Home » » TRIẾT LÝ HY LẠP THỜI BI KỊCH [Phần 6]

TRIẾT LÝ HY LẠP THỜI BI KỊCH [Phần 6]

Written By kinhtehoc on Thứ Bảy, 14 tháng 1, 2012 | 00:02

TRIẾT LÝ HY LẠP THỜI BI KỊCH
[Phần 6]
18.
Giả sử ngay cả khi ta chấp nhận rằng cái hỗn hợp nguyên thủy đó đã được suy diễn ra một cách đúng thật, thì sự phác họa vĩ đại về cái cơ cấu của vũ trụ ấy cũng vẫn có thể nêu lên cho ta vài vấn nạn xét về phương diện cơ học.
Quả thế, ngay cả khi Tinh thần phát sinh một chuyển động xoáy vòng trên một điểm, thì cũng rất khó hình dung ra các diễn trình kế tiếp, nhất là nếu các diễn trình ấy phải là vô hạn, và phải dần dà khích động tất cả mọi khối lượng hiện hữu. Người ta sẽ giả thiết ngay rằng trọng lượng của tất cả phần còn lại của vật chất sẽ đè bẹp sự chuyển động xoáy vòng yếu ớt nói trên. Muốn sự thể đừng diễn ra như vậy, thì Tinh thần, động cơ phát sinh phải đột nhiên can thiệp vào trong mọi trường hợp với một sức mạnh khủng khiếp, khá nhanh để cho chúng ta có thể gọi chuyển động ấy là một cơn xoáy động.
Demokrit cũng đã hình dung ra một xoáy động như thế. Và vì lẽ cơn xoáy động ấy phải mãnh liệt vô cùng để đừng bị cái vũ trụ vô hạn ngăn trở bằng cách dùng sức nặng vô biên của mình đè bẹp chuyển động, nên cơn xoáy động phải vô cùng nhanh chóng, bởi lẽ từ nguyên khởi, sức mạnh chỉ có thể được biểu hiện bằng sự nhanh chóng. Trái lại, hễ các vòng đồng tâm mà càng lan rộng ra, thì chuyển động ấy càng chậm lại. Nếu một ngày nào đó, chuyển động ấy có thể đạt đến cuối cùng trương độ của vũ trụ vô hạn, thì lúc bấy giờ, sẽ chỉ có một tốc độ rung động cực kỳ nhỏ bé. Đảo lại, nếu ta hình dung chuyển động như là vô cùng lớn, nghĩa là vô cùng nhanh chóng ở vào khởi nguyên sơ thủy, thì chu vận nguyên thủy ấy cũng phải cực kỳ nhỏ bé.
Như vậy, khởi đầu ta có được một điểm xoay quanh chính mình, với một dung lượng chất thể cực kỳ nhỏ bé. Song điểm ấy sẽ không giải thích sự kế tục sau đó của chuyển động. Thậm chí ta còn có thể tưởng tượng ra tất cả các điểm của khối lượng nguyên thủy xoay quanh chính mình mà vẫn để cho toàn bộ khối lượng nằm trong trạng thái bất động, vô sai biệt. Trái lại, trong trường hợp mà chất điểm vô cùng nhỏ đó, bị Tinh thần chộp lấy, lôi kéo đi, không xoay vòng trên chính mình mà lại vạch ra một vòng tròn chu vi lan rộng mãi, thì điều đó hầu như chỉ đủ để làm lay chuyển, làm dịch rộng, làm phóng ra, làm nẩy vọt lên các chất điểm và dần dà kích phát nên một tình trạng xáo động hỗn loạn truyền lan, mà kết quả đầu tiên là tách biệt các khối lượng Khí với các khối lượng Ê-te. Giống như sự phát khởi chuyển động, tự bản thân nó là một hành vi độc đoán của Tinh thần, cách thái của sự phát khởi ấy cũng thế, trong chừng hạn chuyển động đầu tiên vạch nên một vòng tròn với bán kính được độc đoán chọn lựa như là lớn hơn một điểm.
