Ngày xuân,
nhớ về một góc sử làng nơi đất
tổ
Người ta đến chủ yếu là để xem
trò. Gọi là trò nhưng không có cốt trò liền mạch. Hoặc vẫn là trò nhưng không
thành truyện. Trên một bãi trống tự nhiên, cắm xuống một cái " Pa nô" gồm bốn
cái mẹt xếp liền nhau từ trên xuống. Trên mặt mẹt dán mảnh giấy hồng điều hình
trái trám ghi bốn chữ " Tứ dân chi nghiệp". Lố nhố sau đó mươi lá cờ xí. Đoàn
làm trò vừa đi vừa diễn. Diễn viên là tất cả nam, phụ, lão, ấu tuyển ngay trong
xóm Trám. Buổi diễn như một màn trình nghề, lần lượt diễn qua mắt người xem: Vua
Thuấn râu như cước, đem voi ra cày ruộng, một bố cu đánh lờ, mấy chàng trai câu
cá, một cảnh dệt vải quay tơ, một tốp thợ xùng xê; một nghệ sỹ chơi đàn tràng
cối xay; một thầy đồ dạy dăm trẻ học. Đặc biệt hơn cả là một ả bán xuân. Ả này
ăn mặc đỏm, mặt hoa da phấn, có nốt ruồi duyên nơi ngấn cổ, gánh hai cái mẹt có
hai chữ " XUÂN" to tướng, lúng liếng mắt đưa tình khắp bãi hội. Thoạt xem ta có
cảm giác như bắt gặp một Thị Mầu ở một màn chèo cổ, nhưng không phải. Người xem
bị thu hút không hẳn do động tác, điệu bộ hoặc lời hát của diễn viên. Xem xong
một màn trò, hẳn người xem sẽ chiêm nghiệm, suy tư về một điều thật thẳm sâu mà
thú vị giữa đời thường nơi thôn dã.
Kìa ! Người bán xuân với động tác
múa dẻo, rất duyên dáng trẻ trung, như muốn hút hồn các chàng trai trong hội.
Nàng nở nụ cười như chào từng khán giả và rao bán :
"Chơi xuân kẻo phí xuân
đi
Cái già
thành thạch nó thì theo sau"
Kìa! Một, hai, ba chàng nghiêng người, lật
mẹt sán vào phía bên phải, phía bên trái, đằng trước ve, đằng sau ... Nhưng cô
gái khép mình rất khéo, đảo tránh mọi sự ve vãn, thành thử hết cả lớp trò mà
chẳng ai mua được một tí xuân nào. Bạn trai đi rồi, cô gái thảng thốt im lặng,
ném tầm mắt ra xa, buồn thăm thẳm, như tiếc nuối một thời xuân giữa cuộc đời lam
lũ đất bùn, giặc giã, như một lời nhắn gửi đau đáu, tiếc một thời xuân
sắc.
Còn đây ! Người đi câu vác một cần
câu trúc cực đại còn nguyên cả ngọn lá. Lưỡi câu là một khúc đồng uốn vòng lại,
giống hệt một cái móc màn. Mồi câu là một khối cầu nhỏ bằng chỉ đỏ thắt tua rua.
Anh ta lơi lả sán về phía các trinh nữ :
"Người ta câu diếc, câu
rô
Tôi nay
câu lấy một cô không chồng"
Và:
" Có chồng thì nhả mồi
ra
Không
chồng thì bắt, thì nuốt, thì tha lấy mồi
Anh ta lia mồi về phía các ả. Thật lạ, ả
nào cũng lườm nguýt và né , cho khối cầu chỉ đỏ văng lên, lượn hết vòng này,
vòng khác. Rốt cuộc, suốt cả lớp trò chả có con cá nào cắn câu. Nghe nói trước
khi vào trò thì ở xóm Trám cuộc " câu vợ" này đã diễn ra như một cái lệ. Ngày
diễn trò, người ta chọn ra dăm cụ cao lão hơn cả, khăn xếp, áo the đứng nghiêm
trang ở bậc tam cấp miếu trò. Nhiều chàng trai chưa vợ vác cần câu công diễn.
Các cô gái dàn hàng, cầm hoa múa dẻo và hát bông lơn :
"Không đâu vui bằng phường
ta
Đàn ông
đi tát, đàn bà đi hôi".
Đã có dụng tâm, chàng trai thả mồi về phía
bạn tình đã chọn. Người bạn tình ngước lên, nếu ưng thuận sẽ chộp giữ lấy khối
mồi như người ta bắt con vàng anh vậy. Khối mồi có chủ được trình lên các cụ,
cuộc tác thành coi như đã chính thức. Lễ cưới của hai nhà chỉ là tự xác nhận
quyền được yêu do xóm công nhận.
