Chúa Và PhậtCHRIST AND BUDDHAcủa C.Jinarâjadâsangười dịch: Nguyễn Thị Hai
đánh máy: Như Khuê Tiểu Hoa Nhi |
Lời nói đầu của dịch giả
Quyển Christ and Buddha này của ông C.Jinarâjadâsa viết cho các bạn trẻ. Ngài giải bày đạo lý bằng những mẫu chuyện ngắn, miêu tả rất khéo với cái tinh thần của nhà mỹ thuật. Trẻ em đọc thấy vui, người lớn đọc rồi, ngẫm nghĩ mới thấy sự cao sâu của đạo lý ẩn trong câu chuyện thường; mà phần đông là những chuyện thật, thuộc về đời tư của một bậc vĩ nhân dưới thế là ông C.Jinarâjadâsa
Ông C.Jinarâjadâsa viết bằng Anh văn, chúng tôi xin dịch ra Việt ngữ, ước mong giúp được bạn đọc trong muôn một.
Nhưng chúng tôi thiết tưởng ta nên biết qua tiểu sử của tác giả mới lãnh hộ được tất cả ý nghĩa cao siêu trong quyển sách có giá trị này
Saigòn ngày 1.5.1953
Nguyễn Thị Hai tự Minh Tâm
Tiểu sử ông C.JINARÂJADÂSA
Tác giả: C.M LEADBEATER
Người ta xin tôi viết tiểu sử của người bạn thân yêu tôi là : C. Jinarâjadâsa. Em với tôi đã giao tình thân mật trong nhiều kiếp rồi. Kiếp nầy, tôi lại gặp em lần đầu tiên vào năm 1888, trong khi tôi làm lễ khánh thành Phật Học Đường cho nam phái tại COLOMBO. Trường nầy hiện giờ vẫn còn và vẫn lấy hiệu là Trung học Phật đường Ananda. Lúc bấy giờ trường chỉ có 55 sinh viên, mà trong số đó lại có em C.Jinarâjadâsa . Tuy mới mười ba tuổi đầu, mà em Jinarâjadâsa đã thông minh hơn người và rất chăm học. Học được hai năm, em tỏ ra tính can đảm phi thường và tính tự do ít có trong sự xét đoán: em sẵn sàng dứt bỏ cuộc đời thường lệ để dấn thân trong cõi xa xăm huyền bí; em định theo tôi đi du lịch bên Anh Quốc, mặc dù thân bằng, gia tộc cản ngăn, mặc dù chia ly bạn đồng song mà em yêu mến đậm đà. Sự chia ly này là một mối đau thương cho đời tuổi trẻ của em, mà em đã sơ tả trong quyển sách tuyệt diệu nhan đề là: “Christ and Buddha”. Nhưng sự chia ly đau đớn này là cái đánh dấu cho cuộc đời mới của em.
Chúng tôi đến châu thành Londres, sau lễ Phục Sinh, trong ngày hạnh phúc và thái bình. Dầu vậy, chứ tuyết giá mùa đông dễ gì thay đổi được cậu bé cùa xứ mặt trời ở đảo Tích Lan. Chúng tôi được ông bà Sinnett tiếp rước rất nồng hậu, tại biệt thự người ở Ladbroke Gardens. Tôi lãnh chức giáo học, lo việc sách đèn cho con ông Sinnett và tự nhiên cho C. Jinarâjadâsa cùng học chung (mà chúng ta thường gọi là Râja ). Về sau có một em trai nữa đến thọ giáo với tôi: ấy là em G.S. Arundale. Thuở ấy, chúng tôi làm việc trong vòng thân ái và hạnh phúc.
Thừa cơ hội thuận tiện, tôi mới trình diện Râja cho bà Blavalsky, lúc bà ngụ tại 17 Lansdown Road. Bà Blavalsky tiếp rước vị Hội Trưởng tương lai của bà một cách thân tình và vui vẻ!
