật ấy là họ Lâm, Tàu lai rất giống Toàn, tình nhơn buổi đầu, còn báo Tiếng Dội, thì gọi đó là phó giám đốc ngân hàng Cần Thơ, một Pháp lai đã có vợ người Pháp và si mê nhan sắc của Trà đến thế)
Tôi xin không kết luận và để cho độc giả tự trả lời có ngải mê thật hay là không, chỉ xin nhấn mạnh ngày nay còn sờ sờ gương đàn bà đi xe lam hay xe đò bị thổi bùa mê lột vòng vàng “cho điếm lạ mặt”, chừng tỉnh lại là sự đã rồi, và thiếu chi chuyện ngờ ngợ người tai mắt có học thức vẫn thương người không có chút gì hấp dẫn và khi tỉnh ngộ thì gia đình đổ nát sự nghiệp tan tành, cũng vì một lúc say mê lầm lạc không giải thích được. Cô Ba kết thúc buổi bàn luận bằng bùa ngải mê tín với câu đầy triết lý: “Trai mê gái hay gái mê trai, cũng tuỳ, và ngải linh nghiệm nhứt, nhứt là đối với hàng thức giả, ngải ấy là mối chân tình, nói cách khác là tình thương chân thật, một sự âu yếm thẳng thắn bằng pha nước nóng lau chơn cho chàng đánh tơ nít vừa về, lột giày bổn thân đem cất, lo bữa ăn lo giấc ngủ, nhưng những ấy Trà nói được mà không làm được, Trà là đứa hư rồi! Tại xã hội, tại thiếu giáo dục, tại cha mẹ không biết dạy con hay gì gì nữa? Nghĩ cho má tôi cho tôi ăn củi đòn và mỗi lần đánh là nhiếc “cho tiệt dòng đản hậu (đoản hậu), đến phiên tôi, không đánh đòn không mắng nhiếc, tôi trả thù gián tiếp cho mẹ tôi, mà ân nghĩa anh thầy thuốc và của anh mãi biện họ Lâm, quá là quá ác, và gẫm lại dùi đánh đục, đục đánh săng, cá ăn kiến, kiến ăn cá, Trà nầy quả là đứa không ra gì!
Chuyện bùa ngải làm cho chúng tôi ngẩn ngơ, suốt một tuần vô sở tôi không làm gì cho nên thân, chỉ chấm công ăn tiền, qua thứ bảy sau, chúng tôi hội lại nữa, cũng một mâm đèn, một ống hút trúc Hạ châu quí giá và một nồi hút, Khang khoe là của một ông hoàng ở Huế kỷ niệm, tròn như trái thẩu, vốn bằng đất châu sa Mạnh Thần, có chạm một ông già tay xách gậy đi trước theo sau là một tiểu đồng tay ôm một chiếc đàn tranh và câu chữ nhỏ rí: “Át Tỵ vân vân...” chữ hán tôi không đọc được trọn, vì tôi là một thằng dốt, chỉ biết dọc tẩu nầy chế tạo năm Ất Tỵ đời Kiền long, đến niên hiệu vua Mãn mình thuộc cháo chan, đó là năm dương lịch 1785, tức năm thứ 50 Kiền long (sau tôi nài được mà không phải của Khang và có bạc triệu tôi không cho rớ, vì rõ lại đó là báu vật ngót hai trăm năm, dễ gì gặp!). Hôm ấy tôi lo le một hộp thuốc điếu giẹp bằng đồi mồi Hà Tiên, cô Ba vừa thấy vụt nói:
- Anh Sển cũng biết hút thuốc lá à? Chớ chi tôi gặp anh sớm, tôi có một vật quí tặng anh mà tôi đã làm mất tại ngã tư Cai Lậy, vì bị đụng xe đến bất tỉnh nhơn sự, khi hoàn hồn thì chúng đã chọt mất cái bóp vàng đựng thuốc thơm có nạm hai chục hột kim cương lớn bằng hột đậu, do một ông hoàng “lưỡi đen” ở Xiêm kỷ niệm cho tôi buổi gặp mặt trong khoảng khắc tựa hồ chiêm bao. Nhưng chuyện ấy còn dài và còn lâu mới tới, nay tôi kể tiếp bước đường truân chuyên của tôi cho đủ đầu đuôi cái đã!
Tôi thiệt là không biết điều, anh Lâm đối xử với tôi như đã nói, mà tôi còn hại anh cách khác thật là tàn nhẫn và đáng trách. Tôi ôm bạc kè kè về Sài Gòn, trả được mớ nhắm cho các chủ nợ may mà gặp được tôi, còn lại gần hai chục ngàn, tôi ôm vô cúng trong sòng me sạch bách! Thiệt là đồng tiền phi nhơn phi ngải, làm không chút đổ mồ hôi, nó bội bạc hơn tôi nhiều, và cầm chưa nóng tay nó đã vù bay qua tay khác. Tưởng anh Lâm đi Rạch Giá như lời nói, nào dè anh bốc xe lái thẳng lên Nguyệt tiên cung nằm chờ tôi thẳng thét hai ngày một đêm, trong lúc tôi đang mài miệt say mê trong canh bạc, đi cặp với vua cờ bạc Sáu Ngọ (để lọt mắt anh Lâm thấy mà tôi không dè), và tôi cặp bồ với người khác không đáng gì, và đã bỏ rơi một người đủ tình đủ nghĩa, đủ ân đủ đức như anh Lâm, ông trời có mắt sau nầy, hành hạ tôi như hôm nay cũng đáng!
Tôi xui quá, thua me sạch túi, một thời gian nằm nhà trốn nợ, bổng thần tài chiếu mạng, tôi gặp một công tử xứ Trà Vinh trùng tên với cậu chủ rạp chớp bóng Cần Thơ. Nhưng B. đã có vợ là cô Tám B. để cho ở nhà ở Tiểu Cần, bất hạnh cho tôi, ngày B. đưa tôi lại hãng Auto-hall kéo cho tôi một cái xe cắt chỉ bốn chỗ ngồi Citroen, thì cô Tám lên Sài Gòn tìm chồng, bắt gặp tôi tại trận, báo hại hai đàng gấu ó đến đưa nhau xuống bót quận Nhì, B. xấu hổ, biệt vợ nhà, dắt tôi lập ổ uyên ương xài không mấy tháng, đổ nợ lung tung, B. bị bắt giam thâu vào khám, tôi lo tròn cho B. đủ cơm đen cơm trắng, ít lâu sau B. được tha, nhưng sạch túi, cả hai đành chia tay, B. về xứ, tôi vừa đói vừa bơ vơ lạc lõng...