Cũng có lúc chàng trai thả mồi về
phía đích chọn, bất ngờ một ả khác vốn mê chàng chạy lại chộp lấy, khư khư giữ
lấy phần lưỡi câu, công khai về sự lựa chọn của mình. Nếu chàng trai không đồng
ý thì phải dùng hết sức mình giật mạnh cho đứt dây, gãy cần mới thôi. Vạn bất
đắc dĩ , nếu cả dây và cần không đứt gãy, thì anh chàng phải dùng đến nước cùng,
bỏ cả cần câu khỏi tay mình với một cái vái dài rất chi là khách sáo. Và anh
chàng kết thúc buổi đi câu giữa sân trò, như một lần súi quẩy, vác giỏ về
không.
Giờ thì ta xem thầy đồ dạy học như
thế nào?. Thôi thì đủ cả sự thâm trầm, nghiêm trang, phép tắc. Nhưng sao quanh
đi, quanh lại thầy chỉ dạy độc một pho " tam tự kinh" với sự giảng giải có khi
đi quá xa nghĩa gốc, có khi còn đệm thêm một câu bình chú hơi khí tục tằn. Cuối
buổi thầy nghiêm trang bảo các trò :
- Các con học xong nhớ trả hết chữ
cho thầy nghe chưa?
- Sao thế ạ?
- Để thầy còn đi làng khác dạy chứ
sao !
Đám đệ tử chưa hết ngạc nhiên,
thầy đã nói:
- Các con phải nhớ : Học chữ nào
thì phải quên ngay chữ ấy đi nghe không ?
- Sao lại thế ạ?
Thầy buông một câu luận đời buồn
tênh:
- Ở trên đời này, biết làm gì cho
khổ !
Thì ra đây cũng chỉ là một "thầy
vườn" có ngay trong xóm Trám. Không đi câu, không làm thợ thì làm thầy đồ, thế
thôi ! Còn đám đệ tử thì háo hức, mắt sáng lên sau từng dòng chữ
thánh.
Cách phô diễn của trò Trám thường
có chất hài. Chất hài có ngay trong đạo cụ, trang phục và động tác diễn. Nó có
những pha gây cười thật đột xuất. Nhưng vì là tích trò bình dân theo kiểu " tự
biên, tự diễn", nên khi ra sân nhiều lúc diễn viên cương quá lên cốt để gây
cười. Người nghệ sỹ gẩy đàn tràng phành phạch bên tai voi, có khi còn tinh quái
treo lủng lẳng nơi cần đàn một khúc dồi lợn dài vặn nhiều vòng, thơm phức. Một
bà vãi áo dài, tràng hạt, sắp lên chùa ngoái lại bảo các vãi khác
:
- Các vãi lên trước đi, em còn
phải về đẻ cái đã !
Chất hài, phần nào thể hiện cách
sống hàng ngày của người xóm Trám. Ấy là lối sống của một cộng đồng cổ. Nó tồn
tại bền vững qua năm tháng, qua bao nhiêu thế kỷ. Các xóm khác, ở ngay sát bên
cũng không thể có. Cái chất liên gia của xóm Trám thật kỳ lạ. Đồ dùng, vật dụng
nhiều lúc là của chung. Nhà có việc, cứ sang hàng xóm lấy từng nắm đũa, dùng
xong cứ việc để ở nhà mình. Nhà cạnh đến bữa thiếu đũa lại sang lấy, có thể lấy
nhiều hoặc ít. Cái chổi quét sàn, cái cuốc, cái cào cần dùng cứ ngang qua nhà
cạnh lấy. Một nhà nào đấy, cần dùng lại mượn luôn. Đến nhà hàng xóm thấy chổi,
cuốc cào của mình cũng cứ để đó, vì có mất đâu mà phải đòi lại. Nhà nào trong
xóm có việc, chỉ cần cho con đi báo tin cho mọi nhà là đủ. Trước khi vào tiệc
chính, nhà chủ phải nấu sẵn một nồi 30 cơm chín trước, để các bà, các chị đến
xới cơm mớm cho con.Veo nồi 30 cơm thì mâm bàn cũng bưng lên, người có con mọn
yên tâm ngồi vào bàn tiệc. Tan tiệc về, các bà, các chị lại không quên gói một
ít cơm đem về cho chó nhà mình ăn. Ấy là cái vui chung trong xóm khi một nhà có
việc.
Tính khí của người xóm Trám cũng
thường dễ dãi chân quê không bao giờ khách khí, cầu kỳ. Lúc vui, mấy ông bạn bày
ra một mâm rượu cùng mời nhau. Lúc đầu có thể là bốn ông. Một ông bạn cùng lứa
vác cuốc ra đồng ngang qua, mời vào! Một ông nữa thăm lờ về qua cổng, mời vào!
