BUỔI
HOÀNG HÔN CỦA NHỮNG THẦN TƯỢNG
HAY LÀM
CÁCH NÀO TRIẾT LÝ VỚI CÂY BÚA
[Phần 1]
LỜI GIỚI THIỆU
1
NĂM 1888 TRONG CUỘC ĐỜI VÀ TƯ TƯỞNG CỦA NIETZSCHE
Mặt trời lên cao đỉnh rồi bùng vỡ trong Van Gogh trong
năm 1888. Đó cũng chính là thời kỳ sáng tạo dữ dội nhất của ông. Bóng tối lưỡng
lự đã bị lùa ra khỏi tranh. Bàn tay trở nên chính xác một cách tàn bạo. Nét cọ
tung hoành như sấm sét. Màu sắc loé sáng trong khi tâm trí đã bắt đầu hôn ám.
Nhưng trong buổi hoàng hôn của tâm thức đó, viễn tượng đã kết hợp một cách kỳ
diệu với thực tại.
Ngày 21 tháng 4 năm sau, Van Gogh viết
cho em: “Điều an ủi anh đôi chút là anh bắt đầu coi sự điên cuồng như một chứng
bệnh giống như những bệnh tật khác, trong khi đó ngay cả trong những cơn khủng
hoảng, anh thấy dường như tất cả những gì anh tưởng tượng trước kia đều là thực
tại cả.” Và ông lăn xả vào công việc, vẽ từ sáng tới tối. Người ta kể lại rằng
những người bạn đồng phòng với ông khi đi ra thấy ông đang vẽ một tấm tranh,
vài giờ sau trở vào đã thấy ông vẽ một tấm tranh khác. Ông làm việc như kẻ bị
quỷ ám, “j’ai une fureur sourde de travail plus que jamais” (9/1889).
Ông không thể ra khỏi hội hoạ, nghĩa là ra khỏi thực tại, làm mồi cho điên
cuồng và phiền não. “Trong tất cả mọi trường hợp, tìm cách trung thành với sự
thực có lẽ là một phương thuốc để chống lại bệnh tật đang làm anh lo âu” (thư
cho Théo, 12 tháng 2 năm 1890). Có lẽ Vincent van Gogh linh cảm thấy rằng phần
ánh sáng dành cho ông sắp hết và ông phải tận dụng nó, nhìn lần cuối cùng trong
ánh sáng viễn tượng những thực tại đã bị thói quen giả dối chôn vùi. Trường hợp
Nietzsche cũng tương tự như vậy. Năm 1888 là cực điểm sáng suốt và sáng tạo của
Nietzsche, đồng thời cũng là cực độ của đau khổ và cô đơn của ông. Ngày 12
tháng 2 năm 1888, Nietzsche viết cho bá tước Seydlitz: “Bây giờ tôi cô đơn, cô
đơn một cách phi lý; trong cuộc chiến tàn khốc và âm thầm mà tôi theo đuổi
(dưới uy thế Đảo Hoán mọi Giá Trị) chống lại tất cả những gì đã được mọi người
tôn sùng và quí trọng từ xưa tới nay, chính tôi đã trở thành một cái u hồn cốc
mà không hay...” Trong tình cảnh đó ông chỉ cầu xin một điều: “Sự thanh bình,
quên lãng, sự khoan dung của mặt trời và của mùa thu cho một cái gì đang muốn
chín tới, cho sự chứng thực và biện minh của toàn thể con người tôi...” (thư
cho Paul Dessen, 3 tháng Giêng năm 1888). Kết quả là năm tác phẩm cuối cùng,
chín mùi nhất, mãnh liệt nhất của Nietzsche hoàn thành trong năm này: Trường
hợp Wagner, Hoàng hôn của những thần tượng, Kẻ chống Chúa, Nietzsche chống
Wagner, Ecce Homo và tụng ca Dionysos.