Ngày giờ thấm thoát thoi đưa, phút chốc đã được vài năm; chúng tôi sống trong bầu không khí vui tươi. Kế đó bà Blavalsky mất; ông Sinnett cửa nhà sa sút, tiêu hoại; và từ đây chúng tôi phải chịu cảnh phong trần, nay đây mai đó, không cón tiện nghi như trước nữa! Lúc bấy giờ Râja lại sửa soạn dự thi lấy văn bằng “Matriculation”, và cũng trong lúc ấy, gia đình chúng tôi lại thêm một con mèo cái tên gọi là “Ji”. Từ đây, con mèo ấy choán một phần chính trong đời sống chúng tôi. Nó theo Râja đến trường mỗi bữa. Trong hết thảy cuộc du lịch của Râja tại Ceylan, Adyar, và Italie đều có nó. Con mèo ấy đã giúp chúng tôi kinh nghiệm nhiều điều rất hữu ích và thú vị. Lúc em Râja đến Italie thì con Ji đau nhọt mà chết. Xác nó chôn tại vườn của một vị Hội viên thuộc dòng quý phái, tên là Donna Mina Sala Trotti, ngụ tại Milan. Ai muốn biết sự tích con mèo “Ji” xin đọc quyển “Christ and Buddha”.
Đến năm 1895, bà Annie Besant có lòng nhân từ mời chúng tôi đến giúp Hội Thông Thiên Học, lấy trụ sở tại nhà bà, số 19 avenue Road, St. John’s Wood. Lúc này em Râja tiếp tục học tại trường Cambridge; rồi sau sang qua trường St. John để học chữ Phạn và khoa triết lý. Em còn muốn học Luật nữa; nhưng rủi thay, sức khỏe của em lại giảm nhiều, em không thể dự thi, mặc dầu em đứng đầu trong những cuộc thi thử của trường tổ chức. Em bèn nhập vào đoàn đua bơi của hội Rowing Lady Margaret. Em lái chiếc tàu của trường để dự thi: bốn lần đều được giải nhất.
Năm 1900 em thi đậu về khoa Tiệm Tiến (Examen de Gradué ) rồi trở vế Ceylan liền. Chúng tôi có cảm tưởng rằng em RâJa sẽ hoạt động giữa đồng bào của em vì lúc trở về xứ em được bổ làm phó giám đốc trường Trung học Ananda. Nhưng em thấy ở nước nhà em hoạt động không được nhiều bằng tha hương.
Vào tháng chạp năm 1901, mới lần đầu tiên em được dự Đại Hội nghị Thông Thiên Học tại Adyar. Sau khi bàn chuyện nhiều lần với bà chánh Hội Trưởng T.T.H. chúng ta, là bà A. Besant, em nhất định hiến mình cho Hội. Đầu năm 1902, em được lịnh từ giã Ceylan qua Italie. Ở đó được ba năm, em hoạt động rất đắc lực. Em có thiên tài về Văn ngữ nên em học tiếng ngoại quốc rất mau. Và liền đó em diễn thuyết bằng tiếng bổn xứ được; nhờ vậy mà em giúp Hội T.T.H. sở tại rất nhiều.
Ở Milan, em học hai năm tại Hàn lâm viện Pavie (toàn cầu đều biết tiếng) về Văn Chương và Khoa Học.
Qua năm 1904, RâJa được lịnh bề trên sai đến Hiệp Chúng Quốc (Etats Unis) để nhận chức diễn giả quốc tế. Em giữ chức này một cách xứng đáng cho đến năm 1906 là năm em bị tai tiếng do sự hiểu lầm của hội viên, trong lúc em can đảm binh vực một người bị vu oan. Bởi hết lòng bênh vực lẽ công bằng mà người khác hiểu lầm em, nên em phải bị trục xuất ra khỏi Hội; người ta bất kể đến sự nhọc nhằn, sự cố gắng và công phu cao quý của em trong bao nhiêu năm trời!...
Em bèn trở về Âu Châu. Em và tôi sống trên đảo Sicile. Đến năm 1907 vào tháng hai, ông Olcott từ trần, kế đó ít lâu, bà A. Besant trở qua Âu châu. Chúng tôi gặp lại bà tại Brindisi và đi theo bà đến Trieste. Trong khi chúng tôi cùng đi du lịch chung, chúng tôi được thấy nhiều tia sáng trên đường Đạo.
Cũng trong năm ấy, bà Besant, Râja và tôi hiệp nhau tại Weisser Hirsch gần Dresde để khảo cứu về khoa Pháp môn rất đỗi khó khăn. Trong lúc sưu tầm, em Râja lãnh làm thư ký và kế toán, em giúp chúng tôi rất nhiều.
Cách ít lâu bà Annie Besant đi Mỹ. Nơi đây, với cái đặc quyền cao quý của vị chánh Hội Trưởng, với tính phân biện rõ ràng và sự công bình đanh thép của bà, bà mới chữa lại sự hiểu lầm, tưởng quấy năm xưa và đem em C. Jinarâjadâsa đặt lên ngôi vị cũ của em trong T.T.H. một cách vinh diệu vô cùng!