37.: Lấy Franchini. Đem Tư Nhị về làm em nuôi. Một lời nói “sát thủ giản”(1)
Lúc công tử B. đưa tôi lại hãng lựa mua xe thì một anh chàng hảo ngọt Tây đã “mi lai nhãn khứ” với tôi và chíp để bụng rồi mà tôi nào dè! Kể ra anh Tây nầy là tay háo sắc số một. Y ta có một người anh làm giáo sư dạy khoa học tại trường Chasseloup và kẻ viết bài nầy đã từng thọ giáo, ông tên Franchini, và báo Tiếng Dội vì sợ kiện tụng, đã đổi gọi Mr. Franch, khiến nhiều người lạc lối. Franchini em, tiên khởi đứng bán xe hơi cho hãng Bainier, hãng nầy ở gần nhà thị sảnh đô thành, nay văn còn duy thay tên khác ở góc đường kinh lấp Charner xưa. Khi phân tay thôi làm bạn với tôi, va lấy vợ một nhà viết báo chữ lang sa, tên Khai, anh ta xuống làm rể cho một ông đốc phủ triệu phú ở châu thành Mỹ Đạo chịu cực chịu khó còn hơn “ở rể cố công Việt” rất nhiều, tỷ dụ như Tây chính cống mà hạ mình bưng ống nhổ ra cho mẹ vợ, tuy vợ đốc phủ, mà là một bà già trầu, nhổ nước miếng đỏ lòm cổ trầu, nước cốt trầu ghê tởm, nhưng khi mua được lòng tin của gia đình bên vợ, va sống nhờ số vốn bên vợ tạo lập và khai thác một khách sạn quan trọng nhứt xưa nay tại Sài Gòn, vốn là của ông hoàng mất ngôi vua le comte de Paris xây dựng để có chỗ làm ăn cho một bà thiếp Pháp và làm cho ngài một chỗ nghỉ chân mỗi khi ông qua đây săn voi bắn cọp, ấy là lục địa khách sạn Continental, nay còn sưng sưng gần nhà hát lớn đường Đồng Khởi. Trước năm Giải phóng, làm ăn phát đạt, kiếm được đủ số một triệu bạc (1.000.000$00), Franchini có thiết một tiệc trọng thể ăn mừng “le premier million” (triệu bạc lời lần đầu).
Anh B. bị kẹt nằm khám lớn vì tội không tiền trả nợ bị chủ nợ bắt “giam thâu” chờ có tiền trả sẽ trả tự do cho chàng. Tôi bơ vơ bối rối phải về với anh Franchini nầy, bỗng một hôm buồn quá tôi thả cu ky lại rạp chớp bóng Cầu Muối, gọi rạp ông Bầu Nịnh (Lương Khắc Ninh) giải muộn. Phim đang diễn, bỗng tôi nghe từ đàng sau lưng tiếng thanh tao mời mọc:
- Mời cô Ba hút với em một điếu thuốc!
Vì phép lịch sự xã giao, tôi đáp nho nhỏ:
- Cám ơn cô, tôi không biết hút thuốc!
Bỗng cô kia nói tiếp và rất rõ:
- Thôi mà, cô Ba! Hút cho em một điếu để làm quen mà? Tại cô chưa biết tôi, chớ tôi biết cô đã từ lâu. Má tôi thường nhắc đến tên cô hoài hoài và thường dạy tôi: “Thà làm đĩ, ra chơi bời như cô mới đáng gọi là gái ngoan!”
Trời đất ôi, thiệt là một câu sét đánh bưng tai không kịp? Dè làm vầy, ở nhà mà hay hơn, đi coi hát làm chi, để nghe chửi một tiếng nóng phừng da mặt không kịp đỡ! Cả mấy người ngồi gần đều day lại dòm, mặt càng thêm nóng. Tôi bực quá, mặc dầu phim còn một đoạn nữa mới dứt, tôi đứng dậy ra về, ra tới xe chưa kịp leo lên, thì cô gái mời hút thuốc cũng vừa ra theo, nhảy phóc lên xe không đợi mời và nói tỉnh bơ:
- Nhà cô Ba ở đâu, cho tôi về theo với!
Tôi lấy giận làm vui, nhìn kỹ, thì đây là một cô gái mơn mơn đào tơ hết sức trẻ, tròn trịa như con chim chàng nghịch óc cau đầu mùa lúa trổ, ngực tròn như cặp tuyết sơn muốn xé hàng sọc dưa rằn ri tung ra, trán thấp có mở tóc quăn xoắn che lúp xúp ngỗ nghịch nhiều hơn phục tùng, cặp mắt mơ màng tình tứ, nhứt là cặp môi dày đỏ mọng, nửa mời mọc nửa khiêu khích, đúng là một con đĩ mén mất dạy, ăn nói như hồi nãy, nhưng mặn mòi duyên dáng một cách rừng rú, khiến không giận được với con “ba trợn” nầy. Sau rõ lại nàng ta từ Nam vang xuống, cha Cơme, mẹ người Sa Đéc, có chút pra hóc (mắm bò hóc) pha với chút sắc bén của gái Nha Mân xưa từng được Cao miên tuyển vào cung vua đàn Thổ, thảo nào!
Ba đời thằng Tây, thằng nào cũng dê đủ mười. Tôi đem cô nầy về anh Franchini không nói không rằng, vui vẻ chấp nhận, nhơn đi xem tuồng chớp bó ng sau đó, thấy trên màn bạc một nữ diễn viên Pháp duyên dáng và có hình dáng giống giống cô gái mời thuốc nầy nên anh Franchini đặt tên cho cô là Marianne là tên cô đào trên màn ảnh, để đối với tên tôi là Yvette, và sẵn tôi thứ ba, Ba Trà, bèn đặt tên cô là thứ tư, Tư Nhị, chớ Nhị vốn thứ hai, con cả đầu lòng xứ Nam vang ăn bò hóc!
Nhưng Tư Nhị ở với chúng tôi, anh Franchini tỏ ra khó chịu, một là Nhị rù quến trai tơ trong xóm, đêm nào như đêm nấy đến rù rì rủ rỉ điếc tai không một ai chịu được đúng là một bầy rương cái đứa núp trong mương khô nước, đứa nằm trong bọng cống ven đường chờ cho Tư Nhị ăn cơm xong ra mà trai gái, hai nữa Franchini nói với tôi con nhỏ gì quê một cây, đi giày cao gót chưa quen, làm văng giày ra xa, Franchini vì tánh nịnh đầm ban đầu còn lượm giày và lấy làm vui, sau đổ quạu, biểu tôi trả Nhị về chị nuôi của nó ở gần chợ Thái Bình, nhứt định không chứa thứ đồ gái bật rật bướng rướng không ai chịu nổi. Nhưng chẳng bao lâu, tôi lựa cho Nhị một chồng là công tử Gò Đen, và với số bạc một ngàn của công tử nầy chi ra, Tư Nhị nghiễm nhiên có một căn phố trệt xinh xắn có bàn ghế giường nệm ra phết ở gần góc đường Richaud và Verdun yên tịnh.
