Home » » BUỔI HOÀNG HÔN CỦA NHỮNG THẦN TƯỢNG

BUỔI HOÀNG HÔN CỦA NHỮNG THẦN TƯỢNG

Written By kinhtehoc on Thứ Bảy, 14 tháng 1, 2012 | 00:42

BUỔI HOÀNG HÔN CỦA NHỮNG THẦN TƯỢNG
HAY LÀM CÁCH NÀO TRIẾT LÝ VỚI CÂY BÚA
[Phần 1]


LỜI GIỚI THIỆU

1
NĂM 1888 TRONG CUỘC ĐỜI VÀ TƯ TƯỞNG CỦA NIETZSCHE

Mặt trời lên cao đỉnh rồi bùng vỡ trong Van Gogh trong năm 1888. Đó cũng chính là thời kỳ sáng tạo dữ dội nhất của ông. Bóng tối lưỡng lự đã bị lùa ra khỏi tranh. Bàn tay trở nên chính xác một cách tàn bạo. Nét cọ tung hoành như sấm sét. Màu sắc loé sáng trong khi tâm trí đã bắt đầu hôn ám. Nhưng trong buổi hoàng hôn của tâm thức đó, viễn tượng đã kết hợp một cách kỳ diệu với thực tại.

Ngày 21 tháng 4 năm sau, Van Gogh viết cho em: “Điều an ủi anh đôi chút là anh bắt đầu coi sự điên cuồng như một chứng bệnh giống như những bệnh tật khác, trong khi đó ngay cả trong những cơn khủng hoảng, anh thấy dường như tất cả những gì anh tưởng tượng trước kia đều là thực tại cả.” Và ông lăn xả vào công việc, vẽ từ sáng tới tối. Người ta kể lại rằng những người bạn đồng phòng với ông khi đi ra thấy ông đang vẽ một tấm tranh, vài giờ sau trở vào đã thấy ông vẽ một tấm tranh khác. Ông làm việc như kẻ bị quỷ ám, “j’ai une fureur sourde de travail plus que jamais” (9/1889). Ông không thể ra khỏi hội hoạ, nghĩa là ra khỏi thực tại, làm mồi cho điên cuồng và phiền não. “Trong tất cả mọi trường hợp, tìm cách trung thành với sự thực có lẽ là một phương thuốc để chống lại bệnh tật đang làm anh lo âu” (thư cho Théo, 12 tháng 2 năm 1890). Có lẽ Vincent van Gogh linh cảm thấy rằng phần ánh sáng dành cho ông sắp hết và ông phải tận dụng nó, nhìn lần cuối cùng trong ánh sáng viễn tượng những thực tại đã bị thói quen giả dối chôn vùi. Trường hợp Nietzsche cũng tương tự như vậy. Năm 1888 là cực điểm sáng suốt và sáng tạo của Nietzsche, đồng thời cũng là cực độ của đau khổ và cô đơn của ông. Ngày 12 tháng 2 năm 1888, Nietzsche viết cho bá tước Seydlitz: “Bây giờ tôi cô đơn, cô đơn một cách phi lý; trong cuộc chiến tàn khốc và âm thầm mà tôi theo đuổi (dưới uy thế Đảo Hoán mọi Giá Trị) chống lại tất cả những gì đã được mọi người tôn sùng và quí trọng từ xưa tới nay, chính tôi đã trở thành một cái u hồn cốc mà không hay...” Trong tình cảnh đó ông chỉ cầu xin một điều: “Sự thanh bình, quên lãng, sự khoan dung của mặt trời và của mùa thu cho một cái gì đang muốn chín tới, cho sự chứng thực và biện minh của toàn thể con người tôi...” (thư cho Paul Dessen, 3 tháng Giêng năm 1888). Kết quả là năm tác phẩm cuối cùng, chín mùi nhất, mãnh liệt nhất của Nietzsche hoàn thành trong năm này: Trường hợp Wagner, Hoàng hôn của những thần tượng, Kẻ chống Chúa, Nietzsche chống Wagner, Ecce Homo và tụng ca Dionysos.