Năm 1908 em Râja trở qua Mỹ quốc lãnh lại chức “Diễn giả Quốc tế”. Em hoạt động từ Etats Unis tới Canada một cách đắc lực phi thường. Em ở đó tới năm 1911 rồi sang Italie để nghỉ mát ba tháng. Nhưng thình lình, em lại được lịnh của bà A. Besant kêu trở về Adyar.
Ngày mồng 2 tháng chạp năm 1911, em Râja đến Adyar gặp Krishnamurti và em là J. Nilyananda lần đầu tiên. Bà A.Besant xin em nhận chức Giáo sư và đạo hữu của hai em bé này trong lúc ở Anh Quốc. Rồi ngày mùng 2 tháng 2 năm 1912, em Râja, hai đứa bé và bà A. Besant đồng sang Londres (Anh quốc). Ở đó đến tháng chạp năm 1913, em Râja trở qua Ấn Độ. Năm 1914, em dọn về Adyar tưởng ở đó được lâu dài. Nhưng đời sống của bậc danh nhân nào được yên lặng bao giờ; số phận phải bôn ba nay đây mai đó, để đem ngọn đuốc thần rọi khắp nơi khắp chốn. Vì vậy mà em Râja phải bị triệu đi Londres vào năm 1916 để cộng tác với bà A. Besant trong cuộc vận động về Home Rule để giúp xứ Ấn Độ. Chính trong cuộc viễn du này, mà em C. Jinarâjadâsa cưới cô Dorothy Graham (người Anh).
Năm sau, em trở về Adyar, và ở đó làm việc tới năm 1919 là năm em được mời qua Java. Em nhận lời và tại đây em diễn thuyết nhiều nơi rất được hoan nghinh. Đoạn em qua Australie (Úc châu) và Nouvelle Ze1lande (Tân tây lan).
Đầu năm sau, (1921) em Râja trở về Adyar và được bổ nhiệm chức phó Hội Trưởng T.T.H. thế giới.
Năm 1922, em lại qua Autralie cùng Krishnamurti, Nityananda, và ông Eritz Kunz. Vài tháng sau, bà A.Besant lại sang qua Sydney để hiệp cùng đoàn sứ gỉa. Hầu hết mỗi năm, em đi tuần du thế giới.
Năm 1924 em đi Etats Unis.
Năm 1925 em cũng xuất dương với anh em Krishnamurti.
Năm 1927 em lại đến Islande là xứ chưa có chi nhánh Hội Thông Thiên Học.
Năm 1928 em đến Sydney sau Đại Hội Nghị Pâques, rồi lại qua Etats Unis một lần nữa. Đến tháng 8 năm ấy, em lại sang Londres. Nơi đây em gặp bà A. Besant và được lịnh bà phải lập tức qua miền Trung Mỹ Quốc và Antilles. Em Râja đến bên ấy, và phải làm việc nhọc nhằn trong mười hai tháng trời. Tại Brésil, em diễn thuyết phải cần có người thông ngôn Bồ đào nha (Portugais). Nhưng vì em có biệt tài về văn ngữ nên không bao lâu em đọc được diễn văn và từ sự biết đọc đến sự biết nói không bao xa, em nói được tiếng Bồ đào nha trôi chảy, và từ đây thính giả càng thêm đông đảo và được hài lòng. Cuộc tuần giáo này đem đến cái kết quả hết sức tốt đẹp, nhiều người hiểu được thế nào là tinh thần T.T.H.
Đến tháng 5 năm 1930 em đi theo bà Chánh Hội Trưởng đến Anh Quốc rồi cùng về Adyar với bà vào tháng 10 năm ấy. Từ đó em luôn luôn ở gần bà. Tấm lòng sùng bái của em đối với bà thật là hiếm có: ngày và đêm, bất kỳ giờ phút nào, em luôn luôn sẵn sàng giúp đỡ bà trong cơn đau yếu. Có khi trong một đêm em phải chỗi dậy hai, ba lần, khi được lịnh bà đòi thình lình, nhưng em vui vẻ và sốt sắng. Em phụng sự bà A.Besant như vậy trong hai năm trường, trước khi bà từ giã cõi trần. Chỉ những người ở gần em mới biết tấm lòng tôn kính yêu thương của em đối với bà. Người ta lo sợ cho em chịu không nổi với tất cả sự nhọc nhằn mà phải đau ốm. Nhưng vì tình thương, mà em thắng nổi các sự khó khăn và mệt nhọc (bởi vì trước khi lâm chung bà A.Besant không muốn ai săn sóc bà hơn là RâJa). Trước tấm lòng hy sinh tốt đẹp ấy, bà A.Besant có viết vài hàng tặng RâJa như vầy:
To RâJa
With a Brother’s love, and with deep respect for past work and reverence for future greater achievements. A.Besant
Dịch ra Pháp văn:
A RâJa
Avec un amour de frère et avec un profound respect pour le travail passé et reverence pour de futures et plus grandes réalisations.