19.
Cố nhiên, ở đây ta có thể tự hỏi tại sao Tinh thần lại đột nhiên nảy ra cái ý tưởng chạm mạnh vào một chất điểm, được độc đoán chọn lựa giữa hằng hà sa số chất điểm, để in sâu vào đó cuộc khiêu vũ xoay cuồng nói trên, và tại sao trước đấy, tinh thần lại không nảy ra ý tưởng ấy. Anaxagoras giải đáp: “Tinh thần có ưu quyền là độc đoán, nó có quyền phát khởi, nó chỉ xuất khởi từ chính mình, trong khi mọi cái khác được quy định từ bên ngoài. Tinh thần không bị ràng buộc vào bất luận nhiệm vụ nào, do đó, nó không bị cưỡng bách thực hiện bất cứ cứu cánh nào. Nếu Tinh thần đã phát khởi chuyển động ấy và nếu nó tự ấn định cho mình một cứu cánh, thì đấy chỉ là một Trò chơi – câu trả lời rất khó khăn và Heraklit sẽ bổ túc như thế.”
Dường như đấy luôn luôn là câu trả lời tối hậu hay giải pháp mà những người Hy Lạp có sẵn trên đầu môi. Tinh thần, theo Anaxagoras là một nghệ sỹ, đấy là Tinh thần toàn năng của khoa cơ học và kiến trúc, sáng tạo nhờ vào những phương tiện đơn sơ nhất, những hình thể hùng đại nhất và một thứ kiến trúc sống động, nhưng bao giờ cũng là nhờ vào sự độc đoán phi lý tạo thành nền tảng thâm sâu cho một bản tính nghệ sỹ nói trên. Dường như Anaxagoras nghĩ đến Phidias, và đối diện với cái công trình nghệ thuật kỳ tuyệt là vũ trụ ấy, ông đã thốt lên, như đang đối diện với điện Parthenon: “Biến dịch không phải là một hiện tượng đạo đức, mà là một hiện tượng thẩm mỹ.”
Aristoteles thuật lại rằng khi người ta hỏi Anaxagoras quan niệm ra sao về giá trị của cuộc hiện sinh, Anaxagoras đã trả lời: “(Giá trị đó) nằm ở chỗ cho phép tôi được chiêm ngưỡng bầu trời và trật tự của vũ trụ.” Ông đối xử các sự vật vật lý với cùng lòng kính tín và cùng niềm sợ hãi sùng kính, như cảm thức của ta khi đứng trước một ngôi đền cổ. Học thuyết của ông đã trở thành một thứ tôn giáo thế tục, được bảo vệ nhờ châm ngôn odi profanum vulgus et arceo (tôi ghét tởm và xa lánh bọn phàm phu tục tử) và cẩn trọng chọn lựa các tín đồ trong số những người thuộc giới cao trọng và quý phái nhất đô thị Athens.
Trong cái hội riêng khép kín của những người theo phái Anaxagoras thành Athens, thì môn huyền thoại học bình dân chỉ được dung thứ như một ngôn ngữ biểu trưng. Mọi huyền thoại, mọi thần linh, mọi anh hùng đều được xem như là những văn tự tượng hình của một lý thuyết về thiên nhiên, và ngay cả thiên anh hùng ca của Homer cũng chỉ là khúc thánh ca ca ngợi sức mạnh của Tinh thần cùng những cuộc đấu tranh và những định luật của Physis (Nhiên giới). Thỉnh thoảng, có một lời nói cất lên từ cái cộng đồng những tinh thần tự do và cao nhã ấy, đến được tai quần chúng, và nhất là đại nhân Euripide, con người luôn dũng cảm và canh tân, nấp dưới mặt nạ của bi kịch, đã dám nói to lên những điều như những mũi tên nhọn xuyên thấu vào tinh thần quần chúng và quần chúng chỉ có thể tự giải thoát khỏi tình trạng ấy bằng những bức ký họa cùng những bài thờ tếu chế giễu ông.