Quả thực năm 1888 là cực điểm của cuộc đời và tư tưởng Nietzsche. Trước hết nó là cao độ của một thập niên đầy sáng tạo khởi đầu từ 1878 với Phàm phu, quá phàm phu, tác phẩm đầu tiên mà trong đó chan hòa ánh sáng thiên tài, kế đó Ý kiến tương hợp và châm ngôn (1879), Lữ khách và bóng hình mình (1880), Bình minh (1881), Tri thức hân hoan (1882 - bổ túc thêm năm 1887), Zarathustra đã nói như thế (1883–1885), Phi thiện ác (1886) và Phổ hệ luân lý (1887). Song song những tác phẩm trên, trong nhiều thập niên này Nietzsche còn đưa ra nhiều tư tưởng dũng mãnh quanh chủ đề Ý chí hùng cường. Sang năm 1888, Nietzsche bỏ Ý chí hùng cường và thay thế bằng Cuộc đảo hoán mọi giá trị, trong đó Kẻ chống Chúa, là tác phẩm mở đầu.

Năm 1888 còn có ý nghĩa cực điểm trong cuộc đời và tư tưởng Nietzsche ở chỗ toàn bộ tác phẩm viết trong năm này là những cuộc duyệt xét lại và toát lược lại toàn thể những chủ đề triết lý của ông và của hai ngàn năm triết học Tây phương trong ánh sáng chói loà cuối cùng của tâm thức, ở một cao độ buốt giá, bằng một bút pháp sắc bén, cô đọng. Sau đó là bóng tối và yên lặng hoàn toàn. Đầu tháng Giêng 1889, tinh anh ông đã vỗ cánh bay cao, và ông không viết thêm một dòng nào nữa mặc dầu thể phách còn ngồi lại mười năm nữa, tới tháng 8 năm 1990.

2.
BUỔI HOÀNG HÔN CỦA NHỮNG THẦN TƯỢNG

Tác phẩm “Buổi hoàng hôn của những thần tượng hay làm cách nào người ta triết lý với cây búa?” (Götzen-Dämmerung, oder: Wie man mit dem Hammer philosophiert?) được viết trong khoảng thời gian từ cuối tháng Sáu tới đầu tháng Chín năm 1888 và được đem ấn hành vào tháng Mười cùng năm. Mới đầu tác phẩm mang tựa đề Sự nhàn rỗi của một tâm lý gia hay Những giờ nhàn cư của một tâm lý gia (Müssiggang eines Psychologen). Nhưng sau đó, theo lời yêu cầu của Peter Gast, một cao đồ trung thành của Nietzsche, đòi ông phải tìm một tựa đề “huy hoàng” hơn cho tác phẩm, Nietzsche nhượng bộ, phỏng theo nhan đề vở Hoàng hôn của những thần thánh (Götterdämmerung) của Wagner, đặt lại là Hoàng hôn của những thần tượng (Götzen-Dämmerung).

Thần thoại Bắc Âu kể rằng tất cả mọi thần thánh đều có ngày tàn mạt, ngày họ tan biến vào hư vô. Đó là buổi hoàng hôn của thần thánh. Richard Wagner đã mượn thần thoại này để dựng vở kịch thứ tư trong bộ Tứ ca bộ kịch (Tétralogie) của ông, Nietzsche thay đổi tựa đề và cả ý nghĩa. “Thần tượng” là biểu tượng Nietzsche dùng để chỉ chân lý. “Buổi hoàng hôn của những thần tượng” có nghĩa là sự sụp đổ của mọi chân lý.

Không một thực tại, một ý tưởng, một lý tưởng, một chân lý, một “thần tượng” nào tác phẩm này không chạm tới. Từ những chân lý vĩnh cửu đến những chân lý, giá trị mới mẻ. “Một cơn gió lớn thổi qua rặng cây... và trái chín rụng rơi tơi tả: những chân lý”. (Ecce Homo). Nhưng những cái người ta có thể lượm trong tay chẳng có gì ngọt ngào. Vì đó chỉ là những trái thối hư, thực phẩm vô vị đã hết dưỡng chất của hai ngàn năm qua cần phải liệng bỏ. Tất cả mọi chân lý đều nhạt phai và phải xóa đi, mọi thần tượng đều hết thiêng liêng và phải tiêu diệt. Duy chỉ có cuộc đời là vĩnh cửu. Tất cả mọi hiểu biết đều sai lầm, mọi luân lý đều độc hại. Duy chỉ có bản năng là tốt lành.