A.Besant.
Dịch ra Việt văn:
Dịch ra Việt văn:
Gởi cho RâJa
Với một tình thương huynh đệ, với một tấm lòng tôn kính trước việc làm của em ở dĩ vãng và sự thực hiện tối đại ở tương lai.
A.Besant.
Riêng về phần tôi, tôi xin chung lời với bà A.Bsant để tỏ lòng yêu kính của tôi đối với RâJa. Luôn luôn, tôi nhìn nhận em RâJa là một người bạn tốt nhất. Một người cộng sự trung thành và bao giờ cũng sẵn sàng vui lòng giúp đỡ kẻ khác. RâJa và tôi vốn là anh em với nhau trong kiếp trước, nhưng trong kiếp này, RâJa đối với tôi còn hơn là ruột thịt nữa. Cầu xin ơn trên ban phước lành cho em!
Tôi mong rằng: lời chúc chân thành của chúng tôi sẽ giúp cuộc du ngoạn của em dưới trần được kết quả tốt đẹp, và em sẽ được tiêu diêu tự tại, bởi vì em rất xứng đáng vậy.
RâJa có viết rất nhiều sách, nhưng cuốn “L’Evolution Occulte de I’Humanlté” được hoan nghênh hơn hết. Nhiều người muốn chúng tôi viết lời tựa cho quyển sách tuyệt phẩm này, nhưng rất đỗi khó khăn. Quyển “La Sagesse Antique” của bà A.Besant mặc dầu là hay, nhưng cũng không sánh được vì nó khó hiểu. Còn cuốn “La Clé de la Théosophie” của bà Blavasky cũng có mục đích trình bày T.T.H. một cách dễ hiểu, nhưng theo ý tôi thì sự sắp đặt của nó hơi giống sách phần của Cơ Đốc Giáo. Tóm lại, quyển “L’Evolution Occulte de I’Humanlté” là quyển tốt hơn hết để cho những người chưa biết T.T.H. là gì.
Lại nữa em RâJa còn viết quyển “The Golden book of the Theosophical Society” nói về lịch sử của Hội T.T.H. Trong đó có nhiều hình các bậc Huynh trưởng của Hội và nhiều tài liệu tham khảo rất quý báu. Mỗi chi nhánh T.T.H. cần phải có quyển sách này trong thư viện.
Em RâJa là một người có thiên tính mỹ thuật. Em giúp hội T.T.H. rất nhiều vì em giải thích rõ sự liên quan giữa T.T.H. và mỹ thuật; em chỉ cách nào Hội T.T.H. phải thực hiện để đi đến mỹ thuật. Bởi vậy, em có viết những sách sau này: “Art and the Emotion”; “Art as Will and Idea” và “Christ and Buddha”.(1)[1]
RâJa có chọn lựa và xuất bản nhiều bức thư của Đức Tiên Trưởng đã gởi cho các vị sáng tạo Hội T.T.H. buổi đầu. Em còn viết nhiều sách rất có giá trị, nhưng tôi không có ngày giờ kể ra hết.
Em có câu văn riêng biệt, không vị Hội viên T.T.H. nào bắt chước được. Em nhận thấy hiện giờ, sự đen tối cộc cằn đã bao khắp thế gian và mỹ thuật đã đến thời kỳ suy đồi, em cố hết sức mình để cứu vãn nó: từ chốn bùn lầy nước đọng, đưa lên ngôi vị xứng đáng của nó. Em can đảm, em cố gắng trong công việc này. Cho nên những bài diễn văn và những tác phẩm của em đều luôn luôn có ý nghĩa mỹ thuật; em mong đem sự trong sạch và ánh sáng để đối phó với hắc ám, xấu xa và tục tằn.
Cầu xin em được sống lâu để nêu cao ngọn cờ:
CHÂN LÝ,MỸ THUẬT VÀ BÁC ÁI!
Phỏng dịch: NGUYỄN THỊ HAI.
