Home » » VẤN ĐỀ SOCRATE

VẤN ĐỀ SOCRATE

Written By kinhtehoc on Thứ Bảy, 14 tháng 1, 2012 | 00:43

VẤN ĐỀ SOCRATE
1.
Bàn về cuộc đời, những kẻ khôn ngoan nhất của mọi thời đại đều đưa ra một phán đoán tương tự như nhau: cuộc đời vô giá trị... Bất cứ ở đâu và bao giờ cũng vậy người ta đều nghe thấy câu nói đó thốt ra từ miệng họ. - Một câu nói đầy nghi ngờ, đầy phiền não, đầy chán chường cuộc đời, đầy khinh miệt cuộc đời. Ngay cả Socrate cũng nói lúc lâm chung: “Sống - là đau bệnh một thời gian lâu dài: Ta nợ đấng cứu nhân độ thế Esculape một con gà [10]” Ngay cả Socrate cũng chán mứa cuộc đời. - Điều đó chứng tỏ gì? Điều đó muốn trỏ cái gì?- Ngày xưa có lẽ người ta sẽ nói (- Ồ, người ta đã nói rồi và nói khá lớn, nhất là những kẻ bi quan của chúng ta): “Chắc chắn phải có một cái gì chân thực ở đây! Consensus sapientium [11] là bằng chứng của chân lý.” – Ngày hôm nay chúng ta sẽ còn nói như thế không? Chúng ta còn được phép làm thế không? “Chắc chắn phải có một cái gì bệnh hoạn ở đây” - đó là câu trả lời của chúng ta. Những kẻ khôn ngoan nhất của mọi thời đại, ta phải nhìn họ thật gần! Có thể tất cả những người đó chân không còn đứng vững? Chậm trễ? Run rẩy? Décadents [12] biết đâu? Có lẽ sự khôn ngoan xuất hiện trên trái đất này như một con quạ khoang bị hấp dẫn bởi mùi tử khí?
2.
Quan niệm bất kính cho rằng những bậc hiền nhân vĩ đại là những mẫu sa đọa [13] khởi lên trong tôi chính trong trường hợp trong đó thành kiến bác học và thành kiến vô học đối chọi nhau kịch liệt: tôi nhận ra Socrate và Platon như những triệu chứng suy đồi, như những công vụ của sự băng hoại của Hy Lạp, như những kẻ nguỵ Hy Lạp, như những kẻ bài Hy Lạp (Sự khai sinh của bi kịch, 1872). Sự consensus sapientium - như càng ngày tôi càng thấy rõ - chẳng chứng tỏ một chút nào rằng họ có lý về điều mà họ đồng ý với nhau: nó chỉ chứng tỏ rằng chính họ, những kẻ khôn ngoan nhất, một cách nào đó về phương diện sinh lý, họ tương tự như nhau để có cùng một thái độ như nhau đối với cuộc đời - để bắt buộc phải có thái độ đó. Sau hết, những phán đoán và những thẩm định giá trị về cuộc đời, dù tán dương hay chống lại, đều không thể đúng được: giá trị đích thực của chúng nằm trong sự kiện chúng là những triệu chứng; chúng chỉ có thể được coi như là triệu chứng mà thôi - trong tự thể những phán đoán này là những điều xuẩn ngốc. Chúng ta phải cố gắng bằng mọi cách để lãnh hội sự tế nhị siêu phàm này là giá trị của cuộc đời không thể thẩm định được [14]. Không thể thẩm định được bởi một người còn sống, bởi hắn là thành phần, là đối tượng của chính cuộc tranh luận nữa, chứ không phải là quan toà; cũng không thể bởi một người đã chết vì một lý do khác. - Về phần một triết gia, nhìn một vấn đề trong giá trị của cuộc đời, là một vấn nạn chống lại chính hắn, một dấu hỏi về sự khôn ngoan của hắn, một sự thiếu khôn ngoan [15] nữa - Sao? Tất cả những người khôn ngoan vĩ đại này - không những họ là những décadents mà họ còn không khôn ngoan nữa sao? - Nhưng tôi xin trở lại vấn đề Socrate.