Đây là cuộc Tuyên chiến vĩ đại. Đây là cuộc mổ xẻ tàn nhẫn lý trí, luân lý, tâm lý học, lòng ái quốc, vị tha, tình nhân loại... Đây là cuộc lột mặt nạ không thương tiếc những nhân vật, “những thần tượng” tượng trưng cho những chân lý, những giá trị cũ: Socrate, Platon, thiện ác, đẹp xấu... và những “thần tượng” tượng trưng cho những chân lý và giá trị mới: Renan, Rousseau, Sainte-Beuve, G. Eliot, George Sand, Schopenhauer, Comte, Kant, Schiller, Zola, Victor Hugo, Listz, Carlylle, nghệ thuật vị nghệ thuật, dân chủ, tiến bộ...

Trên tất cả, chúng ta tìm thấy trong tác phẩm này những tư tưởng hữu thể học quan trọng nhất của Nietzsche. Đúng hơn, chúng ta thấy những diễn dịch về những vấn đề cốt yếu từ quan điểm biến dịch siêu hình của ông dựa trên phương trình căn bản cũng là tiền đề của ông - là: hữu thể học truyền thống coi là “hữu thể chân thực” (Wahres-Sein) cái thực ra chỉ là một ảo tưởng, một ảo tưởng có tất cả đặc tính của phi thể (Nicht-Sein) và vô thể (Nichts) và chối bỏ, coi như “phi hữu” và phi thực cái thực ra là hữu thể đích thực và hữu thể duy nhất. Cái từ xưa tới nay, người ta coi là hiện thể đích thực, thực ra chỉ là mộng huyễn bào ảnh, trong khi cái từ xưa tới nay người ta coi là mộng huyễn bào ảnh lại chính là hiện thể chân thực. Cái từ xưa tới nay được coi là “hữu thể” (Sein) đối nghịch với biến dịch không có, trong khi chỉ có cái biến dịch hiện hữu mà thôi. Không có “hữu thể” siêu thời gian và không gian, cũng như không có tâm linh thế giới, Linh tượng giới (le monde des idées) hay thế giới của những ý tưởng vĩnh cửu mà chỉ có thế giới khả giác (monde sensible), hiện hữu trong không gian thời gian. Không có thế giới tự nội (monde en-soi), mà chỉ có thế giới hiển lộ (monde des apparences). Không có thế giới khác mà chỉ có thế giới này, thế giới chân thực, duy nhất, linh động mà nguyên động lực là ý chí hùng dũng. Không có thế giới nào khác. Tất cả những ý nghĩ, khát vọng về một thế giới khác chỉ là cách trả thù cuộc đời “bằng sự lạm dụng ảo tưởng” về một cuộc đời “tốt đẹp hơn”. Sự chia thế giới ra làm một thế giới “tự nội” và một thế giới “bề ngoài” là dấu hiệu của sự suy đồi- một triệu chứng của sa đoạ. “Sự kiện người nghệ sĩ đặt bề ngoài lên trên thực tại không phải là một vấn nạn chống lại mệnh đề này. Bởi “bề ngoài” ở đây cũng có nghĩa là thực tại nữa, nhưng mà là dưới một hình thức lựa chọn, kiên cường hoá, sửa sai... Người nghệ sĩ bi tráng không bi thảm,- hắn gật đầu nói “ừ” trước tất cả những gì còn hồ nghi và khủng khiếp của cuộc đời, hắn là kẻ theo Dionysos”.