MỤC LỤC
1.- CHÚA VÀ PHẬT
(Christ and Buddha)
2.- CHATTA VÀ ĐỨC PHẬT
(Chatta and the Buddha)
3.-AGADE- 1500 NĂM TRƯỚC CHÚA GIÁNG SINH
(Agade- 1500 B.C)
4.- VUA WENCESLAS NHÂN TỪ
(Good King Wenceslas)
5.-TIỂU LỮ HÀNH
(Little Wayman)
6.- CON BẠCH TƯỢNG CON
(The baby White Elephant)
7.- CON MÈO CỦA TÔI
(my Cat)
8.- VỊ CỨU TINH
(The Helper)
9.-ĐỨC THẦY
(The Master)
CHÚA VÀ PHẬT
CUỘC LUYẾN ÁI THUẦN KHIẾT
Lẳng lặng mà nghe, hỡi Tiểu Hoa nhi, tôi sẽ kể cho em một chuyện đời xưa, mà cũng là chuyện đời nay nữa. Em là người phương Tây, còn tôi là người phương Đông. Khi em còn nhỏ, trước khi ngủ, em quỳ bên cạnh giường cầu nguyện Chúa rằng: “Chúa dễ thương, dịu dàng và hiền lành ơi!...”. Còn tôi, cũng tuổi ấy, ngủ trên manh chiếu, trải dưới sàn, người ta dạy tôi quỳ gối, chạm trán xuống sàn mà rằng: “Tôi quy y Phật, quy y Pháp, quy y Tăng”. Khi hai người đã vào cõi mộng, em thì tưởng Chúa , còn tôi thì tưởng Phật, cả hai đều ký gởi tinh thần nơi lòng thương của hai Đấng Thiêng Liêng ấy, biết rằng ta sẽ tỉnh dậy ngày mai, vào một cuộc đời hạnh phúc hơn. Này Tiểu Hoa Nhi ơi, hai ta dầu mới gặp, nhưng đã từng, tay cầm tay, cùng nhau đi từ thuở bé, dẫu rằng nửa quả địa cầu chia cách chúng ta.
Câu chuyện tôi nói cho em nghe đây, người ta thuật cho tôi nghe đã lâu lắm rồi, đến nỗi tôi không còn nhớ là ai nữa. Tôi còn nhỏ quá, có lẽ người ấy là cha tôi vậy. nhưng tôi chẳng hề quên được câu chuyện, và hôm nay là ngày tôi phải thuật lại cho em nghe, để em truyền tụng cho kẻ khác được biết và hiểu. vậy thì đoạn đầu là sự LẬP NGUYỆN.
LẬP NGUYỆN
Xưa kỉa xưa kia, trên quả địa cầu này, có một người thanh cao và dũng khí, tên gọi Sumedha. Thuở ấy, ra đời một bậc vĩ nhân, một vị Phật, danh hiệu là Phật Dipankara. Ngày kia, Đức Phật và các Thánh tăng đến một thành nọ. Người trong thành đều hết sức vui mừng, sửa soạn mọi vật cho tốt đẹp để rước Ngài. Đường thì quét tưới, cây thì treo cờ, mọi việc đều được tăng vẻ trang nghiêm. Ông Sumedha cũng giúp công vào việc ấy nữa, vì ông cũng biết Đức Phật là Vĩ Nhân, vinh diệu đến bực nào, nên ông muốn tỏ lòng tôn kính. Bổn phận ông phải bang cho bằng một khoảng đường, quét tước cho sạch và sửa soạn cho đàng hoàng. Nhưng khi Đức Phật vừa đến, thì công việc ấy chưa xong, còn chừa một vũng nước lớn ở giữa đường, mà Đức Phật phải bước qua. Ông Sumedha không thể chịu được như thế, liền vội vã úp mặt xuống bùn để Đức Phật bước lên mình mà đi qua. Trong khi nằm, ông thầm nguyện: “Nguyện một ngày kia, tôi được thành Phật như Phật Dipankara; nguyện một ngày kia, tôi cũng được cứu thế”.
Đức Phật bước qua mình Sumedha bèn dừng lại, nhìn ông nằm dưới đất, đoạn Ngài dùng huệ nhãn nhìn thẳng tương lai, thấy sau đây nhiều kiếp, Sumedha sẽ đắc kỳ sở nguyện và trở lại thế gian này, thành một vị Phật, là Phật Gautama. Bởi vậy Ngài nói với Sumedha và các người chung quanh rằng: “Ông Sumedha nầy sẽ là một vị Phật và sẽ cứu nhân sinh”.