Từ đây vòm trời Sài Gòn mọc một ngôi sao mới, tuy không sáng chói bằng sao Ba Trà, nhưng đối với khách ham lạ ham trẻ thì Tư Nhị Maianne vẫn mới vẫn giòn vẫn mát da mát thịt hơn, dầu gì cũng mới, Nhị hơn Trà ở chỗ “Nhị đào vẹn vẻ đường tơ, Trà mi kia đã sởn sơ gần chiều”.
Riêng tôi, tôi không thấy hoa khôi nào chóng sáng chóng lu như Tư Nhị. Có lẽ định luật thế thưởng còn đó, hễ “bạo phát tức bạo tàn”, và “hữu thế bất khả ỷ tận”. Chính Nhị trẻ làm cho cuộc đời mình thâu ngắn: không được có vi cánh như Ba Pho, Ba Trà, từ Nam Vang xuống Sài Gòn, ban đầu cất mình vào chốn hí trường, nhưng hữu sắc vô thinh, Nhị đành nhảy ra, làm cô “đào thịt”. Làm em nuôi cho Ba Pho rồi trở mặt nhảy qua làm em của Trà, bày ra lấy rượu mạnh thuốc thơm để nhử khách.
Nhị phí sức khoẻ và nhan sắc còn hơn con thiêu thân, gặp đèn gặp ánh sáng là nhảy a vào, mặc cho lửa đốt cháy lông cháy cánh!
Nhị phách lối và tự đặt cho mình lên quá cao, khi còn nhan sắc còn tuổi trẻ, không biết lo hậu về sau, đêm đêm thuốc lá thơm liền miệng, whisky liền môi, để lát nữa ro ro kéo ống, điếu nầy qua điếu khác, hoa phù dung tuy đẹp, tuy một ngày ba lần thay sắc nhưng không tránh khỏi cảnh sớm nở tối tàn, Tư Nhị lúc phùng thời, phải thấy chị ta trên xe Hotchkisss hoặc Alpha-Roméo xả hết tốc lực, chạy lên Xuân Trường, Thủ Đức, miệng ngậm ống đót thật dài để giống các gái ăn chơi Pháp trong sách, tay cặp mỗi tháng mỗi một công tử mới, thằng nầy bị vanh cánh đến lượt thằng khác bị làm lông, Nhị dòm thế gian không người, và thứ cạo giấy như kẻ nầy, lương tháng tám chục không đủ tiền son phấn đứng trông mong Nhị ban cho ruột cái liếc!
Ấy thế mà kết cuộc, Pho chết được chôn ấm đám, Trà còn kéo dài cuộc đời mãi về sau khá dài, duy Tư Nhị thiệt là thảm não.
Gần đây, tháng bảy dương lịch 1982, tôi gặp bạn cũ, anh Ba Quan, một tay lịch duyệt trong giới ca cầm “Giang đô khảo võ”, anh Ba thuật lại sau năm 1945-1946, tiền hết, giấy bạc 500 của chánh phủ Pháp “hết xài”, anh trong mình còn độ một trăm bạc, vừa đói vừa khát anh lết trở về Sài Gòn, một buổi sáng nọ anh làm gan ra đường thì đường vắng hoe không một người đi, anh thả lần tới Chợ Cũ đường Georges Guynemer (đường Võ Di Nguy) anh điểm tâm xong ra cửa vừa đưa tờ giấy xăng (100đ.) chưa kịp thâu tiền lẻ, bỗng nghe có tiếng người gọi: “Anh Ba!”, giựt mình day lại không thấy một ai trừ năm ba người đàn bà hành khất dơ dáy, Quan nói trong bụng “ai kêu mình vậy kìa?” bỗng nghe một tiếng gọi lần nầy thống thiết bi ai hơn lần trước: “Anh Ba! Em là Tư Nhị đây?”. Quan nhìn không ra, vì đứng trước mặt là một người ăn mày không còn hình thể con người, hai chơn sưng vù và băng bó mấy lớp vải máu mủ và ruồi bu đầy, mặt đổi sắc, môi thâm đen, Quan không dám ngó lâu, lật đật rút hai tờ giấy hoảnh (giấy bạc hai chục đồng) đặt nhẹ vào lỏng bàn tay... và đi thẳng một nước: ấy ngày tàn của cựu huê khôi Tư Nhị! Than ôi! Độc địa làm chi và hành phạt làm chi con người vô tội. Có tội chăng là xã hội kìa chớ! Xã hội xa hoa coi tiền như đất cục, để đến hôm nay đào đất kiếm không ra!
***
Tỉ tê Tư Nhị mà xuýt quên Ba Trà?
Lấy Franchini, về vật chất không thiếu món nào, nhưng ông Tây nầy cưng vợ theo Tây, mà nước ghen lại là nước ghen Á Đông thuần nhứt! Tử đường Frères Louis nay cô Ba dọn trở về Richaud, tái chiếm Nguyệt tiên cung, nhưng đó là một cung Hằng lạnh ngắt sang trọng không kém xưa, nhưng kỷ niệm cũ nào còn, và nào đâu gác dan dưới lầu, a múi khi chén trà sâm, khi nước tắm ấm? Cô Ba chỉ còn một cách tiêu khiển là ngày ngày hay chiều chiều lượn mấy vòng hết chợ cũ qua chợ mới, hết lăng tô (láng thọ) tới Catinat, xe mới, nệm êm, hai tài xế đồng phục, bâu áo một màu với com lê cô mặc, kiểu Cát Tường (Le Mur) hay kiểu của cô sáng chế, quần lai thêu ren, áo màu nào quần màu nấy, và khăn choàng cổ dài phất phơ như cánh bưởm. Chỉ ngồi luôn luôn một mình trọn băng sau, Franchini ít khi nào ra mặt đồng hành, mặc cho đoá lan độc chiếc khoe sắc “đệ nhứt hoa khôi” hay nói theo điệu chơi đồ cổ: “nhứt phiến bình hay mai bình (mei ping) trong có cắm một cành hoa lan bản xứ “hương sắc song toàn” số dzách! Lúc nầy cơm thuốc đầy đủ, thêm được một anh chồng từng nuôi ngựa đua, săn sóc cô còn hơn nhà hiếu cổ tưng tiu lọ Khánh Xuân, Nội Phủ, cô Ba trở lại phong độ mấy năm trước thanh xuân hơ hở, tăng thêm phần sang trọng nhờ biết xài son phấn đúng thời trang. Đây là buổi cực thịnh của nhan sắc trời dành, cô mặc sức láng xê kiểu áo cắt may, và lúc ấy chưa có tá chưa có tướng, duy vợ các ông cò mi và các thầy thông ký chạy theo cũng mệt và báo hại mấy ông chồng đào tiền không ra cho mấy cô ăn xài.