 Chương quan trọng nhất và cũng là trọng tâm của tác phẩm là chương “Lí trí trong triết học”. Trước đó là “Vấn đề Socrate”, sau đó là “Luân lý như một cái gì phản tự nhiên”. Trước kia Nietzsche lên án khoa học, triết học vì chúng bị đầu độc bởi luân lý. Bây giờ Nietzsche lên án luân lý, triết học, khoa học bởi chúng bị đầu độc bởi lý trí, hay đúng hơn, bởi những sự lầm lẫn lớn lao của lý luận. Những triết gia lầm lẫn lấy hậu quả làm nguyên nhân, nguyên nhân làm hậu quả. Nietzsche bài bác gắt gao phương trình quái gở và bệnh hoạn này của Socrate: lý trí = đức hạnh = hạnh phúc. Socrate, Platon là những triệu chứng suy đồi. Thế nào là suy đồi (décadence)? “Bị bắt buộc phải chiến đấu chống lại bản năng đó là định thức của suy đồi, khi cuộc đời hướng thượng, hạnh phúc và bản năng là một.” Tất cả mọi sự tốt lành đều thuộc bản năng. Alles Gute ist Instinkt. Nietzsche coi như có bổn phận chống lại quan niệm cho Thượng Đế = thế giới khác của “hữu thể chân thực”. Vì quan niệm như thế, người ta bắt buộc phải coi rẻ những thực tại trần gian mà giác quan chứng nghiệm, khi coi chúng là hiển thể (Schein) không thực thể, và đi đến chỗ khước từ cuộc sống nhục cảm, lành mạnh, coi như “tội lỗi”. Theo Nietzsche, với Thượng Đế, người ta đặt thành tuyệt đối thể một hữu thể tưởng tượng, phi thời gian bên trên những thực tại trần gian, những cái duy nhất có thực thể trong dòng biến dịch. Một Thượng Đế, nếu được quan niệm như thế, sẽ làm nền tảng cho một thứ luân lý vô cùng nguy hại cho con người và cuộc đời. Đó là một hữu thể học luân lý hóa hay một luân lý hữu thể học hoá. Cần phải giải phóng hiện thể khỏi thứ hữu thể học hay luân lý này. Đó là một nhiệm vụ nặng nề mà Nietzsche gọi là cuộc “Đảo hoán mọi giá trị”. Đó là công việc của người nghệ sĩ bi tráng, kẻ nói “ừ” trước tất cả mọi hồ nghi và khủng khiếp. Người nghệ sĩ bi tráng chọc thủng hiển thể để đạt tới thực thể một cách can đảm. Hắn dám chấp nhận cái chết của Thượng Đế và dám đập “bằng cây búa” tất cả những chân lý cắm rễ sâu nhất trong lòng đời và dám đốn ngã những thần tượng được tôn kính của truyền thống và thừa can đảm để gây nên những “âm thanh trống rỗng” của buổi chiều tà. Đi vào “Hoàng hôn của những thần tượng” và đương đầu với “Đêm tối của Hư vô chủ nghĩa” là những sứ mệnh lịch sử của người nghệ sĩ bi tráng cũng như của tất cả những tinh thần tự do không chấp nhận làm rêu mốc bám trên những bậc thềm, những bờ tường nứt nẻ của những miếu đường hoang vắng nữa. Nếu “Hoàng hôn của những thần tượng” có nghĩa là sự lạm phát của mọi chân lý, mọi giá trị thiết định lấy “thế giới chân thực” bên ngoài trần gian, bên kia đời sống làm bản vị, coi những kẻ bạc nhược sa đọa là những kẻ làm giấy bạc, coi đền thờ là những ngân hàng và Thượng Đế là kẻ chế tài thì “Đêm tối của Hư vô chủ nghĩa” chính là sự phá giá của tất cả những chân lý, những giá trị đó. Cả hai đều là những giai đoạn tất yếu và cần phải vượt qua của lịch sử. Chân lý, trần gian, cuộc đời sẽ và chỉ thuộc về những kẻ chân thực, dám đốt đi những bản di chúc hứa hẹn huy hoàng nhưng giả dối và giả tạo như tấm ngân phiếu không tiền bảo chứng, những kẻ sau khi buông rời cây búa phá hủy còn đủ sức mạnh cầm tay cầy khai phá cánh đồng khả thể, khơi mở dòng đời, tạo dựng đời sống trong dòng Hồn nhiên của Biến dịch.