Cứ thế mà mâm cỗ đông dần lên, có khi đến 14 người túm tụm trên dãy phản can
liền. Thức ăn có gì thì thêm ra, không cần nhiều. Còn rượu thì vui vui, chén
này, chén nữa chẳng ai chối từ.
Người xóm Trám ít khi giận hờn
nhau. Ngồi nói chuyện với nhau ít thấy lời than phiền, ngang trái. Những chuyện
có chất hài hước một chút, dù thóc mách nhất cũng được đàm luận, chỉ rõ tên
người, lúc xảy ra sự kiện. Người trong chuyện nghe được chỉ gãi đầu, không biện
bạch. Hứng lên, có ông láng giềng còn can thiệp vào làm cho câu chuyện đã hài
hước, lại càng hài hước hơn. Người xóm Trám giúp nhau không hề tính toán, vụ
lợi. Ông cần làm nhà ư ? Gỗ có thể lấy ngay từ nhà ông Y mới đi bè từ rừng Thanh
Sơn về. Tre có thể tạm vay nhà ông A, bà H. Lá lợp có thể tạm vay nhà ông F.
Ngày khánh thành cứ phải thật vui. Thiếu lợn sang ngay nhà bên cạnh bắt thêm một
con vài chục ký. Nếu thiếu nữa lại sang nhà cạnh nữa bắt thêm. Rượư mừng, pháo
nổ, nhà hoàn thành. Chủ nhà không có một đồng tiền, hạt gạo nào, mai ngày làm ăn
khấm khá, lại trả cho láng giềng cũng theo cái cách như thế.
Cách ăn ở như vậy mang đậm sắc
thái cộng đồng nông thôn cổ. Nhìn vào đó ta bỗng như thấy lại cách chia ăn, chia
ngủ, chia vui của một thời mà hai tiếng "gia đình" chưa có nơi cửa miệng. Tôi
bỗng sực nhớ ra một chút trong hương sử. Nghe nói bà Ngô Thị Thanh, vị thần nữ ở
miếu trò là con gái ông Ngô Quang Điện. Ông Ngô Quang Điện là người chiêu dân,
lập ấp ở đây. Ông Ngô đến sứ này từ bao giờ, không ai đoán chắc, nhưng có một vế
đối lưu lại nói về cụ như sau :
Nghĩa là :
Xóm
Trám có ngay từ thời đó chăng ? Vậy thì trong cuốn sử làng, xóm Trám sẽ phải
chiếm một góc rõ ràng, không thể thiếu. Rồi sẽ phải thêm vào cho trò Trám thành
một hội Trám. Có lẽ nên có hẳn một bãi cờ người. Cứ tuyển ngay trong xóm Trám
mười sáu nam thanh, mười sáu nữ tú để xếp đủ 32 quân cờ. Cách ăn mặc cũng còn
tùy. Bên trai nên theo mốt mới, com lê xộp, có caravat hẳn hoi. Bên gái thì cứ
mặc áo dài, thắt đáy lưng ong chăng ? Cũng nên có cho mỗi cô một cái ô màu, để
tôn thêm vẻ xuân mơn mởn . Còn người chơi cờ thì không thiếu. Xóm Trám là một
xóm ham cờ và cao cờ. Bàn cờ ngày xuân nên được chơi trên nền những bài dân ca
của xứ sở vua Hùng. Đã có đu cột với cảnh quen thuộc " bốn mảnh quần hồng bay
phấp phới". Cũng nên thêm vào đó một bãi đu tiên ... Làng Gáp là một làng khỏe,
xưa kia từng có nhiều hội vật, có những hội rất nổi tiếng. Nay vào hội Trám,
người ta mở lại cuộc thi vật cho cả làng, có giải hẳn hoi. Dám chắc rằng, trong
số vài nghìn thanh niên của xã, sẽ có nhiều chàng không ngủ trọn giấc trước ngày
hội Trám.
Từ trên nền văn hóa có sẵn của trò
Trám, chúng ta sẽ được chứng kiến sự phát triển nhiều về mặt hình thức để tiến
tới một hội Trám. Đương nhiên, trong việc phát triển sẽ không có chuyện du nhập
những trò xa lạ, đối với nếp sống của một cộng đồng cổ như thế. Để vào ngày 12
tháng Giêng những năm chẵn, người người, xa hay gần, trong nước hay ngoài nước
lại về hội Trám, hưởng trọn cái không khí của miền quê riêng : Tứ Xã, Lâm Thao,
trong tình quê nơi Đất Tổ.
(Tứ Xã, Lâm Thao, Phú Thọ)