Song môn đệ vĩ đại nhất của Anaxagoras, con người cương mãnh và hùng đại hơn tất cả, là Perikles. Chính Perikles là người được Platon xưng tụng rằng chỉ có triết học Anaxagoras mới ban cho thiên tài ông cái đà phấn khích dũng cảm nhường kia.
Khi Perikles xuất hiện trước đám đông công chúng để diễn thuyết thì trong vẻ đẹp bất động khô khốc của ông, ông tựa như một thần nhân bằng đá hoa cương, và một cách trầm hùng kiên cố, khoác ngoài chiếc áo khoác mà không làm dịch chạm đến một nếp xếp nào, khuôn mặt im lìm, nghiêm nghị, bằng một giọng đều đều, ông mở lời – cố nhiên không phải theo kiểu Demosthene mà chỉ theo kiểu con người Perikles của ông bằng cách phóng ra sấm sét và chớp giật, bằng cách lần lượt hủy diệt và nâng cao người nghe, thì lúc ấy Perikles giống như bản toát lược của vũ trụ của Anaxagoras, hình ảnh của Tinh thần đang xây cất nơi trú ngụ đẹp đẽ nhất và xứng đáng nhất cho mình, là hiện thân nhân thế của sức mạnh kiến tạo của Tinh thần, sức mạnh phát động, phân tích, phối hợp, tiên tri và nghệ sỹ, do đó là bất định.
Chính Anaxagoras đã bảo rằng con người là thực thể hợp lý nhất, hay là thực thể phải mang trong tự thân mình một tổng số tinh thần mạnh mẽ hơn tất cả mọi thực thể khác. Vì lý do duy nhất đó, con người mới sở đắc các cơ quan tuyệt vời này là hai bàn tay. Từ đó Anaxagoras kết luận rằng, tùy theo trương độ hay khối lượng trong đó Tinh thần chiếm lĩnh một chất thể, mà Tinh thần tự kiến tạo trong khối chất thể ấy những khí cụ tương ứng với mức độ lượng tính của mình, tức là xinh đẹp và thích nghi hơn với cứu cánh khi nó xuất hiện trong một trạng thái viên mãn lớn rộng hơn.
Và giống như hành vi kỳ diệu nhất, hiệu quả nhất của Tinh thần, hẳn phải là sự chuyển động nguyên ủy xoáy vòng, trong khi Tinh thần hãy còn chưa bị phân chia và còn tập trung trên chính mình, cũng thế, với Anaxagoras đang lắng nghe ông, cũng thế, hậu quả tài hùng biện của Perikles hẳn phải thường xuất hiện như là biểu tượng cho sự chuyển động xoáy vòng nguyên thủy đó, bởi và trong những lời lẽ nọ, Anaxagoras cũng cảm nghiệm một cơn lốc xoáy của tư tưởng, mang chứa một sức mạnh khủng khiếp, nhưng chuyển động có trật tự nhịp nhàng của nó đã dần dà xâm chiếm những thính giả gần xa, đã lôi cuốn họ, và vào cuối bài diễn văn, đã phối kết điều hòa toàn thể dân chúng thành một toàn thể có tổ chức.
Các triết gia hậu thời đã cho rằng lề lối Anaxagoras sử dụng Tinh thần của ông để giải thích vũ trụ là kỳ đặc và hơi khó tha thứ. Họ thấy Anaxagoras đã khám phá ra một khí cụ tuyệt vời song không hiểu rõ cho lắm, và họ tìm cách cứu chữa cho điều mà nhà sáng tạo đã xao nhãng. Như vậy, là các triết gia đó đã không thấu hiểu được ý nghĩa sự khước từ của Anaxagoras, tức là người mà trong mọi trường hợp và trên hết, cảm hứng từ tinh thần thuần túy nhất của phương pháp các khoa học tự nhiên – đã nêu lên vấn đề nguyên nhân tác thành (causa efficiens) chứ không phải vấn đề về nguyên nhân cứu cánh (causa finalis) của vạn vật. Anaxagoras đã không triệu gọi đến Tinh thần để giải đáp cho câu hỏi đặc biệt sau đây: “Vì lý do nào mà có chuyển động và lại là một chuyển động đều đặn, có quy luật?”