Có câu “lạc cực sanh ai”, sống sung túc quá, con chim kia lại nhớ rừng, và với lông cánh mới, lòng muốn tung bay một chuyến.
Một hôm Franchini đi khỏi, cô Ba sẽ lén vào sòng, và vận đang đỏ, cô trúng một hơi vét sòng, cô đi ngay lại hãng xe, sẵn tiền sẵn bụng muốn, cô kéo về một chiếc ô tô hiệu Alfa-Roméo của Ý, giá 11.000$, mắc gấp đôi xe Hotchkiss giá 4.000, mắc gấp ba xe Citroen bảy chỗ ngồi, hoặc FIAT mui kiếng limousinet bốn chỗ ngồi giá 2.700$.
Không kể lúc Tây mới qua, vài chục năm sau mới trổ mặt có xe hơi ở Sài gòn nhưng có để khoe của và chưng chơi, chớ cầu kỳ chưa có bắc phà cũng chưa, lộ còn trái đá đỏ, có đường đâu mà chạy! Vỏn vẹn Nam kỳ có một trăm chiếc công xa, xe quan thống đốc sáu máy hiệu Delage, số đăng bộ là C.20. Một người cầu kỳ nhứt, sắm xe may mùng trồng lên xe cất trong ga ra năm nầy qua năm kia không bao giờ cho xe chạy đó là bà hàm đốc phủ Hà Minh Phải, người đàn bà biết giá trị độ xưa trong Nam bạc nhứt và chiếc xe ấy là xe của phế đế Thành Thái, bà gìn giữ xe nầy như một món “ngự dụng” không hơn không kém. Nhà có xe ô tô với số đăng bộ C.9999 là cựu ký giả, cựu thủ tưởng Nguyễn Phan Long, và cô Ba Trà đây với chiếc xe hiệu Ý đắt tiền Alfa-Roméo như đã kể.
Thuở ấy biết chơi xe như biết lựa vợ nhà:
- Vợ một kèo một cột, chuyên làm tiền vô và không khi nào lãng phí là bà hiền nội trợ con chú Hương con cậu xã trong làng, không khác chiếc Citroen, bảy chỗ ngồi, rẻ tiền, ít hao xăng, xe nào chạy tới đâu xe Citroen cũng tới đó, duy chậm hơn vải giờ, máy tốt, hư dễ sửa, như người vợ hiền, rủi đau cho uống café đậm cũng đủ mạnh, đủ thoát qua cữ rét.
- Vợ có nhan sắc như hiệu xe Hotchkiss, có cặp đèn pha chồm ra tới trước như hai hòn tuyết sơn của cô Sáu. Còn lúc đó ở Sốc Trăng, đầu xe như chiếc quan tài giấu mấy chục mã lực bên trong, chạy mau, nệm êm, duy hao xăng và thỉnh thoảng máy trục trặc, ít có thợ rành sửa chữa... Vợ đẹp thêm nhiều lo, thất công gìn giữ.
- Ham vợ quí phái, như ham ô tô Ý, ô tô Ăng lê, ô tô Đức, nào Alfa Roméo, Bugatti, nào Rolls Royee, nào Mercédès, uống xăng thì như trâu uống nước, lúc xăng chín xu (0$09) hay một cắc bạc (0$10) mỗi lít thì ngồi xe này sướng thật, qua mặt các hiệu khác vù vù, nhưng từ ngày khan hút và xăng lên giá, thì chỉ cất xe trong ga ra chờ ngày lấy ra làm thùng để “trồng hành” vì còn tiền đâu mà cho nó chạy! Thuở ấy xe hiệu Mỹ (Hoa Kỳ) chưa qua, và các hiệu thường thấy gồm có: Panhard Levassor Delahaye, De Dion Bouton, Lorraine Diétrich, v.v.., thảy đều bền và ít làm khó chủ xe, không khác gái Nha Mân, Bà Điểm, giúp chồng như câu tục thường ví:
“Thiếp như cơm nguội giúp chàng đỡ lòng khi bụng đói”?
Cô Ba kéo xe về, Franchini vẽ viên thêm, dạy khôn, bảo cô Ba đem xe ra ngay đường Catinat, trước mắt nhà hát Tây, treo băng và một chai champagne, cô tự cắt dây băng cho champagne đụng vào đầu xe, gọi lễ khai quang điểm nhãn! (tôi còn mắt thấy xe đò Châu Đốc có lư hương thờ cô Hiên, xe buýt Sài Gòn gần đây còn thắp nhang thờ ông Địa, không rõ các xe nầy sản xuất từ nước ngoài, ký bán năm nào?)
Sẵn xe mới cốt ý để khoe ngón phong lưu, sẵn giàu tiền tự do người chồng Pháp mắc bận việc sanh nhai lớn tại Sài Gòn, cậy thế lực của Franchini quen nhiều với các chủ đồn điền cao su ở Chúp (Cao Miên), sẵn ma lực trời dành nơi đầu mày cuối mắt của cô, nên cô nảy ra một nghề mới là cùng một á múi tin cẩn phục dịch hôm mai và một tài xế tin cậy, cô ngồi xe mới thả một vòng ngao du, làm chủ cái hốt me, nhưng muốn ăn trứng nhạn phải lòn hang mai, cô hỏi thăm và biết đi nước nhỏ nhẹ với các tay anh chị mỗi vùng: xuống Bạc Liêu phải làm quen với cậu Hai Hiền (Chung Bá Hiền, con ông Chung Bá Vạn, ngoài gọi hội đồng Banh) và Tư Hi, cầm đầu bọn du côn đứng bến, ghé Sốc Trăng có Ban Tư (Lưu Liễu) công tử Cáo (Lưu Nhu), lên Cần Thơ có Lê Thọ Tường, ở Cầu Cống và Cầu ngang (Trà Vinh) thảy đều có anh hùng bản xứ, đến nơi mà không ra mắt các tay chiếng ấy, thì sao cho khỏi ăn me mà bị cướp ngành thầu dọc đường, hoá ra sạch vốn, duy chơi me ở Chúp xứ Thổ, trong đồn điền của chủ Pháp quen thân với Franchini, thì lo gì mất của, lại nữa ở Chúp, cô Ba mười phần chắc thắng trọn thắng vì các tay con quen đánh đủ bốn cửa, chủ cái lấy ba cửa thua chung một cửa thắng thì thế nào cũng dư tiền hồ (xâu) lại dư tiền thắng cuộc và ít hao đến vốn.