Quả thực năm 1888 là cực điểm của cuộc
đời và tư tưởng Nietzsche. Trước hết nó là cao độ của một thập niên đầy sáng
tạo khởi đầu từ 1878 với Phàm phu, quá phàm phu, tác phẩm đầu tiên mà trong đó
chan hòa ánh sáng thiên tài, kế đó Ý kiến tương hợp và châm ngôn (1879), Lữ
khách và bóng hình mình (1880), Bình minh (1881), Tri thức hân hoan (1882 - bổ
túc thêm năm 1887), Zarathustra đã nói như thế (1883–1885), Phi thiện ác (1886)
và Phổ hệ luân lý (1887). Song song những tác phẩm trên, trong nhiều thập niên
này Nietzsche còn đưa ra nhiều tư tưởng dũng mãnh quanh chủ đề Ý chí hùng
cường. Sang năm 1888, Nietzsche bỏ Ý chí hùng cường và thay thế bằng Cuộc đảo
hoán mọi giá trị, trong đó Kẻ chống Chúa, là tác phẩm mở đầu.
Năm 1888 còn có ý nghĩa cực điểm trong
cuộc đời và tư tưởng Nietzsche ở chỗ toàn bộ tác phẩm viết trong năm này là
những cuộc duyệt xét lại và toát lược lại toàn thể những chủ đề triết lý của
ông và của hai ngàn năm triết học Tây phương trong ánh sáng chói loà cuối cùng
của tâm thức, ở một cao độ buốt giá, bằng một bút pháp sắc bén, cô đọng. Sau đó
là bóng tối và yên lặng hoàn toàn. Đầu tháng Giêng 1889, tinh anh ông đã vỗ
cánh bay cao, và ông không viết thêm một dòng nào nữa mặc dầu thể phách còn
ngồi lại mười năm nữa, tới tháng 8 năm 1990.
2.
BUỔI HOÀNG HÔN CỦA NHỮNG THẦN TƯỢNG
Tác phẩm “Buổi hoàng hôn của những thần
tượng hay làm cách nào người ta triết lý với cây búa?” (Götzen-Dämmerung, oder:
Wie man mit dem Hammer philosophiert?) được viết trong khoảng thời gian từ cuối
tháng Sáu tới đầu tháng Chín năm 1888 và được đem ấn hành vào tháng Mười cùng
năm. Mới đầu tác phẩm mang tựa đề Sự nhàn rỗi của một tâm lý gia hay Những giờ
nhàn cư của một tâm lý gia (Müssiggang eines Psychologen). Nhưng sau đó, theo
lời yêu cầu của Peter Gast, một cao đồ trung thành của Nietzsche, đòi ông phải
tìm một tựa đề “huy hoàng” hơn cho tác phẩm, Nietzsche nhượng bộ, phỏng theo
nhan đề vở Hoàng hôn của những thần thánh (Götterdämmerung) của Wagner, đặt lại
là Hoàng hôn của những thần tượng (Götzen-Dämmerung).
Thần thoại Bắc Âu kể rằng tất cả mọi
thần thánh đều có ngày tàn mạt, ngày họ tan biến vào hư vô. Đó là buổi hoàng
hôn của thần thánh. Richard Wagner đã mượn thần thoại này để dựng vở kịch thứ
tư trong bộ Tứ ca bộ kịch (Tétralogie) của ông, Nietzsche thay đổi tựa đề và cả
ý nghĩa. “Thần tượng” là biểu tượng Nietzsche dùng để chỉ chân lý. “Buổi hoàng
hôn của những thần tượng” có nghĩa là sự sụp đổ của mọi chân lý.
Không một thực tại, một ý tưởng, một lý
tưởng, một chân lý, một “thần tượng” nào tác phẩm này không chạm tới. Từ những
chân lý vĩnh cửu đến những chân lý, giá trị mới mẻ. “Một cơn gió lớn thổi qua
rặng cây... và trái chín rụng rơi tơi tả: những chân lý”. (Ecce Homo). Nhưng
những cái người ta có thể lượm trong tay chẳng có gì ngọt ngào. Vì đó chỉ là
những trái thối hư, thực phẩm vô vị đã hết dưỡng chất của hai ngàn năm qua cần
phải liệng bỏ. Tất cả mọi chân lý đều nhạt phai và phải xóa đi, mọi thần tượng
đều hết thiêng liêng và phải tiêu diệt. Duy chỉ có cuộc đời là vĩnh cửu. Tất cả
mọi hiểu biết đều sai lầm, mọi luân lý đều độc hại. Duy chỉ có bản năng là tốt
lành.