Nhưng Platon trách cứ Anaxagoras là đã không chứng minh (như lẽ đáng ông phải chứng minh) rằng theo lề lối và vị trí của mình, mỗi sự vật đều nằm trong trạng thái tuyệt mỹ, tuyệt hảo và thích đáng nhất có thể có được. Anaxagoras đã không dám khẳng quyết điều đó trong bất luận trường hợp đặc thù nào. Đối với Anaxagoras, thế giới hiện thực này cũng không phải là thế giới tốt đẹp nhất có thể có, vì lẽ ông đã nhìn thấy vạn vật hóa sinh sinh hóa lẫn nhau cái này từ cái nọ; ông thấy sự biệt phân những bản thể nhờ vào tinh thần đã không được hoàn tất và thành tựu cả ở cuối cùng biên giới của không gian vật chất, lẫn ở trong những thực thể cá biệt.
Nhu cầu muốn hiểu biết của Anaxagoras đã được thỏa mãn, vì ông đã khám phá ra một chuyển động để từ một tình trạng pha trộn cực kỳ hỗn mang, rút ra được một trật tự khả thị, và ông lưu tâm tránh nêu lên câu hỏi về nguyên nhân thuần lý của chuyển động ấy. Quả vậy, nếu do ở thể tính của mình mà Tinh thần có một cứu cánh tất yếu cần phải được thể hiện nhờ vào sự chuyển động, thì Tinh thần sẽ không phó mặc cho ý chí mình để khởi phát sự chuyển động vào một lúc Tinh thần tùy ý chọn lựa. Trong chừng hạn Tinh thần là vĩnh cửu, Tinh thần cũng phải vĩnh viễn bị qui định bởi cứu cánh ấy, và trong trường hợp này, sự chuyển động sẽ không lỡ dịp phát động bất luận vào lúc nào. Thêm vào đó, theo luận lý học, ta không được phép nghĩ rằng sự chuyển động có một khởi đầu. Mà điều này, mặt khác, sẽ làm cho ý tưởng về tình trạng hỗn mang nguyên thủy trở thành một ý tưởng bất khả về mặt luận lý, trong khi ý tưởng ấy là nền tảng cho toàn bộ vũ trụ quan của Anaxagoras.
Muốn thoát khỏi những khó khăn trên do chủ trương viễn đích luận gây ra, Anaxagoras đã phải mãnh liệt khẳng quyết và nhấn mạnh rằng Tinh thần hành động một cách tự do. Tất cả mọi hành vi của Tinh thần, ngay cả chuyển động đầu tiên nói trên, đều là những hành vi của “tự do ý chí” của Tinh thần, trong khi đằng khác mọi cái gì còn lại của thế giới đều phù hợp với một sự quy định nghiêm mật, một sự quy định chất cơ giới khởi từ cái thời điểm nguyên thủy đó.
Song ta chỉ có thể hình dung ra cái tự do ý chí tuyệt đối ấy trong tình trạng thiếu vắng cứu cánh, tựa một trò chơi trẻ con hay trò chơi của bản năng nghệ sĩ. Thật là sai lầm khi gán cho Anaxagoras cái tội lẫn lộn mơ hồn vốn quen thuộc của các nhà chủ trương viễn đích luận, tức là những con người vì thán phục trước sự chính xác phi thường của cơ chế vũ trụ cùng sự hòa hợp của các phần tử với toàn thể, nhất là trong thế giới hữu cơ - , nên đã đưa ra giả thiết rằng cái gì hiện hữu đối với trí năng, và cái gì mà họ chỉ thực hiện được nhờ vào sự trợ giúp của một ý niệm về cứu cánh tính, thì nhờ thiên nhiên, đã chỉ có thể thực hiện được nhờ vào sự phản tỉnh và những ý niệm về cứu cánh tính. (Schopenhauer, Well als Wille und Vorstellung / Thế giới xét như Ý lực và Biểu tượng, t.II, q.II, tr.26 Zur Teleologie / Về chủ trương viễn đích luận). Trong Tinh thần của Anaxagoras, trái lại, trật tự và tổ chức toàn hảo của vạn vật lại là kết quả trực tiếp của một chuyển động mù quáng và cơ giới, chứ tuyệt nhiên chẳng phải là để có thể đem đến sự khích động cho sự chuyển động ấy, để một lần duy nhất thoát ra khỏi sự an nghỉ tử diệt của trạng thái hỗn mang. Anaxagoras chấp nhận Tinh thần và tự do ý chí của Tinh thần xuất phát từ chính bản thân Tinh thần mà thôi. Chính tự do ý chí ấy là cái được ông nhìn nhận cho nó một giá trị, tức là cái khả năng có thể hành động một cách tuyệt đối, bất định, không tuân phục theo những nguyên nhân hay cứu cánh.