Cái vòng quanh lục tỉnh của cô Ba, làm cho nhiều người bàn tán, đồn rằng cô thua bài quá nhiều nên đi vơ vét các tay chơi ở tỉnh, kỳ trật cô ghé nghỉ ngơi ở lữ quán bungalow là để đùng cơm Tây và đổ xăng vào xe, cô vẫn mở phòng, và khách sộp nào muốn ra mắt phải đi lễ trọng hậu, lễ nho nhỏ cỡ một trăm đồng, cô đều gọi bác tài và a múi phân phát trước mắt làm cho khách hổ thẹn ra về, chớ cô nào hạ mình rước khách cốc keng như gái ăn sương tứ thời nhì hạng. .
Có một chuyến cô xuống Bạc Liêu, cô cạn vốn, định quay xe trở về Sài Gòn nghĩ cách, cậu Hai Hiền trước học Chasseloup đồng những năm 1919-1923 với kẻ viết bài nầy, Hai Hiền hay được định cầm cô ở lại giúp vốn cho cô gầy sòng khác, Hiền về nhà lấy bạc thì cô đã lên xe xông lướt dặm ngàn, xe cô ghé lữ quán bungalow Sốc Trăng thì vừa được tin xe cậu Hiền vì tránh con bò đi lang thang ngoài lộ, liền thắng gấp tránh bò, xe lật xuống ruộng đưa bốn bánh lên trời, cậu Hiền thoát chết nhưng gãy lọi một giò, máu me đầy mình đang nằm ở nhà thương cho lương y điều trị. Cô tức tốc vào dưỡng đường, sai a múi lấy một bộ pyjama hường của mình thay cho bộ âu phục của Hiền rách nát, Hiền sau khi lành mạnh vẫn xem bộ y phục của cô như vật linh bùa lạ, luôn luôn vẫn giữ nhớ câu “xếp tàn y lại để dành hơi”(2).
Chú thích:
(1) Người hay chữ nói "sát nhơn, sát thủ” là đủ rồi. Sát là giết, thủ là đầu, là tay. Nhưng tôi viết theo điệu "nghề võ rừng", nó là sát thủ chưa lấy làm hay, phải thêm "sát thủ giản" mới vừa bụng. Giản là thẻ tre, là một thứ binh khí cổ, có bốn cạnh mà đầu bằng không có mũi nhọn, theo tôi, ông hộ giáp ở chùa, ắt cầm giản, nhưng đúng ra trong ý tôi là tôi nhớ cây giản của tướng Tần Thúc Bảo trong truyện Thuyết Đường và câu nằm lòng: "Song giản đả thành Đường tbế giới” “đơn tiên bình định Lý giang san" nhắc tích hai ông tưởng Tần Thúc Bảo (Tần Quỳnh) mặt vàng tay cầm cặp giản và tưởng Uất Trì Cung, mặt đen, cả hai người dày công gầy dựng cơ đồ nhà Đường của vua Lý Thế Dân. Tạo lập hay "bình định" cũng là một thứ. Và nói "sát thủ giản" trật văn phạm nhưng nghĩa mạnh hơn, nên tôi bất chấp văn phạm.
(2) Câu “Đập cố kính ra tìm lấy bóng, xếp tàn y lại để dành hơi" là của đức Dục Tông hoàng đế. Cụ Trân Danh Án, thi sĩ trung thần thời Lê mạt, đã viết: "Phá toái lăng hoa tầm cựu ảnh, Trầm phong khâm tứ hộ dư hương”, dịch: "Đập vỡ tan gương tìm bóng cũ, lại phong mến lớn giữ hương thửa". Sự trùng hợp này là một giai thoại nên ghi lại (trích Thi thoại của văn học, trang 109, Quốc học thư xã Hà Nội 1939)
Anh B. bị kẹt nằm khám lớn vì tội không tiền trả nợ bị chủ nợ bắt “giam thâu” chờ có tiền trả sẽ trả tự do cho chàng. Tôi bơ vơ bối rối phải về với anh Franchini nầy, bỗng một hôm buồn quá tôi thả cu ky lại rạp chớp bóng Cầu Muối, gọi rạp ông Bầu Nịnh (Lương Khắc Ninh) giải muộn. Phim đang diễn, bỗng tôi nghe từ đàng sau lưng tiếng thanh tao mời mọc:
- Mời cô Ba hút với em một điếu thuốc!
Vì phép lịch sự xã giao, tôi đáp nho nhỏ:
- Cám ơn cô, tôi không biết hút thuốc!
Bỗng cô kia nói tiếp và rất rõ:
- Thôi mà, cô Ba! Hút cho em một điếu để làm quen mà? Tại cô chưa biết tôi, chớ tôi biết cô đã từ lâu. Má tôi thường nhắc đến tên cô hoài hoài và thường dạy tôi: “Thà làm đĩ, ra chơi bời như cô mới đáng gọi là gái ngoan!”
Trời đất ôi, thiệt là một câu sét đánh bưng tai không kịp? Dè làm vầy, ở nhà mà hay hơn, đi coi hát làm chi, để nghe chửi một tiếng nóng phừng da mặt không kịp đỡ! Cả mấy người ngồi gần đều day lại dòm, mặt càng thêm nóng. Tôi bực quá, mặc dầu phim còn một đoạn nữa mới dứt, tôi đứng dậy ra về, ra tới xe chưa kịp leo lên, thì cô gái mời hút thuốc cũng vừa ra theo, nhảy phóc lên xe không đợi mời và nói tỉnh bơ:
- Nhà cô Ba ở đâu, cho tôi về theo với!