3.
Xét về nguồn gốc, Socrate thuộc về đẳng cấp thấp hèn nhất: Socrate thuộc dòng hạ lưu. Người ta biết, người ta có thể thấy ông ta xấu xí biết chừng nào nữa. Nhưng sự xấu xí tự nó đã là một vấn nạn, hầu như là một bác luận nơi người Hy Lạp. Socrate có đúng là người Hy Lạp không? Sự xấu xí thường là dấu hiệu của một sự phát triển bị ngăn chặn, một sự phát triển bị cản trở bởi sự pha giống. Trong trường hợp khác, nó hiện ra như một sự phát triển suy đồi. Những nhà nhân chủng học chuyên khảo về tội ác học tuyên bố rằng kẻ tội phạm đặc trưng xấu xí: monstrum in fronte, monstrum in animo [16]. Nhưng kẻ tội phạm là một kẻ décadent [17]. Socrate có phải là một kẻ tội phạm đặc trưng không? - Dù sao điều đó cũng không trái ngược với ý kiến của nhà chuyên coi tướng mạo, ý kiến khiến bằng hữu của Socrate tức giận. Trong khi đi qua thành Nhã Điển, một người ngoại quốc biết coi tướng mặt đã nói thẳng vào mặt Socrate rằng ông ta chỉ là một quái vật, ông ta chứa dấu trong mình tất cả những tật xấu và những khát vọng đồi bại. Và Socrate chỉ đáp: “Thưa ông, ông biết tôi rõ lắm”.
4.
Không những sự hoang đàng và hỗn loạn của bản năng chỉ sự décadence nơi Socrate: mà sự bội dư của những khả năng luận lý, và sự độc ác méo mó còn là những đặc tính nổi bật nơi ông ta nữa. Chúng ta đừng quên rằng những ảo tưởng thính giác, dưới danh từ “con quỷ của Socrate”, được diễn giải theo một ý nghĩa tôn giáo. Tất cả mọi sự nơi ông ta đều quá đáng, hài hước, hoạt kê, đồng thời đều giấu diếm, có ẩn ý, tà khuất. Tôi cố gắng tìm hiểu xem đặc tính nào đã có thể khai sinh ra cái phương trình Socrate này: lý trí = đức hạnh = hạnh phúc: cái phương trình quái gở nhất, và đặc biệt, nghịch lại tất cả mọi bản năng Hy Lạp xưa.
5.
Với Socrate, thị hiếu Hy Lạp biến đổi theo chiều thuận lợi cho biện chứng pháp: thực ra điều gì đã xảy ra? Trước hết, thị hiếu cao nhã đã biến mất; với biện chứng pháp, đám hạ lưu len chân tới thượng đỉnh. Trước Socrate, những lề lối biện chứng bị khai trừ trong xã hội thượng lưu: chúng bị coi như những kiểu cách xấu xa, chúng có tính cách thỏa hiệp bình dân. Thanh niên được cảnh giác lánh xa. Người ta còn nghi kị cả những kẻ trình bầy lý lẽ của mình. Những sự việc lương thiện cũng như những con người lương thiện không mang phơi trần những lý lẽ của mình cách ấy. Phơi bầy cái tốt lành của mình là điều vô phép. Cái cần phải chứng rỏ không có giá trị bao nhiêu. Bất cứ nơi nào mà uy quyền hãy còn thuộc tập tục tốt, bất cứ nơi nào mà người ta không “luận lý” mà chỉ ra lệnh, thì nhà biện chứng pháp là một thứ hề: hắn bị chế nhạo, hắn không được coi trọng. Socrate là tên hề thành công trong việc bắt người khác coi mình là trọng: vậy thì chuyện gì đã thực sự xảy ra?
6.