PHỤ LỤC
Bằng chứng tuyệt hảo nhất chứng minh rằng toàn bộ quan niệm của học thuyết Anaxagoras phải là đúng, đấy là cái cách thái mà những triết gia thừa kế ông, như Empedokles thành Agrigente và nhà chủ trương nguyên tử luận Demokrit, đã phê bình và sửa sai ông trong các hệ thống đối nghịch nhau của họ.
Phương pháp phê bình đó trước nhất nằm ở chỗ tự cấm chế, và giữ lòng trung tín với tinh thần khoa học mà chúng ta đã nêu ra ở trên, và áp dụng một định luật tiết kiệm khôn ngoan vào công tác giải thích nhiên giới. Ta phải ưu trọng cái giả thuyết nhằm giải thích thế giới hiện thực mà chỉ tiêu dùng tối thiểu các định đề và các phương tiện, vì chính giả thiết đó chứa đựng ít nhiều độc đoán nhất và nó tự cấm đoán mình tự do đùa cợt với các điều khả thể. Giả sử có hai giả thiết có khả năng giải thích thế giới, thì ta phải cẩn trọng khảo sát giả thuyết nào trong cả hai thỏa đáp nhiều nhất cho cái nhu cầu tiết kiệm đó.
Trong công tác giải thích, nhà tư tưởng nào hài lòng với những sức mạnh đơn sơ nhất và được nhiều người biết đến nhất, nhất là những sức mạnh cơ học, thì bao giờ cũng sẽ được ưa chuộng hơn là nhà tư tưởng chúng ta, lúng túng trong trò chơi sáng tạo của những sức mạnh phức tạp hơn và ít được biết đến hơn. Chính vì vậy ta mới thấy Empedokles bận tâm đến việc thủ tiêu tính chất có quá nhiều giả thiết trong học thuyết của Anaxagoras.
Giả thuyết dư thừa đầu tiên là giả thuyết về Tinh thần của Anaxagoras vì lẽ nó phức tạp quá độ khi dùng để giải thích một điều quá đơn giản như là sự chuyển động. Quả thế, ta chỉ cần phải giải thích hai cách chuyển động, cách thái làm phối cận một đối tượng này với một đối tượng khác, và cách thái làm xa lìa một đối tượng khỏi một đối tượng khác.
Empedokles tự hỏi, nếu biến dịch hiện tại của chúng ta nằm trong một sự tách lìa không toàn vẹn các tố chất, thì cái gì đứng ra ngăn cản sự giải phân toàn diện? Vậy thì phải có một sức mạnh chống đối lại sự giải phân, nghĩa là một hấp lực tiềm ẩn.
Ngoài ra, để giải thích tình trạng hỗn mang ấy, trước đấy ta cần phải có một sức mạnh chủ động; để thực hiện được sự pha trộn mật thiết đó, trước hết phải có một chuyển động.
Bởi đó, mới có sự nổi bật có định kỳ về số lượng của sức mạnh này. Chúng đối nghịch với nhau. Hiện tại, hấp lực ấy đang tiếp tục tác động, vì lẽ không có nó thì sẽ chẳng có gì hiện hữu, tất cả sẽ bị phân lìa.