3
SONG LUẬN

Sự thức tỉnh của nhân loại bắt đầu với song luận này: “Hoặc chúng ta phá hủy sự sùng bái của chúng ta hoặc chúng ta phá hủy chính chúng ta” (Der Will zur Macht, III) Chúng ta đã phải trả giá khá đắt cho những “chân lý” thiêng liêng, những sai lầm in physiologicis (Ibid, II) Nietzsche tự coi như bổn phận việc “sửa soạn cho nhân loại một giây phút tuyệt vời trở về chính mình, một buổi giữa ngọ rực rỡ để quay về quá khứ và đưa mắt nhìn về tương lai, để rũ khỏi ách đô hộ của tình cờ và của những giáo sĩ và đặt câu hỏi tại sao và thế nào trong toàn bộ của nó lần thứ nhất, bổn phận này thiết yếu bắt nguồn từ lòng xác tín rằng nhân loại tự mình đã không đi theo đúng chính đạo, đã không được điều động bởi một thần tính mà trái lại đã để bị lôi cuốn và chế ngự bởi một bản năng tiêu cực, hư hỏng, bởi bản năng suy đồi mà nhân loại đặt lên hàng những giá trị tối thiêng liêng” (Ecce Homo, III, 2), vì thế “sự khôn ngoan xuất hiện trên trái đất này từ xưa tới này như một con quạ khoang bị hấp dẫn bởi mùi tử khí”, hay cũng có thể nói như một con cú vọ chuyên soi mói những khía cạnh đen tối cuộc đời và thốt lên những tiếng bi ai. Đó là sự khôn ngoan của tinh thần nặng nề, tìm sự giải thoát bằng cách tiêu diệt ý chí sống. Nietzsche gây chiến chống lại chủ trương tiêu cực mệt mỏi đó. Kết quả của nỗ lực bền bỉ, can đảm, cứng cỏi, âm thầm này là sự hân hoan hay “tri thức hân hoan” theo ngôn ngữ Nietzsche. “Kẻ nào trèo lên núi cao, kẻ ấy tự cười mọi bi kịch giả tạo hay có thực.” Trên bàn thờ những giá trị mới, tiếng cười chiến thắng đã thay thế tiếng thở dài đầu hàng. “Tôi đã phong thánh tiếng cười, hỡi những con người siêu đẳng, hãy học cười!”. Bằng tiếng cười hồn nhiên ròn rã, chúng ta quét sạch mọi thần tượng trang trọng đăm chiêu và đón chào một thế giới tinh khôi rực rỡ.

KHAI TỪ

Duy trì được sự thanh thản giữa một sự vụ u sầu và có thể biện minh quá độ chừng đâu phải là một nghệ thuật không đáng kể: tuy nhiên có điều gì cần thiết hơn thanh thản chăng? Chẳng việc gì thành công nếu lòng hăng hai chẳng tham dự vào. Chỉ có sự thặng dư của sức mạnh mới là bằng chứng của sức mạnh. Đảo hoán mọi Giá Trị, dấu hỏi quá đen, quá lớn hắt bóng tối lên kẻ đặt ra nó, - định mệnh của một công việc như vậy buộc người ta từng giây phút phải lao thẳng vào mặt trời, rũ bỏ vẻ trang nghiêm đã đè ta quá nặng. Tất cả mọi phương tiện đều được biện minh, mọi “cơ hội” đều là cơ hội tốt. Trên tất cả, chiến tranh. Chiến tranh luôn là sự minh mẫn thận trọng ghê gớm của tất cả những tinh thần đã trở nên quá chuyên tâm, của tất cả những tinh thần đã trở nên quá thẳm sâu; khả năng chữa trị đã nằm ngay trong vết thương. Một câu phương ngôn mà xuất xứ tôi cố tình dấu nhẹm óc tò mò trí thức, từ lâu đã trở thành phương châm của tôi: increscunt animi, virescit volnere virtus [1]