THỌ MẠNG
Sau khi lập nguyện rồi, biết bao thế kỷ đã qua, bao nhiêu Đức Phật xuống trần thuyết pháp, mỗi vị truyền cho đệ tử cái gia tài thiêng liêng để bồi đắp hạnh phúc cho nhân loại. Nhưng các Đức Phật này không phải do nhân loại của chúng ta mà ra. Thuở ấy chẳng có một người trong chúng ta dám đương nổi nhiệm vụ cao siêu ấy, nên các vị Phật đến ta là những vị Phật ở xa xăm tận dãy Kim Tinh và từ giới Thiên Thần lận. Nhưng thời kỳ đã đến, khi mà con người phải làm tròn phận sự một mình, và Đức Phật và Đức Bàn Cổ của nhân loại phải là những “Đóa Hoa Người” vậy. Ai sẽ là vị Phật đầu tiên, là Đóa Hoa lớn nhất trên cây Nhân Loại?
Lúc bấy giờ, chỉ có hai, trong ức triệu người, cao vời hơn tất cả về Từ Bi và bác ái: ông Sumedha và một Người nữa. Về sau, chúng ta rõ hai vị ấy là Đức Gautama và Đức Di Lạc, hay là Phật và Christ. Nhưng hai vị, thuở ấy, tuy có cao siêu đi nữa, cũng không ai dám đương nổi chức vụ nặng nề của một vị Phật giống thứ tư. Nếu chẳng ai đảm đương cho kịp, thì có lẽ thế gian phải khổ hạnh nhiều. Nhưng dường như khó lòng có đủ năng lực cho kịp thời, vì hai Ngài còn biết bao công việc phải làm, mà chỉ trong thời gian rất ngắn.
Rồi thì, Tiểu Hoa Nhi ơi, vì lòng thương em, thương tôi và thương cả ức triệu người như chúng ta mà Đức Phật nguyện: dầu phải gian nan đến thế nào, Ngài cũng thúc bách cuộc tiến hóa của Ngài, để đến khi cần có một vị Phật xuống thế gian an ủi lòng trần, thì sẽ có Ngài ở đấy. Kiếp này sang kiếp kia, Ngài lao khổ, đảm đương những công việc phi phàm. Này Tiểu Hoa nhi ơi, xả thân của Ngài thật vô tận, thành đạt của Ngài thật vô biên, đến đỗi các Bậc Đại Tiên, khi nói đến Bác Ái, Ngài đối với nhân sinh, hy sinh, Ngài phò độ quần chúng, cũng phải tôn sùng, kính phục, mến yêu. Cho nên trong hai Ngài cùng đồng một bậc tiến hóa xưa kia, một Ngài, Đức Gautama, được thọ mạng, còn đức Di Lạc cũng cùng đi với Ngài trở thành người giúp Ngài đắc lực hơn hết.
Qúa khứ
Cách đây hai ngàn sáu trăm năm, ông Sumedha được chứng quả Phật của Nhân Loại. Lúc ấy đất sinh trưởng của Ngài là xứ Ấn Độ, nên người ta gọi Ngài là Thái tử Siddartha giòng dõi Gautama. Nhưng khi nhiệm vụ đã xong, và khi được đắc quả Niết Bàn, Ngài tự gọi là Samana Gautama Như Lai(1)[2]. Trong tám mươi năm Ngài sống với Nhân loại, lần này là lần cuối cùng của biết bao nhiêu lần trước; trong bốn mươi lăm năm, Ngài thuyết pháp dạy người, yêu chúng sinh còn hơn người mẹ yêu đứa con một. Ngài dạy mọi người mọi cách, tùy theo trình độ hiểu biết của họ; với nhà Sư, với bậc thông thái, Ngài dùng văn triết lý cao siêu; với Chatta, đứa nhi đồng, thì Ngài lại dùng thơ nhi đồng mà dạy nó, để nó ngâm nga.
Khi thời kỳ từ giã cõi trần đã đến, Ngài bỏ xác phàm, và không còn luân hồi làm người nữa. Khi Ngài đi, Ngài giao lại cho người kế vị là Đức Di Lạc, Đức Từ Bi, Chúa cứu thế. Cái hạnh phúc của em, của tôi và hỡi Tiểu Hoa Nhi ơi, của cả sáu mươi ngàn triệu chúng sinh nữa.