Đây là cuộc Tuyên chiến vĩ đại. Đây là
cuộc mổ xẻ tàn nhẫn lý trí, luân lý, tâm lý học, lòng ái quốc, vị tha, tình
nhân loại... Đây là cuộc lột mặt nạ không thương tiếc những nhân vật, “những thần
tượng” tượng trưng cho những chân lý, những giá trị cũ: Socrate, Platon, thiện
ác, đẹp xấu... và những “thần tượng” tượng trưng cho những chân lý và giá trị
mới: Renan, Rousseau, Sainte-Beuve, G. Eliot, George Sand, Schopenhauer, Comte,
Kant, Schiller, Zola, Victor Hugo, Listz, Carlylle, nghệ thuật vị nghệ thuật,
dân chủ, tiến bộ...
Trên tất cả, chúng ta tìm thấy trong tác
phẩm này những tư tưởng hữu thể học quan trọng nhất của Nietzsche. Đúng hơn,
chúng ta thấy những diễn dịch về những vấn đề cốt yếu từ quan điểm biến dịch
siêu hình của ông dựa trên phương trình căn bản cũng là tiền đề của ông - là:
hữu thể học truyền thống coi là “hữu thể chân thực” (Wahres-Sein) cái thực ra
chỉ là một ảo tưởng, một ảo tưởng có tất cả đặc tính của phi thể (Nicht-Sein)
và vô thể (Nichts) và chối bỏ, coi như “phi hữu” và phi thực cái thực ra là hữu
thể đích thực và hữu thể duy nhất. Cái từ xưa tới nay, người ta coi là hiện thể
đích thực, thực ra chỉ là mộng huyễn bào ảnh, trong khi cái từ xưa tới nay
người ta coi là mộng huyễn bào ảnh lại chính là hiện thể chân thực. Cái từ xưa
tới nay được coi là “hữu thể” (Sein) đối nghịch với biến dịch không có, trong
khi chỉ có cái biến dịch hiện hữu mà thôi. Không có “hữu thể” siêu thời gian và
không gian, cũng như không có tâm linh thế giới, Linh tượng giới (le monde des
idées) hay thế giới của những ý tưởng vĩnh cửu mà chỉ có thế giới khả giác
(monde sensible), hiện hữu trong không gian thời gian. Không có thế giới tự nội
(monde en-soi), mà chỉ có thế giới hiển lộ (monde des apparences). Không có thế
giới khác mà chỉ có thế giới này, thế giới chân thực, duy nhất, linh động mà
nguyên động lực là ý chí hùng dũng. Không có thế giới nào khác. Tất cả những ý
nghĩ, khát vọng về một thế giới khác chỉ là cách trả thù cuộc đời “bằng sự lạm
dụng ảo tưởng” về một cuộc đời “tốt đẹp hơn”. Sự chia thế giới ra làm một thế
giới “tự nội” và một thế giới “bề ngoài” là dấu hiệu của sự suy đồi- một triệu
chứng của sa đoạ. “Sự kiện người nghệ sĩ đặt bề ngoài lên trên thực tại không
phải là một vấn nạn chống lại mệnh đề này. Bởi “bề ngoài” ở đây cũng có nghĩa
là thực tại nữa, nhưng mà là dưới một hình thức lựa chọn, kiên cường hoá, sửa
sai... Người nghệ sĩ bi tráng không bi thảm,- hắn gật đầu nói “ừ” trước tất cả
những gì còn hồ nghi và khủng khiếp của cuộc đời, hắn là kẻ theo Dionysos”.