Tôi lấy giận làm vui, nhìn kỹ, thì đây là một cô gái mơn mơn đào tơ hết sức trẻ, tròn trịa như con chim chàng nghịch óc cau đầu mùa lúa trổ, ngực tròn như cặp tuyết sơn muốn xé hàng sọc dưa rằn ri tung ra, trán thấp có mở tóc quăn xoắn che lúp xúp ngỗ nghịch nhiều hơn phục tùng, cặp mắt mơ màng tình tứ, nhứt là cặp môi dày đỏ mọng, nửa mời mọc nửa khiêu khích, đúng là một con đĩ mén mất dạy, ăn nói như hồi nãy, nhưng mặn mòi duyên dáng một cách rừng rú, khiến không giận được với con “ba trợn” nầy. Sau rõ lại nàng ta từ Nam vang xuống, cha Cơme, mẹ người Sa Đéc, có chút pra hóc (mắm bò hóc) pha với chút sắc bén của gái Nha Mân xưa từng được Cao miên tuyển vào cung vua đàn Thổ, thảo nào!
Ba đời thằng Tây, thằng nào cũng dê đủ mười. Tôi đem cô nầy về anh Franchini không nói không rằng, vui vẻ chấp nhận, nhơn đi xem tuồng chớp bó ng sau đó, thấy trên màn bạc một nữ diễn viên Pháp duyên dáng và có hình dáng giống giống cô gái mời thuốc nầy nên anh Franchini đặt tên cho cô là Marianne là tên cô đào trên màn ảnh, để đối với tên tôi là Yvette, và sẵn tôi thứ ba, Ba Trà, bèn đặt tên cô là thứ tư, Tư Nhị, chớ Nhị vốn thứ hai, con cả đầu lòng xứ Nam vang ăn bò hóc!
Nhưng Tư Nhị ở với chúng tôi, anh Franchini tỏ ra khó chịu, một là Nhị rù quến trai tơ trong xóm, đêm nào như đêm nấy đến rù rì rủ rỉ điếc tai không một ai chịu được đúng là một bầy rương cái đứa núp trong mương khô nước, đứa nằm trong bọng cống ven đường chờ cho Tư Nhị ăn cơm xong ra mà trai gái, hai nữa Franchini nói với tôi con nhỏ gì quê một cây, đi giày cao gót chưa quen, làm văng giày ra xa, Franchini vì tánh nịnh đầm ban đầu còn lượm giày và lấy làm vui, sau đổ quạu, biểu tôi trả Nhị về chị nuôi của nó ở gần chợ Thái Bình, nhứt định không chứa thứ đồ gái bật rật bướng rướng không ai chịu nổi. Nhưng chẳng bao lâu, tôi lựa cho Nhị một chồng là công tử Gò Đen, và với số bạc một ngàn của công tử nầy chi ra, Tư Nhị nghiễm nhiên có một căn phố trệt xinh xắn có bàn ghế giường nệm ra phết ở gần góc đường Richaud và Verdun yên tịnh.
Từ đây vòm trời Sài Gòn mọc một ngôi sao mới, tuy không sáng chói bằng sao Ba Trà, nhưng đối với khách ham lạ ham trẻ thì Tư Nhị Maianne vẫn mới vẫn giòn vẫn mát da mát thịt hơn, dầu gì cũng mới, Nhị hơn Trà ở chỗ “Nhị đào vẹn vẻ đường tơ, Trà mi kia đã sởn sơ gần chiều”.
Riêng tôi, tôi không thấy hoa khôi nào chóng sáng chóng lu như Tư Nhị. Có lẽ định luật thế thưởng còn đó, hễ “bạo phát tức bạo tàn”, và “hữu thế bất khả ỷ tận”. Chính Nhị trẻ làm cho cuộc đời mình thâu ngắn: không được có vi cánh như Ba Pho, Ba Trà, từ Nam Vang xuống Sài Gòn, ban đầu cất mình vào chốn hí trường, nhưng hữu sắc vô thinh, Nhị đành nhảy ra, làm cô “đào thịt”. Làm em nuôi cho Ba Pho rồi trở mặt nhảy qua làm em của Trà, bày ra lấy rượu mạnh thuốc thơm để nhử khách.
Nhị phí sức khoẻ và nhan sắc còn hơn con thiêu thân, gặp đèn gặp ánh sáng là nhảy a vào, mặc cho lửa đốt cháy lông cháy cánh!
Nhị phách lối và tự đặt cho mình lên quá cao, khi còn nhan sắc còn tuổi trẻ, không biết lo hậu về sau, đêm đêm thuốc lá thơm liền miệng, whisky liền môi, để lát nữa ro ro kéo ống, điếu nầy qua điếu khác, hoa phù dung tuy đẹp, tuy một ngày ba lần thay sắc nhưng không tránh khỏi cảnh sớm nở tối tàn, Tư Nhị lúc phùng thời, phải thấy chị ta trên xe Hotchkisss hoặc Alpha-Roméo xả hết tốc lực, chạy lên Xuân Trường, Thủ Đức, miệng ngậm ống đót thật dài để giống các gái ăn chơi Pháp trong sách, tay cặp mỗi tháng mỗi một công tử mới, thằng nầy bị vanh cánh đến lượt thằng khác bị làm lông, Nhị dòm thế gian không người, và thứ cạo giấy như kẻ nầy, lương tháng tám chục không đủ tiền son phấn đứng trông mong Nhị ban cho ruột cái liếc!
Ấy thế mà kết cuộc, Pho chết được chôn ấm đám, Trà còn kéo dài cuộc đời mãi về sau khá dài, duy Tư Nhị thiệt là thảm não.
Gần đây, tháng bảy dương lịch 1982, tôi gặp bạn cũ, anh Ba Quan, một tay lịch duyệt trong giới ca cầm “Giang đô khảo võ”, anh Ba thuật lại sau năm 1945-1946, tiền hết, giấy bạc 500 của chánh phủ Pháp “hết xài”, anh trong mình còn độ một trăm bạc, vừa đói vừa khát anh lết trở về Sài Gòn, một buổi sáng nọ anh làm gan ra đường thì đường vắng hoe không một người đi, anh thả lần tới Chợ Cũ đường Georges Guynemer (đường Võ Di Nguy) anh điểm tâm xong ra cửa vừa đưa tờ giấy xăng (100đ.) chưa kịp thâu tiền lẻ, bỗng nghe có tiếng người gọi: “Anh Ba!”, giựt mình day lại không thấy một ai trừ năm ba người đàn bà hành khất dơ dáy, Quan nói trong bụng “ai kêu mình vậy kìa?” bỗng nghe một tiếng gọi lần nầy thống thiết bi ai hơn lần trước: “Anh Ba! Em là Tư Nhị đây?”. Quan nhìn không ra, vì đứng trước mặt là một người ăn mày không còn hình thể con người, hai chơn sưng vù và băng bó mấy lớp vải máu mủ và ruồi bu đầy, mặt đổi sắc, môi thâm đen, Quan không dám ngó lâu, lật đật rút hai tờ giấy hoảnh (giấy bạc hai chục đồng) đặt nhẹ vào lỏng bàn tay... và đi thẳng một nước: ấy ngày tàn của cựu huê khôi Tư Nhị! Than ôi! Độc địa làm chi và hành phạt làm chi con người vô tội. Có tội chăng là xã hội kìa chớ! Xã hội xa hoa coi tiền như đất cục, để đến hôm nay đào đất kiếm không ra!