Một hình thức chữa trị khác, trong một vài trường hợp còn thích hợp với tôi hơn nữa, đó là thăm dò những thần tượng... Trên thế giới có nhiều thần tượng hơn là thực tại: đó là “ác nhãn” của tôi đối với thế giới này, đó cũng là “ác nhĩ” của tôi nữa... Ở đây đặt ra những câu hỏi với một chiếc búa và có thể nhận được như một hồi âm cái âm thanh trống rỗng thốt lên tự lòng hiu hiu tự đắc - thích thú thay cho kẻ nào có một đôi tai khác nữa sau đôi tai của mình, - đối với tôi, một tâm lý gia và một kẻ đánh bẫy chuột cố cựu, trước sự hiện diện của kẻ đó quả thực những gì muốn thủ khẩu như bình cũng phải thốt lên tiếng nói...

Cả cuốn sách này nữa - nhan đề đã bộc lộ nội dung - trước hết là một sự giải trí, một chấm ánh sáng, một cuộc đào thoát vào những giờ nhàn rỗi của một tâm lý gia. Có thể còn là một cuộc chiến tranh mới nữa? Và biết đâu có thể bắt được quả tang những bí mật của những thần tượng mới?... Cuốn tiểu luận này là một cuộc khai chiến vĩ đại; còn về vấn đề nhằm thăm dò những thần tượng, lần này không phải là những thần tượng thời đại mà là những thần tượng vĩnh cửu ở đây sẽ bị đụng chạm đến bằng một chiếc búa như thể bằng cái âm thoa - cuối cùng không còn những thần tượng cổ kính nữa... Cũng không còn những thần tượng trống rỗng nữa... Nhưng điều đó không ngăn cản được người ta tin tưởng nhất; cũng như không ngăn cản người ta, ngay cả trong những trường hợp cao quí nhất, không gọi là thần tượng nữa...

Turin, 30 tháng Chín, 1888, ngày hoàn tất cuốn sách đầu tiên của Cuộc đảo hoán mọi Giá Trị [2]
Friedrich Nietzsche