Chương quan trọng nhất và cũng là
trọng tâm của tác phẩm là chương “Lí trí trong triết học”. Trước đó là “Vấn đề
Socrate”, sau đó là “Luân lý như một cái gì phản tự nhiên”. Trước kia Nietzsche
lên án khoa học, triết học vì chúng bị đầu độc bởi luân lý. Bây giờ Nietzsche
lên án luân lý, triết học, khoa học bởi chúng bị đầu độc bởi lý trí, hay đúng
hơn, bởi những sự lầm lẫn lớn lao của lý luận. Những triết gia lầm lẫn lấy hậu
quả làm nguyên nhân, nguyên nhân làm hậu quả. Nietzsche bài bác gắt gao phương
trình quái gở và bệnh hoạn này của Socrate: lý trí = đức hạnh = hạnh phúc.
Socrate, Platon là những triệu chứng suy đồi. Thế nào là suy đồi (décadence)?
“Bị bắt buộc phải chiến đấu chống lại bản năng đó là định thức của suy đồi, khi
cuộc đời hướng thượng, hạnh phúc và bản năng là một.” Tất cả mọi sự tốt lành
đều thuộc bản năng. Alles Gute ist Instinkt. Nietzsche coi như có bổn phận
chống lại quan niệm cho Thượng Đế = thế giới khác của “hữu thể chân thực”. Vì
quan niệm như thế, người ta bắt buộc phải coi rẻ những thực tại trần gian mà
giác quan chứng nghiệm, khi coi chúng là hiển thể (Schein) không thực thể, và
đi đến chỗ khước từ cuộc sống nhục cảm, lành mạnh, coi như “tội lỗi”. Theo
Nietzsche, với Thượng Đế, người ta đặt thành tuyệt đối thể một hữu thể tưởng
tượng, phi thời gian bên trên những thực tại trần gian, những cái duy nhất có
thực thể trong dòng biến dịch. Một Thượng Đế, nếu được quan niệm như thế, sẽ
làm nền tảng cho một thứ luân lý vô cùng nguy hại cho con người và cuộc đời. Đó
là một hữu thể học luân lý hóa hay một luân lý hữu thể học hoá. Cần phải giải
phóng hiện thể khỏi thứ hữu thể học hay luân lý này. Đó là một nhiệm vụ nặng nề
mà Nietzsche gọi là cuộc “Đảo hoán mọi giá trị”. Đó là công việc của người nghệ
sĩ bi tráng, kẻ nói “ừ” trước tất cả mọi hồ nghi và khủng khiếp. Người nghệ sĩ
bi tráng chọc thủng hiển thể để đạt tới thực thể một cách can đảm. Hắn dám chấp
nhận cái chết của Thượng Đế và dám đập “bằng cây búa” tất cả những chân lý cắm
rễ sâu nhất trong lòng đời và dám đốn ngã những thần tượng được tôn kính của
truyền thống và thừa can đảm để gây nên những “âm thanh trống rỗng” của buổi
chiều tà. Đi vào “Hoàng hôn của những thần tượng” và đương đầu với “Đêm tối của
Hư vô chủ nghĩa” là những sứ mệnh lịch sử của người nghệ sĩ bi tráng cũng như
của tất cả những tinh thần tự do không chấp nhận làm rêu mốc bám trên những bậc
thềm, những bờ tường nứt nẻ của những miếu đường hoang vắng nữa. Nếu “Hoàng hôn
của những thần tượng” có nghĩa là sự lạm phát của mọi chân lý, mọi giá trị
thiết định lấy “thế giới chân thực” bên ngoài trần gian, bên kia đời sống làm
bản vị, coi những kẻ bạc nhược sa đọa là những kẻ làm giấy bạc, coi đền thờ là
những ngân hàng và Thượng Đế là kẻ chế tài thì “Đêm tối của Hư vô chủ nghĩa”
chính là sự phá giá của tất cả những chân lý, những giá trị đó. Cả hai đều là
những giai đoạn tất yếu và cần phải vượt qua của lịch sử. Chân lý, trần gian,
cuộc đời sẽ và chỉ thuộc về những kẻ chân thực, dám đốt đi những bản di chúc
hứa hẹn huy hoàng nhưng giả dối và giả tạo như tấm ngân phiếu không tiền bảo
chứng, những kẻ sau khi buông rời cây búa phá hủy còn đủ sức mạnh cầm tay cầy
khai phá cánh đồng khả thể, khơi mở dòng đời, tạo dựng đời sống trong dòng Hồn
nhiên của Biến dịch.