Người ta chỉ chọn biện chứng pháp khi nào không còn cách nào khác. Người ta biết rằng biện chứng pháp gây ra nghi ngờ, rằng nó không hùng hồn lắm. Không có gì dễ xóa bỏ hơn hiệu quả biện chứng: sự kiện này được chứng minh trong những cuộc hội thảo. Nó chỉ có thể là sự tự vệ cuối cùng của những người không có khí giới. Người ta phải dành giật quyền hành của mình: nếu không, người ta không dùng đến nó. Đó là lý do tại sao, những người Do Thái đều là những nhà biện chứng; Lão Cáo-già [18] là nhà biện chứng: sao vậy? Socrate cũng là một nhà biện chứng sao?
7.
Sự hài hước của Socrate là một biểu lộ của phản kháng? Của lòng hờn oán của đám hạ lưu? Ông ta có thích thú nếm mùi tàn bạo của chính mình trong mũi dao nhọn của tam đoạn luận, như một kẻ bị áp chế không? Ông có trả thù những người quí phái ông dụ hoặc không? - Là một nhà biện chứng, người ta nắm trong tay một khí cụ tàn nhẫn; với sự trợ giúp của nó người ta có thể làm một bạo chúa; người ta thỏa hiệp trong khi chiến thắng. Nhà biện chứng để nó lại cho địch thủ để chứng tỏ rằng hắn không phải là một tên ngốc: hắn làm người ta nổi điên và đồng thời trở nên bơ vơ không nơi nương tựa. Nhà biện chứng bất lực hóa trí tuệ đối thủ. Sao? Biện chứng pháp chỉ là một hình thức trả thù trong trường hợp Socrate?
8.
Tôi đã cho thấy bằng cách nào Socrate có thể làm người ta xa lánh: bây giờ điều quan trọng nhất là giải thích sự kiện ông ta đã mê hoặc cách nào. Ông ta đã khám phá ra một nghệ thuật chiến đấu mới, ông ta là kiếm sư đầu tiên của những giới quí tộc ở Nhã Điển, đó là lý do thứ nhất. Ông ta mê hoặc bởi ông ta khêu gợi những bản năng hiếu chiến của người Hy Lạp, - ông ta đã đưa vào trường đô vật giữa người lớn và thanh niên một sự thay đổi. Socrate còn là một người đại dâm đãng.
9.
Nhưng Socrate còn tiên đoán nhiều cái khác nữa. Ông ta nhìn thấu suốt những nhà quí phái Nhã Điển; ông ta thấy rằng trường hợp của ông ta, trường hợp riêng của ông ta, chẳng phải là trường hợp ngoại lệ phi thường, ngay cả trong thời đại ông ta. Sự suy đồi tương tự thầm lặng sửa soạn ở khắp nơi: thành Nhã Điển cổ kính đang hấp hối. Và Socrate hiểu rằng toàn thể thế giới cần ông ta - cần phương thuốc, cách chữa trị, phương thức tự bảo tồn đặc biệt của ông ta. Ở khắp nơi, những bản năng đều ở trong tình trạng hỗn loạn; khắp nơi người ta chỉ cách xa sự thái quá có một bước: monstrum in animo là hiểm họa chung. “Bản năng muốn đóng vai bạo chúa chuyên chế; cần phải tạo ra một phản bạo chúa mạnh hơn”... Khi nhà chuyên coi tướng mạo đã cho Socrate thấy con người thực của ông ta, một miệng núi lửa đầy rẫy mọi khát vọng xấu xa, nhà đại hài hước này đã thốt ra một câu cho chúng ta một cái chìa khóa mở vào bản chất của ông ta. “Điều đó đúng, nhưng tôi đã chế ngự được tất cả.” Bằng cách nào Socrate đã tự chủ được chính mình? Trường hợp của ông ta, rốt cuộc cũng chỉ là trường hợp thái quá, một thí dụ rõ rệt nhất của một trạng thái tuyệt vọng đang bắt đầu trở thành phổ quát: không ai còn có thể tự làm chủ mình nữa, những bản năng đang trở nên chống đối lẫn nhau. Ông ta cám dỗ vì là thí dụ thái quá của trạng thái này - sự xấu xí khủng khiếp của ông ta khiến mọi mắt nhìn đều tỏ rõ: ông ta còn cám dỗ hơn nữa, điều đó tự nhiên, như một câu trả lời, như một phương sách, như một cách chữa trị hiển nhiên của trường hợp này.