CHÂM NGÔN VÀ TÊN NHỌN

1.
Nhàn cư là khởi đầu của tất cả mọi tâm lý học. Sao? tâm lý học có thể là... một tật xấu?
2.
Ngay cả kẻ can đảm nhất trong chúng ta cũng ít khi có đủ can đảm khẳng định điều hắn thực sự biết.
3.
Để sống một mình người ta phải là một con vật hay một thần thánh - Aristote nói như vậy. Còn có trường hợp thứ ba nữa: người ta phải vừa là thú vật vừa là thần thánh - đó là triết gia.
4.
“Tất cả mọi chân lý đều đơn giản.”- Đó không phải là một lời dối trá phức tạp sao?
5.
Nói một lần dứt khoát, có nhiều điều tôi không muốn biết. - Minh triết vạch ra những giới hạn, ngay cả đối với hiểu biết.
6.
Chính vì trong bản chất của người ta có chất man rợ mà người ta có thể khôi phục lại được sự ác tà của mình, tôi muốn nói tâm linh tính...
7.
Sao? Con người chỉ là một sự nhầm lẫn của Thượng Đế hay Thượng Đế chỉ là một sự nhầm lẫn của con người?
8.
Trường chiến tranh của đời. - Cái gì không giết tôi khiến tôi mạnh mẽ hơn.
9.
Hãy tự giúp mình: rồi tất cả sẽ trợ giúp mình. Nguyên tắc bác ái của Kitô giáo.
10.
Chúng ta đừng hèn nhát trước những hành động của chúng ta! Chúng ta đừng bỏ rơi chúng ta trong cơn bối rối! - Sự hối hận của lương tâm là điều khiếm nhã.
11.
Con lừa có thể bi thảm không? - Bị đè bẹp dưới một gánh nặng mà người ta không thể mang cũng không thể quẳng đi?... Trường hợp của triết gia.
12.
Nếu người ta - thủ hữu câu hỏi tại sao của cuộc đời, người ta sẽ quen với bất cứ câu hỏi thế nào nào - Con người không khát vọng hạnh phúc; chỉ có người Ăng Lê làm vậy thôi.
13.
Người đàn ông đã tạo ra người đàn bà - nhưng bằng gì vậy? Bằng xương sườn Thượng Đế của hắn, - bằng lý tưởng của hắn...
14.
Sao? Bạn đang tìm kiếm gì? Bạn muốn nhân bạn lên một chục lần? Một trăm lần? Bạn tìm kiếm những kẻ theo mình? - Tìm hư không! [3]
15.
Những con người sống lại sau khi đã chết [4] - như tôi chẳng hạn - ít được hiểu hơn những người sống phù thời, nhưng họ được người ta lắng nghe chăm chú hơn. Nói rõ hơn: chúng ta không bao giờ được hiểu cả - và đó chính là quyền uy của chúng ta.
16.
Giữa đám quần thoa. - “Chân lý! Ồ! Chị không biết chân lý là gì rồi! Nó chẳng phải là một toan tính xâm phạm pudeur [5] của chúng ta sao?
17.
Đây là một nghệ sĩ, như những nghệ sĩ tôi yêu, đơn giản trong nhu cầu: hắn thực sự cần có hai điều: bánh mì và nghệ thuật của hắn, - panem et Circen...
18.
Kẻ nào không biết đặt ý chí của mình vào sự vật, muốn ít nhất đặt vào trong đó một ý nghĩa: điều đó khiến hắn tưởng trong đó đã hàm chứa một ý chí (nguyên tắc “tin tưởng”).
19.
Sao? Bạn đã chọn đức hạnh và tâm hồn cao thượng đồng thời lại ghen ghét nhìn lợi lộc của những kẻ thô lỗ phóng tâm trục vật? Nhưng với đức tính người ta khước từ “lợi lộc” mà... (để viết trên cửa nhà những kẻ bài Do Thái).
20.
Một người đàn bà hoàn toàn xúc phạm văn chương cũng như nàng phạm một tội lỗi nhỏ: để thử chơi, trong khi quay đầu lại ngó xem ai có để ý không, và để cho một người nào đó để ý...
21.
Phải đặt mình vào những hoàn cảnh trong đó người ta không được có những đức tính giả hình, nhưng trong những hoàn cảnh ấy, tựa như một người múa trên dây hoặc là người ta té hoặc đứng thẳng hoặc từ bỏ...
22.
“Những người độc ác không biết hát”. Vậy thì tại sao những người Nga lại biết hát?
23.
“Tinh thần Đức”: từ mười tám năm nay [6] là một contradictio in adjecto [7].
24.
Vì muốn tìm nguồn gốc khởi nguyên, người ta trở thành một con tôm [8]. Nhà sử học nhìn lại đằng sau: cuối cùng ông ta tin tưởng vào phía sau.
25.
Sự thỏa mãn bảo vệ người ta khỏi ngay cả sự cảm lạnh. Một người đàn bà biết mặc áo quần đầy đủ có cảm lạnh không nhỉ? - Tôi giả thiết trường hợp nàng mặc quần áo mong manh.
26.