***
Tỉ tê Tư Nhị mà xuýt quên Ba Trà?
Lấy Franchini, về vật chất không thiếu món nào, nhưng ông Tây nầy cưng vợ theo Tây, mà nước ghen lại là nước ghen Á Đông thuần nhứt! Tử đường Frères Louis nay cô Ba dọn trở về Richaud, tái chiếm Nguyệt tiên cung, nhưng đó là một cung Hằng lạnh ngắt sang trọng không kém xưa, nhưng kỷ niệm cũ nào còn, và nào đâu gác dan dưới lầu, a múi khi chén trà sâm, khi nước tắm ấm? Cô Ba chỉ còn một cách tiêu khiển là ngày ngày hay chiều chiều lượn mấy vòng hết chợ cũ qua chợ mới, hết lăng tô (láng thọ) tới Catinat, xe mới, nệm êm, hai tài xế đồng phục, bâu áo một màu với com lê cô mặc, kiểu Cát Tường (Le Mur) hay kiểu của cô sáng chế, quần lai thêu ren, áo màu nào quần màu nấy, và khăn choàng cổ dài phất phơ như cánh bưởm. Chỉ ngồi luôn luôn một mình trọn băng sau, Franchini ít khi nào ra mặt đồng hành, mặc cho đoá lan độc chiếc khoe sắc “đệ nhứt hoa khôi” hay nói theo điệu chơi đồ cổ: “nhứt phiến bình hay mai bình (mei ping) trong có cắm một cành hoa lan bản xứ “hương sắc song toàn” số dzách! Lúc nầy cơm thuốc đầy đủ, thêm được một anh chồng từng nuôi ngựa đua, săn sóc cô còn hơn nhà hiếu cổ tưng tiu lọ Khánh Xuân, Nội Phủ, cô Ba trở lại phong độ mấy năm trước thanh xuân hơ hở, tăng thêm phần sang trọng nhờ biết xài son phấn đúng thời trang. Đây là buổi cực thịnh của nhan sắc trời dành, cô mặc sức láng xê kiểu áo cắt may, và lúc ấy chưa có tá chưa có tướng, duy vợ các ông cò mi và các thầy thông ký chạy theo cũng mệt và báo hại mấy ông chồng đào tiền không ra cho mấy cô ăn xài.
Có câu “lạc cực sanh ai”, sống sung túc quá, con chim kia lại nhớ rừng, và với lông cánh mới, lòng muốn tung bay một chuyến.
Một hôm Franchini đi khỏi, cô Ba sẽ lén vào sòng, và vận đang đỏ, cô trúng một hơi vét sòng, cô đi ngay lại hãng xe, sẵn tiền sẵn bụng muốn, cô kéo về một chiếc ô tô hiệu Alfa-Roméo của Ý, giá 11.000$, mắc gấp đôi xe Hotchkiss giá 4.000, mắc gấp ba xe Citroen bảy chỗ ngồi, hoặc FIAT mui kiếng limousinet bốn chỗ ngồi giá 2.700$.
Không kể lúc Tây mới qua, vài chục năm sau mới trổ mặt có xe hơi ở Sài gòn nhưng có để khoe của và chưng chơi, chớ cầu kỳ chưa có bắc phà cũng chưa, lộ còn trái đá đỏ, có đường đâu mà chạy! Vỏn vẹn Nam kỳ có một trăm chiếc công xa, xe quan thống đốc sáu máy hiệu Delage, số đăng bộ là C.20. Một người cầu kỳ nhứt, sắm xe may mùng trồng lên xe cất trong ga ra năm nầy qua năm kia không bao giờ cho xe chạy đó là bà hàm đốc phủ Hà Minh Phải, người đàn bà biết giá trị độ xưa trong Nam bạc nhứt và chiếc xe ấy là xe của phế đế Thành Thái, bà gìn giữ xe nầy như một món “ngự dụng” không hơn không kém. Nhà có xe ô tô với số đăng bộ C.9999 là cựu ký giả, cựu thủ tưởng Nguyễn Phan Long, và cô Ba Trà đây với chiếc xe hiệu Ý đắt tiền Alfa-Roméo như đã kể.
Thuở ấy biết chơi xe như biết lựa vợ nhà:
- Vợ một kèo một cột, chuyên làm tiền vô và không khi nào lãng phí là bà hiền nội trợ con chú Hương con cậu xã trong làng, không khác chiếc Citroen, bảy chỗ ngồi, rẻ tiền, ít hao xăng, xe nào chạy tới đâu xe Citroen cũng tới đó, duy chậm hơn vải giờ, máy tốt, hư dễ sửa, như người vợ hiền, rủi đau cho uống café đậm cũng đủ mạnh, đủ thoát qua cữ rét.
- Vợ có nhan sắc như hiệu xe Hotchkiss, có cặp đèn pha chồm ra tới trước như hai hòn tuyết sơn của cô Sáu. Còn lúc đó ở Sốc Trăng, đầu xe như chiếc quan tài giấu mấy chục mã lực bên trong, chạy mau, nệm êm, duy hao xăng và thỉnh thoảng máy trục trặc, ít có thợ rành sửa chữa... Vợ đẹp thêm nhiều lo, thất công gìn giữ.
- Ham vợ quí phái, như ham ô tô Ý, ô tô Ăng lê, ô tô Đức, nào Alfa Roméo, Bugatti, nào Rolls Royee, nào Mercédès, uống xăng thì như trâu uống nước, lúc xăng chín xu (0$09) hay một cắc bạc (0$10) mỗi lít thì ngồi xe này sướng thật, qua mặt các hiệu khác vù vù, nhưng từ ngày khan hút và xăng lên giá, thì chỉ cất xe trong ga ra chờ ngày lấy ra làm thùng để “trồng hành” vì còn tiền đâu mà cho nó chạy! Thuở ấy xe hiệu Mỹ (Hoa Kỳ) chưa qua, và các hiệu thường thấy gồm có: Panhard Levassor Delahaye, De Dion Bouton, Lorraine Diétrich, v.v.., thảy đều bền và ít làm khó chủ xe, không khác gái Nha Mân, Bà Điểm, giúp chồng như câu tục thường ví:
“Thiếp như cơm nguội giúp chàng đỡ lòng khi bụng đói”?