10.
Khi người ta thấy cần phải biến lý trí thành một bạo chúa chuyên chế, như Socrate đã làm, thì hiểm họa một cái gì khác cũng muốn thủ vai bạo chúa chuyên chế không phải là nhỏ. Chính lúc đó lý trí được khám phá như một đấng cứu thế. Cả Socrate lẫn những “kẻ bệnh hoạn” không được tự do chọn có lý hay không có lí: điều đó tính cách de rigueur, đó là phương thuốc cuối cùng của họ. Sự cuồng tín mà toàn thể tư tưởng Hy Lạp nhào vào lý trí tố cáo một tình trạng khẩn trương: như người ta đang trong cơn hiểm hoạ, người ta chỉ có một sự lựa chọn duy nhất: hoặc là chìm đắm tận đáy hoặc - lý trí một cách phi lí... Chủ trương đạo đức của những triết gia Hy Lạp từ Platon bị điều kiện hóa của một cách bệnh hoạn; sự thẩm định về biện chứng pháp của họ cũng vậy. Lý trí = đức hạnh = hạnh phúc chỉ có nghĩa: người ta phải bắt chước Socrate và đương đầu với những đam mê đen tối bằng cách thường trực tạo ra ánh sáng ban ngày - ánh sáng lý trí. Phải thận trọng, sáng sủa, minh bạch bằng mọi giá: tất cả mọi nhượng bộ cho bản năng, vô thức đều đưa xuống dốc...
11.
Tôi đã cho thấy cách mà Socrate cám dỗ: ông ta có vẻ là một thầy thuốc, một đấng cứu thế. Có cần phải vạch ra sự sai lầm trong niềm tin vào “lý trí với bất cứ giá nào” của ông ta nữa không? - Đó là một sự tự lừa dối về phía những triết gia và những nhà luân lý khi họ tin tưởng rằng họ thoát ra khỏi sự décadence bằng cách gây chiến với nó. Điều đó ở trên khả năng của họ: cái họ chọn lựa như một phương thuốc, như một phương tiện cứu chuộc, lại chỉ là một sự biểu lộ khác của sự décadence - họ chỉ thay đổi cách biểu lộ của nó, chứ họ không hủy bỏ được chính nó. Socrate là một sự ngộ nhận; toàn thể luân lý nhằm cải thiện, kể cả luân lý Kitô giáo là một sự ngộ nhận... Ánh sáng chói lọi nhất, lý trí với bất cứ giá nào, đời sống minh bạch, lạnh lùng, thận trọng, ý thức, không phải bản năng, chống lại bản năng, chỉ là một sự bệnh hoạn, một thứ bệnh hoạn mới - chứ không phải là một sự trở về “đức hạnh”, “sức khỏe”, hạnh phúc... Bắt buộc phải chiến đấu chống lại bản năng - đó là định thức của sự décadence: chừng nào mà cuộc đời còn đi lên thì hạnh phúc và bản năng đồng nhất.
12.
Tự ông ta có hiểu điều đó không, ông ta, người thận trọng nhất trong những kẻ tự lừa dối mình? Ông ta có tự thú nhận với mình vào giây phút cuối cùng, trong sự khôn ngoan của lòng can đảm trước cái chết không?... Socrate muốn chết: - Không phải Nhã Điển mà chính là ông ta tự trao cho mình chén thuốc độc... “Socrate không phải là thầy thuốc”, ông ta thầm nhủ: “Chỉ có cái chết mới là thầy thuốc ở đây... Chỉ có Socrate mới đau một cơn đau dài...”