Tôi hồ nghi tất cả những người muốn thiết lập hệ thống và tránh xa họ. Ý muốn lập hệ thống là sự thiếu ngay thẳng thanh liêm.
27.
Người ta nói rằng người đàn bà sâu sắc - tại sao? Bởi vì người ta không bao giờ tới được đáy sâu của họ. Người đàn bà không hời hợt nữa.
28.
Khi người đàn bà có những đức tính đàn ông, người ta lảng tránh nàng, và nếu nàng không có những đức tính ấy, nàng sẽ chạy trốn chính nàng.
29.
Trước kia lương tâm phải cắn nhiều xiết bao! Nó có bộ răng tốt biết mấy! Và ngày nay? Có chuyện gì trục trặc xảy ra? - Vấn đề của nha sĩ.
30.
Ít khi người ta phạm nguyên chỉ một lỗi lầm khinh xuất. Với lỗi lầm khinh xuất đầu tiên, người ta luôn làm quá. Chính vì lý do đó, người ta thường phạm lỗi thứ hai - và bây giờ thì lại quá ít.
31.
Khi bị giẫm chân lên, con con sâu sẽ cuộn mình lại. Đó là tính thận trọng khôn ngoan. Bằng cách đó nó giảm dần tai họa bị giẫm lên trên lần nữa. Nói theo ngôn ngữ đạo đức: lòng khiêm tốn.
32.
Sự ghét dối trá và che đậy có thể khởi lên từ quan niệm thái quá về danh dự; sự khinh ghét tương tự có thể khởi lên từ lòng hèn nhát, vì sự dối trá bị cấm bởi luật thiêng liêng. Quá hèn nhát để nói dối...
33.
Cần ít biết chừng nào để được hạnh phúc! Tiếng sáo mục tử. - Không âm nhạc cuộc đời sẽ là một lỗi lầm. Người Đức còn tưởng tượng ngay cả Thượng Đế như một người đang ca hát nữa.
34.
On ne peut penser et écrire qu’assis [9] (G. Flaubert) - Thế là ta tóm được ngươi rồi, kẻ theo hư vô chủ nghĩa! Ngồi đúng là phạm tội với Thánh Linh. Chỉ có những tư tưởng đến với ta khi đang bước đi mới có giá trị mà thôi.
35.
Có những trường hợp chúng ta giống như những con ngựa, chúng ta, những tâm lý gia, và chúng ta trở nên bồn chồn sợ hãi: chúng ta nhìn thấy bóng chúng ta chập chờn trước mặt mình. Tâm lý gia phải quay mặt đi đừng nhìn mình để có thể nhìn thấy tất cả.
36.
Chúng ta có gây tổn thất gì cho đức hạnh không, chúng ta những kẻ vô luân? - Cũng ít như những kẻ vô chính phủ làm hại những ông hoàng vậy thôi. Chỉ khi nào đã bị bắn rồi họ mới có thể ngồi lại một cách vững vàng trên ngôi. Luân lý: người ta phải bắn bỏ luân lý.
37.
Bạn chạy trước những người khác? - Bạn làm như vậy như một mục tử? Hay như một kẻ ngoại hạng? Trường hợp thứ ba có thể như một kẻ đào ngũ... Câu hỏi thứ nhất của lương tâm.
38.
Bạn chân thật? Hay chỉ là một kẻ đóng trò? Một đại diện? Hay chi rlà một kẻ được đại diện? Cuối cùng có lẽ bạn chỉ bắt chước kẻ đóng trò... Câu hỏi thứ hai của lương tâm.
39.
Kẻ bất mãn nói. - Tôi tìm kiếm những vĩ nhân nhưng bao giờ cũng chỉ tìm thấy con khỉ bắt chước lý tưởng của họ.
40.
Bạn là kẻ ngắm nhìn? Hay một kẻ bắt tay vào công việc? - Hay một kẻ ngó lơ quay đi chỗ khác... Câu hỏi thứ ba của lương tâm.
41.
Bạn muốn đi chung cùng bạn hữu? Hay dẫn đầu? Hoặc đi riêng lẻ một mình?... Người ta phải biết mình muốn gì và phải biết rằng mình muốn. - Câu hỏi thứ tư của lương tâm.
42.
Đối với tôi chúng chỉ là những bậc thang và tôi đã bước lên chúng - do đó tôi phải vượt qua chúng. Nhưng chúng lại tưởng rằng tôi muốn ngồi lên chúng.
43.
Có quan hệ gì việc tôi giữ lẽ phải! Tôi có quá nhiều lẽ phải. - Và kẻ nào cười nhiều hôm nay cũng sẽ là kẻ cười cuối cùng.
44.
Định thức hạnh phúc của tôi: một tiếng ừ, một tiếng không, một con đường thẳng, một mục tiêu...

Share this article :
 
Support : Creating Website | phuctriethoc | NGUYỄN VĂN PHÚC
Copyright © 2013. NGUYỄN VĂN PHÚC - All Rights Reserved
By Creating Website Published by KINH TẾ HỌC
Proudly powered by NGUYỄN VĂN PHÚC
NGUYỄN VĂN PHÚC : Website | Liên hệ | phuctriethoc@gmail.com
Proudly powered by Triết học kinh tế
Copyright © 2013. NGUYỄN VĂN PHÚC - All Rights Reserved