Sự kiện chính yếu là: có hai loại chuyển động. Tinh thần không giải thích được sự kiện ấy. Tình yêu và lòng thù hận giải thích được: chúng ta biết được một cách chắc chắn rằng cả hai phát động những đà thúc đẩy cũng giống như là Tinh thần tự dịch chuyển chính mình vậy.
Giờ đây, quan niệm về trạng thái nguyên thủy đã biến đổi: đó là trạng thái toàn phúc. Nơi Anaxagoras, trạng thái nguyên thủy chính là tình trạng hỗn mang có trước công trình xây dựng vũ trụ, một cái gì giống như một đống đá ở công trường xây cất.
Biểu tượng của tình yêu tính dục. Ở đây cũng như trong huyền thoại Platon, xuất hiện niềm hoài vọng về nhất tính, thực tại tính của một nhất tính vĩ đại hơn đã hiện hữu từ trước. Nếu nhất tính vĩ đại nói trên được khôi phục lại, thì đến phiên nó, nó sẽ vươn đến một nhất tính còn vĩ đại hơn nữa.
Đức tin vào nhất tính của tất cả mọi sinh thể bảo đảm cho chúng ta sự kiện rằng xưa kia đã có một sinh thể bao la mà hiện tại chúng ta chỉ là những mảnh vụn của nó, đấy chính là Sphairos. Nó chẳng qua chỉ là thần tính ảo phúc. Trong thần tính ảo phúc ấy, mọi vật được kết liền với nhau nhờ Tình yêu, bởi đó, được kết liền với nhau một cách hoàn hảo.
Nhất tính ấy đã bị lòng thù hận xé nát và phân lìa, bị thu giảm về thành các tố chất tạo nên nó và bởi sự kiện đó, bị giết chết, bị tước đoạt mất sự sống. Không một thực thể nào có thể hóa sinh trong cơn lốc xoáy. Sau cùng, khi vạn sự đều bị tách biệt, kỷ nguyên của chúng ta khởi đầu. (Chống đối lại hỗn hợp nguyên ủy của Anaxagoras, Empedokles chủ trương một sự phân chia nguyên thủy).
Tình yêu, trong mù quáng, thúc đẩy các tố chất xúc chạm lẫn nhau trong vội vã điên cuồng, nỗ lực để đưa dẫn chúng trở lại đời sống. Thỉnh thoảng, tình yêu thành công trong nỗ lực ấy. Điều đó tiếp diễn. Nơi các thực thể sinh động, nẩy sinh một dự cảm thúc dục chúng phải khát khao đến những kết hợp cao cả hơn là những kết hợp của tổ quốc hay trạng thái nguyên thủy của chúng, dự cảm đó là Eros. Sát hại sự sống là một tội ác khủng khiếp, vì đấy chính là muốn quay trở về với sự bất hòa nguyên thủy. Một ngày kia, tất cả sẽ chỉ là một đời sống độc nhất, khi đó sẽ là lạc phúc toàn hảo.
Áp dụng của học thuyết Orphée và Pythagoras vào các khoa học tự nhiên: Empedokles sử dụng một cách có ý thức hai cách thái diễn đạt; ông là nhà tu học đầu tiên. Những nhãn quan chánh trị.
Hai bản tính: khuynh hướng thù nghịch và khuynh hướng yêu thương, từ ái. Mưu định một sự cải tạo toàn diện chủ nghĩa Hy Lạp.
Toàn thể vật chất vô cơ hóa sinh từ vật chất hữu cơ, là một vật chất hữu cơ chất. Thi thể và con người.
CHỐNG LẠI ANAXAGORAS
1. Tại sao lại chấp nhận Tinh thần mà không bằng lòng với một ý chí, nếu như vấn đề chỉ là giải thích sự chuyển động.
2. Tình trạng hỗn mang đã giả thiết có sự chuyển động.
3. Trong quan niệm của Anaxagoras, chẳng có gì ngăn cản được sự giải phân toàn diện. Chuyện gì sẽ xảy ra khi Tinh thần chấm dứt công tác phân ly của nó? Vì lẽ đó, tất yếu phải có một tính định kỳ.