Nguồn:  Friedrich Nietzsche, Hoàng hôn của những thần tượng hay làm cách nào triết lý với cây búa (1971), Nguyễn Hữu Hiệu dịch, Nxb. Hồng Hà.


[1] Tinh thần lớn mạnh, sức khỏe gia tăng bởi vết thương - Ghi chú của Dịch giả (G.c.D.)
[2] Tức Kẻ chống Chúa - (G.c.D.)
[3] Suche Nullen! “Nullen” có nghĩa là không ai cả, số không và đồng thời cũng có nghĩa là Hư không. - (G.c.D.)
[4] Posthume menschen. Nietzsche thường tự coi mình như một con người sống phi thời gian (unzeitghe mäss), trên thời gian, độc lập với thời đại, sống như một cái bóng trong lúc sinh thời và chỉ hồi sinh, sống động sau khi đã chết đi. Con người thuộc về tương lai, sống cho và sống với thế hệ mai hậu. CT. “Những suy tưởng phi thời” (Unzeitgemässe Betrachtungen). - G.c.D.
[5] Pháp văn trong nguyên bản: “Ist sie nicht ein Attentat auf alle unsre pudeurs?”: “Nó không phải là sự xâm phạm tiết hạnh của chúng ta sao?” - G.c.D.
[6] Kể từ ngày thành lập Reich (Đế Quốc)
[7] Trái ngược về thời gian
[8] Có lẽ phải viết: “Vì muốn tìm về nguồn gốc khởi nguyên, người ta trở thành một con cua”. Nhưng Nietzsche viết: “Damit, dass man nach den Anfăngen sucht, wird man Krebs” - G.c.D.
[9] Pháp văn trong nguyên bản: “Người ta chỉ có thể suy tưởng và viết khi ngồi.” - G.c.D.
[10] Esculape hay Asklêpios viết theo tiếng Hy Lạp, là Thần Y thuật hay tổ sư nghề thuốc.
[11] La văn: sự đồng ý của những kẻ khôn ngoan. “Der consensus sapientium beweist die wahrrheit”: “Sự đồng ý của những kẻ khôn ngoan là bằng chứng của chân lý.”
[12] Pháp văn trong nguyên bản: suy đồi, một trong những khai ngữ của Nietzsche, chỉ những kẻ bi quan, hướng vọng quá khứ, Thiên Đàng, Thượng Đế và tuyệt vọng - G.c.D.
[13] Niedergangs – Typen - G.c.D.
[14] der Wert des Lebens nicht abgeschätzt werden kann.
[15] Nietzsche công kích Engène Dühring, tác giả Giá trị của cuộc đời - G.c.D.
[16] La văn trong nguyên tác: một quái vật trên nét mặt, một quái vật trong linh hồn.
[17] Nietzsche phân biệt hai thứ tội phạm, một thứ tội phạm vì dũng mãnh, một thứ tội phạm vì yếu hèn. Do đó có một thứ tội phạm phẩm cách cao nhã, một thứ tội phạm đáng kinh tởm. Ở đây nói về loại thứ hai, trong khi ở đoạn 45, chương “Những cuộc viễn hành của con người phi thời” đề cập tới loại thứ nhất. - G.c.D.
[18] Reineke Fuchs - G.c.D.
Share this article :
 
Support : Creating Website | phuctriethoc | NGUYỄN VĂN PHÚC
Copyright © 2013. NGUYỄN VĂN PHÚC - All Rights Reserved
By Creating Website Published by KINH TẾ HỌC
Proudly powered by NGUYỄN VĂN PHÚC
NGUYỄN VĂN PHÚC : Website | Liên hệ | phuctriethoc@gmail.com
Proudly powered by Triết học kinh tế
Copyright © 2013. NGUYỄN VĂN PHÚC - All Rights Reserved