Cô Ba kéo xe về, Franchini vẽ viên thêm, dạy khôn, bảo cô Ba đem xe ra ngay đường Catinat, trước mắt nhà hát Tây, treo băng và một chai champagne, cô tự cắt dây băng cho champagne đụng vào đầu xe, gọi lễ khai quang điểm nhãn! (tôi còn mắt thấy xe đò Châu Đốc có lư hương thờ cô Hiên, xe buýt Sài Gòn gần đây còn thắp nhang thờ ông Địa, không rõ các xe nầy sản xuất từ nước ngoài, ký bán năm nào?)
Sẵn xe mới cốt ý để khoe ngón phong lưu, sẵn giàu tiền tự do người chồng Pháp mắc bận việc sanh nhai lớn tại Sài Gòn, cậy thế lực của Franchini quen nhiều với các chủ đồn điền cao su ở Chúp (Cao Miên), sẵn ma lực trời dành nơi đầu mày cuối mắt của cô, nên cô nảy ra một nghề mới là cùng một á múi tin cẩn phục dịch hôm mai và một tài xế tin cậy, cô ngồi xe mới thả một vòng ngao du, làm chủ cái hốt me, nhưng muốn ăn trứng nhạn phải lòn hang mai, cô hỏi thăm và biết đi nước nhỏ nhẹ với các tay anh chị mỗi vùng: xuống Bạc Liêu phải làm quen với cậu Hai Hiền (Chung Bá Hiền, con ông Chung Bá Vạn, ngoài gọi hội đồng Banh) và Tư Hi, cầm đầu bọn du côn đứng bến, ghé Sốc Trăng có Ban Tư (Lưu Liễu) công tử Cáo (Lưu Nhu), lên Cần Thơ có Lê Thọ Tường, ở Cầu Cống và Cầu ngang (Trà Vinh) thảy đều có anh hùng bản xứ, đến nơi mà không ra mắt các tay chiếng ấy, thì sao cho khỏi ăn me mà bị cướp ngành thầu dọc đường, hoá ra sạch vốn, duy chơi me ở Chúp xứ Thổ, trong đồn điền của chủ Pháp quen thân với Franchini, thì lo gì mất của, lại nữa ở Chúp, cô Ba mười phần chắc thắng trọn thắng vì các tay con quen đánh đủ bốn cửa, chủ cái lấy ba cửa thua chung một cửa thắng thì thế nào cũng dư tiền hồ (xâu) lại dư tiền thắng cuộc và ít hao đến vốn.
Cái vòng quanh lục tỉnh của cô Ba, làm cho nhiều người bàn tán, đồn rằng cô thua bài quá nhiều nên đi vơ vét các tay chơi ở tỉnh, kỳ trật cô ghé nghỉ ngơi ở lữ quán bungalow là để đùng cơm Tây và đổ xăng vào xe, cô vẫn mở phòng, và khách sộp nào muốn ra mắt phải đi lễ trọng hậu, lễ nho nhỏ cỡ một trăm đồng, cô đều gọi bác tài và a múi phân phát trước mắt làm cho khách hổ thẹn ra về, chớ cô nào hạ mình rước khách cốc keng như gái ăn sương tứ thời nhì hạng. .
Có một chuyến cô xuống Bạc Liêu, cô cạn vốn, định quay xe trở về Sài Gòn nghĩ cách, cậu Hai Hiền trước học Chasseloup đồng những năm 1919-1923 với kẻ viết bài nầy, Hai Hiền hay được định cầm cô ở lại giúp vốn cho cô gầy sòng khác, Hiền về nhà lấy bạc thì cô đã lên xe xông lướt dặm ngàn, xe cô ghé lữ quán bungalow Sốc Trăng thì vừa được tin xe cậu Hiền vì tránh con bò đi lang thang ngoài lộ, liền thắng gấp tránh bò, xe lật xuống ruộng đưa bốn bánh lên trời, cậu Hiền thoát chết nhưng gãy lọi một giò, máu me đầy mình đang nằm ở nhà thương cho lương y điều trị. Cô tức tốc vào dưỡng đường, sai a múi lấy một bộ pyjama hường của mình thay cho bộ âu phục của Hiền rách nát, Hiền sau khi lành mạnh vẫn xem bộ y phục của cô như vật linh bùa lạ, luôn luôn vẫn giữ nhớ câu “xếp tàn y lại để dành hơi”(2).
Chú thích:
(1) Người hay chữ nói "sát nhơn, sát thủ” là đủ rồi. Sát là giết, thủ là đầu, là tay. Nhưng tôi viết theo điệu "nghề võ rừng", nó là sát thủ chưa lấy làm hay, phải thêm "sát thủ giản" mới vừa bụng. Giản là thẻ tre, là một thứ binh khí cổ, có bốn cạnh mà đầu bằng không có mũi nhọn, theo tôi, ông hộ giáp ở chùa, ắt cầm giản, nhưng đúng ra trong ý tôi là tôi nhớ cây giản của tướng Tần Thúc Bảo trong truyện Thuyết Đường và câu nằm lòng: "Song giản đả thành Đường tbế giới” “đơn tiên bình định Lý giang san" nhắc tích hai ông tưởng Tần Thúc Bảo (Tần Quỳnh) mặt vàng tay cầm cặp giản và tưởng Uất Trì Cung, mặt đen, cả hai người dày công gầy dựng cơ đồ nhà Đường của vua Lý Thế Dân. Tạo lập hay "bình định" cũng là một thứ. Và nói "sát thủ giản" trật văn phạm nhưng nghĩa mạnh hơn, nên tôi bất chấp văn phạm.
(2) Câu “Đập cố kính ra tìm lấy bóng, xếp tàn y lại để dành hơi" là của đức Dục Tông hoàng đế. Cụ Trân Danh Án, thi sĩ trung thần thời Lê mạt, đã viết: "Phá toái lăng hoa tầm cựu ảnh, Trầm phong khâm tứ hộ dư hương”, dịch: "Đập vỡ tan gương tìm bóng cũ, lại phong mến lớn giữ hương thửa". Sự trùng hợp này là một giai thoại nên ghi lại (trích Thi thoại của văn học, trang 109, Quốc học thư xã Hà Nội 1939)