3
SONG LUẬN
Sự thức tỉnh của nhân loại bắt đầu với
song luận này: “Hoặc chúng ta phá hủy sự sùng bái của chúng ta hoặc chúng ta
phá hủy chính chúng ta” (Der Will zur Macht, III) Chúng ta đã phải trả giá khá
đắt cho những “chân lý” thiêng liêng, những sai lầm in physiologicis (Ibid, II)
Nietzsche tự coi như bổn phận việc “sửa soạn cho nhân loại một giây phút tuyệt
vời trở về chính mình, một buổi giữa ngọ rực rỡ để quay về quá khứ và đưa mắt
nhìn về tương lai, để rũ khỏi ách đô hộ của tình cờ và của những giáo sĩ và đặt
câu hỏi tại sao và thế nào trong toàn bộ của nó lần thứ nhất, bổn phận này
thiết yếu bắt nguồn từ lòng xác tín rằng nhân loại tự mình đã không đi theo
đúng chính đạo, đã không được điều động bởi một thần tính mà trái lại đã để bị
lôi cuốn và chế ngự bởi một bản năng tiêu cực, hư hỏng, bởi bản năng suy đồi mà
nhân loại đặt lên hàng những giá trị tối thiêng liêng” (Ecce Homo, III, 2), vì
thế “sự khôn ngoan xuất hiện trên trái đất này từ xưa tới này như một con quạ
khoang bị hấp dẫn bởi mùi tử khí”, hay cũng có thể nói như một con cú vọ chuyên
soi mói những khía cạnh đen tối cuộc đời và thốt lên những tiếng bi ai. Đó là
sự khôn ngoan của tinh thần nặng nề, tìm sự giải thoát bằng cách tiêu diệt ý
chí sống. Nietzsche gây chiến chống lại chủ trương tiêu cực mệt mỏi đó. Kết quả
của nỗ lực bền bỉ, can đảm, cứng cỏi, âm thầm này là sự hân hoan hay “tri thức
hân hoan” theo ngôn ngữ Nietzsche. “Kẻ nào trèo lên núi cao, kẻ ấy tự cười mọi
bi kịch giả tạo hay có thực.” Trên bàn thờ những giá trị mới, tiếng cười chiến
thắng đã thay thế tiếng thở dài đầu hàng. “Tôi đã phong thánh tiếng cười, hỡi
những con người siêu đẳng, hãy học cười!”. Bằng tiếng cười hồn nhiên ròn rã,
chúng ta quét sạch mọi thần tượng trang trọng đăm chiêu và đón chào một thế
giới tinh khôi rực rỡ.
KHAI TỪ
Duy trì được sự thanh thản giữa một sự
vụ u sầu và có thể biện minh quá độ chừng đâu phải là một nghệ thuật không đáng
kể: tuy nhiên có điều gì cần thiết hơn thanh thản chăng? Chẳng việc gì thành
công nếu lòng hăng hai chẳng tham dự vào. Chỉ có sự thặng dư của sức mạnh mới
là bằng chứng của sức mạnh. Đảo hoán mọi Giá Trị, dấu hỏi quá đen, quá lớn hắt
bóng tối lên kẻ đặt ra nó, - định mệnh của một công việc như vậy buộc người ta
từng giây phút phải lao thẳng vào mặt trời, rũ bỏ vẻ trang nghiêm đã đè ta quá
nặng. Tất cả mọi phương tiện đều được biện minh, mọi “cơ hội” đều là cơ hội
tốt. Trên tất cả, chiến tranh. Chiến tranh luôn là sự minh mẫn thận trọng ghê
gớm của tất cả những tinh thần đã trở nên quá chuyên tâm, của tất cả những tinh
thần đã trở nên quá thẳm sâu; khả năng chữa trị đã nằm ngay trong vết thương.