Hiện tại
Mặc dầu vị Phật đại đức này đã từ giã trái đất ta và có đức Christ lãnh nhiệm vụ của Ngài, Ngài cũng không chịu bỏ chúng ta mà nhập vào cõi Niết Bàn cực lạc. Lòng hy sinh lớn nhất của Ngài để phổ độ chúng sinh vẫn còn hoài. Ngài đứng trước cửa Niết Bàn mà chờ em đó. Tiểu Hoa Nhi ơi, Ngài đứng trước cửa Niết Bàn mà chờ tôi và bao nhiêu triệu sinh linh khác, để cùng chung với Ngài mà nhập Niết Bàn cực lạc. Đứng trước ngõ, Ngài chờ bao nhiêu thế kỷ; Ngài để lại cho Đức Di Lạc và chư vị môn đồ cái tình thương huyền diệu của Ngài, hầu nhờ đó mà phổ độ chúng ta.
Tiểu Hoa Nhi ơi, cách đây đã 35 năm rồi, có hai vị Đại Đức, tức là Tay mặt, Tay trái của Đức Di Lạc lập Hội chúng ta(1)[3].Khi ấy Phật Ngài có hứa rằng: “Bao giờ trong Hội có được ba người trung thành với nhiệm vụ, thì ân huệ Ngài sẽ ban xuống. Nếu như thế thì, Tiểu Hoa Nhi ơi, em và tôi có thể là hai người trong ba vị trung thành ấy chăng? Khi Hội đã thành lập được 33 năm rồi, kỳ này chính Đức Di Lạc có hứa với ba vị hội viên ấy rằng: Một ngày kia, ba người cùng các hội viên khác sẽ lãnh nhiệm vụ lớn lao hơn, và Ngài sẽ ban ân huệ xuống luôn luôn, để giúp chúng ta làm phận sự. Tiểu Hoa Nhi ơi, còn chi vinh diệu bằng? Phải chăng lời hứa ấy đã thực hiện rồi?
VI LAI
Giờ đây hỡi Tiểu Hoa Nhi, hãy nhìn thẳng vào tương lai. Em hãy trông cái cảnh vật hương hoa (của chanh, cam) thơm ngát, mặt trời tươi sáng, với những lượn sóng thân yêu này tốt đẹp bao nhiêu! Đó là tiểu thiên đàng ở dưới thế gian, mà tôi và em đều ưa thích, nó đã hiện đến chúng ta trong những ngày vui vẻ này.
Đời trong sạch, tâm hồn ta mạnh dạn
Giữa Tương Lai và Dĩ Vãng cách xa,
Xưng lỗi rồi, Hiện tại mãi sáng lòa,
Cảnh Trời đấy, Tử thần đâu dám đến(1)[4]
(Đây là nguyên văn bài thi)
Betwixt the Coming and the Past
The flawlees life hangs fixen fast,
In one unwearying to day,
That darkens not; for sin is shriven,
Death from the doors is thrust away,
And here is Heaven.
Em đã thấy không, chung quy rồi thì mộng của đôi ta đã thành sự thật. Hỡi Tiểu Hoa Nhi, ngày nay tức là ngày Lập Nguyện của chúng ta, còn ngày mai tức là ngày Thọ mạng.
Này Tiểu Hoa Nhi, giờ đây em hãy nhìn tôi. Như thế tôi đã trao cho em tình thương của bà Chúa. Mà ai là bà Chúa? Ôi! Chỉ có vài người biết được mà thôi. Có lẽ một ngày kia, tôi phải nói cho em rõ sự bí mật này. Còn bây giờ đây, Tiểu Hoa Nhi ơi, em hãy mơ mộng đi. Vái trời phù hộ em trên các nẻo đường tiến bộ.
CHATTA VÀ ĐỨC PHẬT
Hỡi các em! Hãy lắng nghe tôi thuật một chuyện đời xưa. Cách đây hai ngàn năm trăm năm, bên Ấn Độ có một đứa con trai sinh trưởng tại một đô thị không xa thành Ba la nại (Bénares). Thuở ấy, một đứa con trai lối tám, chín tuổi xa cha mẹ để đi học, là một chuyện thường. Người vai chính trong chuyện tôi thuật đây là bé Chatta Mànavaka(1)[5].Khi đến tuổi đi học, cha em bé gởi em đến thọ giáo với một ông thầy ở tỉnh nọ. Chatta ở với thầy như người quyến thuộc. Hết giờ học nó phải quét lá khô, tưới cây nhỏ, dọn dẹp các lối đi trong vườn, hay lượm củi.
Học chừng một năm, tới kỳ bãi trường, Chatta bèn trở về nhà. Ngày tựu trường đến, nó phải trở lại với thầy nữa. Lúc ra đi, luôn luôn cha nó trao cho nó một túi vàng để làm lễ vật dâng cho thầy. Thuở ấy, học phí không có giá nhất định, vì sự hiểu biết là một việc tôn quý không thể lấy tiền mua được, nhân đó mới có sự tạ lễ thầy.