4. Nếu các phân tử được pha trộn với nhau đến vô hạn, thì ta có thể dễ dàng phá vỡ các vật thể, chúng sẽ không bị dính kết vào nhau, chúng sẽ tan biến thành bụi. Các sức mạnh kết dính các nguyên tử lại với nhau và ban cho khối lượng tính chất cứng rắn, được Empedokles gọi là Tình yêu. Đấy là một sức mạnh mang tính chất phân tử, một sức mạnh kiến tạo nên các vật thể. Làm thế nào có được sự chuyển động nếu như trong tất cả mọi vật thể không có một phản chuyển động?
5. Empedokles cho rằng không thể có được một chuyển động xoay vần có tổ chức và liên tục như chuyển động Anaxagoras đã hình dung. Chỉ có thể có một cơn lốc xoáy, nghĩa là điều trái nghịch lại với một chuyển động có tổ chức. Ông nghĩ rằng cơn lốc xoáy ấy xuất sinh từ lòng thù hận. Làm thế nào mà các vật thể xa cách lại tác động lên nhau, chẳng hạn như mặt trời tác động lên trái đất? Nếu vạn vật hãy còn ởtrong cơn lốc xoáy, thì điều trên đây sẽ là điều bất khả. Bởi đó, ít ra có hai sức mạnh khởi động, nhất thiết phải nội tại sẵn trong vạn vật. Empedokles đã đưa ra ý tưởng về một sức mạnh tiếp tuyến đối nghịch lại với trọng lực, phát sinh do dòng chuyển dịch lecircuit (Demokrit coelo, I,tr.284). Schopenhauer, Welt als Wille, II, tr.26, Zur Telelogie.
6. Tại sao có những vô hạn thực thể, nếu như có vô hạn những đơn tử? Vượt bỏ kinh nghiệm. Do đó, thu giảm con số những phẩm tính chân thực. Anaxagoras nghĩ đến những nguyên tử hóa học. Empedokles toan tính chấp nhận bốn loại nguyên tử hóa học. Ông quan niệm các tập hợp là thiết yếu, và hơi nóng như một tố chất được phối hợp. Bởi đó các tập hợp được sinh thành do sự thúc đẩy và hấp dẫn lại gần. Bốn hình thức của chất thể.
7. Trong khi nghiên cứu các sinh thể, Empedokles muốn tiến hành theo cùng những nguyên lý nói trên. Và cả ở đấy, ông cũng phủ nhận cứu cánh tính. Đấy là hành vi dõng liệt nhất của Empedokles. Nơi Anaxagoras có một chủ trương nhị nguyên. Không cần có những cứu cánh mới giải thích được hiện tượng thích nghi, bởi đó, không cần đến Tinh thần. Các thực thể đều có khả năng sinh hoạt. Chuyển động không đủ để giải thích một cơ thể. Anaxagoras đã cầu viện đến Tinh thần. Một giải thích đơn nhất sẽ có giá trị hơn. Đời sống chẳng có gì là vĩnh cửu, mà được sản sinh do một sự gặp gỡ nào đó giữa các nguyên tử. Hiện tượng hóa học mới mẻ: đời sống. Đời sống cốt yếu nằm trong hình thể, nằm trong sự kết tụ các nguyên tử. Đồng nhất tính của tất cả những gì sinh động. Làm thế nào Empedokles suy diễn ra được điều này? Đời sống là phẩm tính được sản sinh một cách hiếm hoi nhất.
Anaxagoras đã thừa nhận tự được của Heraklit ý tưởng này là toàn bộ biến dịch và thực thể đều chứa đựng những phản lập thể.
Ông cảm nghiệm rất rõ rằng thật là mâu thuẫn khi một chất thể lại có nhiều phẩm tính, nên ông đã phá tan chất thể ra, với niềm tin là nhờ đó ông phân giải chất thể thành những phẩm tính chân thật của chúng.