Một câu phương ngôn mà xuất xứ tôi cố tình dấu nhẹm óc tò mò trí thức, từ lâu
đã trở thành phương châm của tôi: increscunt animi, virescit volnere virtus [1]
Một hình thức chữa trị khác, trong một
vài trường hợp còn thích hợp với tôi hơn nữa, đó là thăm dò những thần tượng...
Trên thế giới có nhiều thần tượng hơn là thực tại: đó là “ác nhãn” của tôi đối
với thế giới này, đó cũng là “ác nhĩ” của tôi nữa... Ở đây đặt ra những câu hỏi
với một chiếc búa và có thể nhận được như một hồi âm cái âm thanh trống rỗng
thốt lên tự lòng hiu hiu tự đắc - thích thú thay cho kẻ nào có một đôi tai khác
nữa sau đôi tai của mình, - đối với tôi, một tâm lý gia và một kẻ đánh bẫy
chuột cố cựu, trước sự hiện diện của kẻ đó quả thực những gì muốn thủ khẩu như
bình cũng phải thốt lên tiếng nói...
Cả cuốn sách này nữa - nhan đề đã bộc lộ
nội dung - trước hết là một sự giải trí, một chấm ánh sáng, một cuộc đào thoát
vào những giờ nhàn rỗi của một tâm lý gia. Có thể còn là một cuộc chiến tranh
mới nữa? Và biết đâu có thể bắt được quả tang những bí mật của những thần tượng
mới?... Cuốn tiểu luận này là một cuộc khai chiến vĩ đại; còn về vấn đề nhằm
thăm dò những thần tượng, lần này không phải là những thần tượng thời đại mà là
những thần tượng vĩnh cửu ở đây sẽ bị đụng chạm đến bằng một chiếc búa như thể
bằng cái âm thoa - cuối cùng không còn những thần tượng cổ kính nữa... Cũng
không còn những thần tượng trống rỗng nữa... Nhưng điều đó không ngăn cản được
người ta tin tưởng nhất; cũng như không ngăn cản người ta, ngay cả trong những
trường hợp cao quí nhất, không gọi là thần tượng nữa...
Turin, 30 tháng Chín, 1888, ngày hoàn
tất cuốn sách đầu tiên của Cuộc đảo hoán mọi Giá Trị [2]
Friedrich Nietzsche
CHÂM NGÔN
VÀ TÊN NHỌN
1.
Nhàn cư là khởi đầu của tất cả mọi tâm lý học. Sao?
tâm lý học có thể là... một tật xấu?
2.
Ngay cả kẻ can đảm nhất trong chúng ta cũng ít khi có
đủ can đảm khẳng định điều hắn thực sự biết.
3.
Để sống một mình người ta phải là một con vật hay một
thần thánh - Aristote nói như vậy. Còn có trường hợp thứ ba nữa: người ta phải
vừa là thú vật vừa là thần thánh - đó là triết gia.
4.
“Tất cả mọi chân lý đều đơn giản.”- Đó không phải là
một lời dối trá phức tạp sao?
5.
Nói một lần dứt khoát, có nhiều điều tôi không muốn
biết. - Minh triết vạch ra những giới hạn, ngay cả đối với hiểu biết.
6.
Chính vì trong bản chất của người ta có chất man rợ mà
người ta có thể khôi phục lại được sự ác tà của mình, tôi muốn nói tâm linh
tính...
7.
Sao? Con người chỉ là một sự nhầm lẫn của Thượng Đế
hay Thượng Đế chỉ là một sự nhầm lẫn của con người?
8.
Trường chiến tranh của đời. - Cái gì không giết tôi
khiến tôi mạnh mẽ hơn.
9.
Hãy tự giúp mình: rồi tất cả sẽ trợ giúp mình. Nguyên
tắc bác ái của Kitô giáo.
10.
Chúng ta đừng hèn nhát trước những hành động của chúng
ta! Chúng ta đừng bỏ rơi chúng ta trong cơn bối rối! - Sự hối hận của lương tâm
là điều khiếm nhã.
11.
Con lừa có thể bi thảm không? - Bị đè bẹp dưới một
gánh nặng mà người ta không thể mang cũng không thể quẳng đi?... Trường hợp của
triết gia.
12.
Nếu người ta - thủ hữu câu hỏi tại sao của cuộc đời,
người ta sẽ quen với bất cứ câu hỏi thế nào nào - Con người không khát vọng
hạnh phúc; chỉ có người Ăng Lê làm vậy thôi.
13.
Người đàn ông đã tạo ra người đàn bà - nhưng bằng gì
vậy? Bằng xương sườn Thượng Đế của hắn, - bằng lý tưởng của hắn...
14.
Sao? Bạn đang tìm kiếm gì? Bạn muốn nhân bạn lên một
chục lần? Một trăm lần? Bạn tìm kiếm những kẻ theo mình? - Tìm hư không! [3]
15.
Những con người sống lại sau khi đã chết [4] - như tôi
chẳng hạn - ít được hiểu hơn những người sống phù thời, nhưng họ được người ta
lắng nghe chăm chú hơn. Nói rõ hơn: chúng ta không bao giờ được hiểu cả - và đó
chính là quyền uy của chúng ta.
16.
Giữa đám quần thoa. - “Chân lý! Ồ! Chị không biết chân
lý là gì rồi! Nó chẳng phải là một toan tính xâm phạm pudeur [5] của chúng ta
sao?
17.
Đây là một nghệ sĩ, như những nghệ sĩ tôi yêu, đơn
giản trong nhu cầu: hắn thực sự cần có hai điều: bánh mì và nghệ thuật của hắn,
- panem et Circen...
18.
Kẻ nào không biết đặt ý chí của mình vào sự vật, muốn
ít nhất đặt vào trong đó một ý nghĩa: điều đó khiến hắn tưởng trong đó đã hàm
chứa một ý chí (nguyên tắc “tin tưởng”).
19.
Sao? Bạn đã chọn đức hạnh và tâm hồn cao thượng đồng
thời lại ghen ghét nhìn lợi lộc của những kẻ thô lỗ phóng tâm trục vật? Nhưng
với đức tính người ta khước từ “lợi lộc” mà... (để viết trên cửa nhà những kẻ
bài Do Thái).
20.
Một người đàn bà hoàn toàn xúc phạm văn chương cũng
như nàng phạm một tội lỗi nhỏ: để thử chơi, trong khi quay đầu lại ngó xem ai có
để ý không, và để cho một người nào đó để ý...
21.
Phải đặt mình vào những hoàn cảnh trong đó người ta
không được có những đức tính giả hình, nhưng trong những hoàn cảnh ấy, tựa như
một người múa trên dây hoặc là người ta té hoặc đứng thẳng hoặc từ bỏ...
22.
“Những người độc ác không biết hát”. Vậy thì tại sao
những người Nga lại biết hát?
23.
“Tinh thần Đức”: từ mười tám năm nay [6] là một
contradictio in adjecto [7].
24.
Vì muốn tìm nguồn gốc khởi nguyên, người ta trở thành
một con tôm [8]. Nhà sử học nhìn lại đằng sau: cuối cùng ông ta tin tưởng vào
phía sau.
25.
Sự thỏa mãn bảo vệ người ta khỏi ngay cả sự cảm lạnh.
Một người đàn bà biết mặc áo quần đầy đủ có cảm lạnh không nhỉ? - Tôi giả thiết
trường hợp nàng mặc quần áo mong manh.
26.
Tôi hồ nghi tất cả những người muốn thiết lập hệ thống
và tránh xa họ. Ý muốn lập hệ thống là sự thiếu ngay thẳng thanh liêm.
27.
Người ta nói rằng người đàn bà sâu sắc - tại sao? Bởi
vì người ta không bao giờ tới được đáy sâu của họ. Người đàn bà không hời hợt
nữa.
28.
Khi người đàn bà có những đức tính đàn ông, người ta
lảng tránh nàng, và nếu nàng không có những đức tính ấy, nàng sẽ chạy trốn
chính nàng.
29.
Trước kia lương tâm phải cắn nhiều xiết bao! Nó có bộ
răng tốt biết mấy! Và ngày nay? Có chuyện gì trục trặc xảy ra? - Vấn đề của nha
sĩ.