Platon: Trước tiên là người theo Heraklit, hoài nghi luận lý; vạn sự; ngay cả tư tưởng, đều trôi chảy.
Rồi được Sokrates đưa dẫn tới chỗ tin vào tính chất thường hằng của Thiện thể, Mỹ thể.
Chấp nhận Thiện thể, Mỹ thể như những thực thể.
Tất cả mọi lý tưởng của chủng tộc đều tham dự vào Thiện thể và Mỹ thể, và bởi đó, đều có thực thể (như linh hồn tham dự vào linh tượng của sự sống. Linh tượng không có hình thức.
Thuyết luân hồi của Pythagoras giải đáp co câu hỏi này: làm thế nào chúng ta có thể biết được đôi điều về các Linh tượng?
Chung cuộc của Platon: chủ trương hoài nghi của cuốn Parmenides. Khước bác học thuyết về Linh tượng.
KẾT LUẬN
Tư tưởng Hy Lạp vào thời đại các nhà bi kịch là một chủ trương bi quan hay một chủ trương lạc quan của nghệ sĩ.
Phán đoán về cuộc đời của họ nói lên rất nhiều về điều đó.
Nhất thể, sự trốn chạy trước biến dịch. Hoặc Nhất tính, hoặc một trò chơi của nghệ thuật.
Khinh bỉ sâu xa đối với thực tại. Không một tư tưởng gia nào chấp nhận một đấng Thượng đế đã sáng tạo nên vạn vật vì sự thiện hảo.
Những triết gia học phái Pythagoras, môn phái tôn giáo: Anaximander, Empedokles.
Những triết gia thành Elea: Anaxagoras, Heraklit.
Demokrit: thế giới bị lột trần mất ý nghĩa đạo đức và thẩm mỹ, chủ trương bi quan về ngẫu nhiên.
Nếu ta đem tất cả các vị trên đặt trước một bi kịch, thì ba vị đầu sẽ nhìn thấy trong bi kịch tấm gương phản chiếu nỗi khốn cùng bất hạnh của cuộc hiện sinh, Parmenides sẽ nhìn thấy một ngoại ảnh phù ảo, Heraklit và Anaxagoras nhìn thấy một kiến trúc thẩm mỹ và một hình ảnh của các định luật phổ biến, Demokrit nhìn thấy kết quả của các bộ máy phân nhau.
Với Sokrates, khởi đầu chủ trương lạc quan chẳng còn chút gì chất nghệ sĩ, chủ trương viễn đích luận và lòng tin tưởng vào vị Thượng đế tốt lành, bởi vì con người “biết”. Sự phân giải các bản năng
Sokrates cắt đứt với khoa học và văn minh tiền thời, ông muốn quay trở về với đức hạnh công dân cũ và với Nhà nước.
Platon tách khỏi Nhà nước khi ông nhận thấy rằng Nhà nước ấy được đồng hóa với nền văn minh hiện tại.
Chủ trương bi quan của Sokrates là một vũ khí chống lại nền văn minh và khoa học tiền thời.
Vạn Hạnh, 1972

Nguồn: Nietzsche. Triết lý Hy Lạp thời Bi kịch / Die Philosophie im Tragischen Zeitalter der Griechen(1872). Trần Xuân Kiêm dịch. Sài Gòn: Nxb. Tân An, 1975. Bản điện tử do triethoc.edu.vn thực hiện.
Share this article :
 
Support : Creating Website | phuctriethoc | NGUYỄN VĂN PHÚC
Copyright © 2013. NGUYỄN VĂN PHÚC - All Rights Reserved
By Creating Website Published by KINH TẾ HỌC
Proudly powered by NGUYỄN VĂN PHÚC
NGUYỄN VĂN PHÚC : Website | Liên hệ | phuctriethoc@gmail.com
Proudly powered by Triết học kinh tế
Copyright © 2013. NGUYỄN VĂN PHÚC - All Rights Reserved