30.
Ít khi người ta phạm nguyên chỉ một lỗi lầm khinh
xuất. Với lỗi lầm khinh xuất đầu tiên, người ta luôn làm quá. Chính vì lý do
đó, người ta thường phạm lỗi thứ hai - và bây giờ thì lại quá ít.
31.
Khi bị giẫm chân lên, con con sâu sẽ cuộn mình lại. Đó
là tính thận trọng khôn ngoan. Bằng cách đó nó giảm dần tai họa bị giẫm lên
trên lần nữa. Nói theo ngôn ngữ đạo đức: lòng khiêm tốn.
32.
Sự ghét dối trá và che đậy có thể khởi lên từ quan
niệm thái quá về danh dự; sự khinh ghét tương tự có thể khởi lên từ lòng hèn
nhát, vì sự dối trá bị cấm bởi luật thiêng liêng. Quá hèn nhát để nói dối...
33.
Cần ít biết chừng nào để được hạnh phúc! Tiếng sáo mục
tử. - Không âm nhạc cuộc đời sẽ là một lỗi lầm. Người Đức còn tưởng tượng ngay
cả Thượng Đế như một người đang ca hát nữa.
34.
On ne peut penser et écrire qu’assis [9] (G. Flaubert)
- Thế là ta tóm được ngươi rồi, kẻ theo hư vô chủ nghĩa! Ngồi đúng là phạm tội
với Thánh Linh. Chỉ có những tư tưởng đến với ta khi đang bước đi mới có giá
trị mà thôi.
35.
Có những trường hợp chúng ta giống như những con ngựa,
chúng ta, những tâm lý gia, và chúng ta trở nên bồn chồn sợ hãi: chúng ta nhìn
thấy bóng chúng ta chập chờn trước mặt mình. Tâm lý gia phải quay mặt đi đừng
nhìn mình để có thể nhìn thấy tất cả.
36.
Chúng ta có gây tổn thất gì cho đức hạnh không, chúng
ta những kẻ vô luân? - Cũng ít như những kẻ vô chính phủ làm hại những ông
hoàng vậy thôi. Chỉ khi nào đã bị bắn rồi họ mới có thể ngồi lại một cách vững
vàng trên ngôi. Luân lý: người ta phải bắn bỏ luân lý.
37.
Bạn chạy trước những người khác? - Bạn làm như vậy như
một mục tử? Hay như một kẻ ngoại hạng? Trường hợp thứ ba có thể như một kẻ đào
ngũ... Câu hỏi thứ nhất của lương tâm.
38.
Bạn chân thật? Hay chỉ là một kẻ đóng trò? Một đại
diện? Hay chi rlà một kẻ được đại diện? Cuối cùng có lẽ bạn chỉ bắt chước kẻ
đóng trò... Câu hỏi thứ hai của lương tâm.
39.
Kẻ bất mãn nói. - Tôi tìm kiếm những vĩ nhân nhưng bao
giờ cũng chỉ tìm thấy con khỉ bắt chước lý tưởng của họ.
40.
Bạn là kẻ ngắm nhìn? Hay một kẻ bắt tay vào công việc?
- Hay một kẻ ngó lơ quay đi chỗ khác... Câu hỏi thứ ba của lương tâm.
41.
Bạn muốn đi chung cùng bạn hữu? Hay dẫn đầu? Hoặc đi
riêng lẻ một mình?... Người ta phải biết mình muốn gì và phải biết rằng mình
muốn. - Câu hỏi thứ tư của lương tâm.
42.
Đối với tôi chúng chỉ là những bậc thang và tôi đã
bước lên chúng - do đó tôi phải vượt qua chúng. Nhưng chúng lại tưởng rằng tôi
muốn ngồi lên chúng.
43.
Có quan hệ gì việc tôi giữ lẽ phải! Tôi có quá nhiều
lẽ phải. - Và kẻ nào cười nhiều hôm nay cũng sẽ là kẻ cười cuối cùng.
44.
Định thức hạnh phúc của tôi: một tiếng ừ, một tiếng
không, một con đường thẳng, một mục tiêu...