Chatta là một đứa con trai tốt, ham học. Nó thuộc lòng cả trăm bài thơ nói về Thần Thánh, căn cội và hành vi của các Ngài, nói về chiến công của Rama và con khỉ Hanuman, cùng mấy vị anh hùng khác. Nó cũng học nhiều chuyện ngắn dị kỳ, viết bằng thi thơ, về thú vật, tiếng nói và cử chỉ của chúng, giống như chuyện Mowgli và Baloo, chuyện Kaa và Bagheera.
Lúc bấy giờ, gần thành Bénares, có một bậc siêu nhân người ta gọi là Đức Thích Ca, Ngài vốn là một vị Hoàng tử, nhưng Ngài đã bỏ tất cả ngựa, vàng bạc, ngọc ngà, áo quần tốt đẹp và kẻ hầu hạ, để sống một cách đơn sơ như người nghèo khổ không có những đồ hoa lệ đó. Ngài mặc áo vàng, tay cầm bình bát đi xin người nhân đức bố thí, mỗi ngày, chỉ một bữa cơm. Lúc ấy, Ngài lối 45 tuổi, gương mặt phương phi và hiền lành, cặp mắt dịu dàng. Khi gặp Ngài, ai ai cũng phải ngạc nhiên kinh sợ, trước gương mặt kỳ diệu và đẹp đẽ của Ngài. Người ta thường gọi Ngài là một vị Phật, và Ngài đi đến đâu, quần chúng tụ lại đến đó, để lắng nghe lời giảng dạy. Ngài nói phải ăn ở làm sao cho được dễ thương và nhân từ, chớ hề giết hại một sinh vật nào, và chỉ thốt ra những lời chân chánh, dễ thương. Thiên hạ đã nghe nói như vậy nhiều lần trước rồi, nhưng chừng Phật giảng- (dẫu bằng cách nào)- lời Ngài nghe êm dịu hơn và rất dễ thực hành hơn.
Đức Phật Thích Ca thương tất cả chúng sinh, và luôn luôn tìm những ai cần giúp đỡ. Ngài biết có muôn vàn sinh linh đang đau khổ và cầu xin phổ độ mỗi ngày. Bởi vậy nên mỗi buổi sáng, trước khi khởi việc, Đức Phật ráng tìm người nào đáng cần sự giúp đỡ hơn hết trong ngày. Các vị Thiên Thần rất thương Ngài, và luôn luôn sẵn sàng làm theo ý muốn của Ngài.
Mỗi khi trợ giúp được Đức Phật trong việc phổ độ chúng sinh rồi, thì các vị Thiên Thần lấy làm sung sướng. Đức Thích Ca có nhiều phép Thần thông. Ngài thấy được những kẻ ở xa, đọc được tư tưởng người, biết được sự quá khứ, vị lai. Cho nên khi ai đến gần Ngài, Ngài đã rõ người ấy trong mấy kiếp trước sinh nơi nào, và trong kiếp tới sẽ đầu thai ở đâu.
Một buổi sáng kia, khi mặt trời vừa ló mọc, màn trời sắc vàng, đỏ tươi đẹp, chim bắt đầu líu lo, Đức Phật Thích Ca, như thường lệ, lấy huệ nhãn xem đời, để tìm ai là người đáng giúp đỡ hơn hết trong ngày; và Ngài thấy người đó chính là Chatta vậy. Hôm ấy, Chatta sau khi nghỉ học trở lại trường, mang theo túi vàng, là món quà của cha nó biếu thầy.
Nhưng Đức Thích Ca còn thấy xa hơn nữa. Ngài thấy Chatta bị quả báo chết yểu, và trên khoảng đường vắng, nó sẽ bị bọn ăn cướp xông đến giựt vàng và giết nó.
Thế thì Chatta sẽ chết! Nhưng không phải là chuyện khủng khiếp, bởi vì, các em ơi, các em biết rằng: chỉ cái xác của Chatta bị ăn cướp giết mà thôi, chứ thật sự, chúng nó không làm thương tổn được Chatta đâu. Khi cái xác tắt thở rồi, thì Chatta sẽ ở trong cái Vía nhỏ của nó, dĩ nhiên nó sẽ lấy làm lạ lắm trước sự xảy đến, và có lẽ nó sẽ khiếp sợ một tí thôi. Nhưng ngoài sự khiếp sợ này, nó không bị hại chi cả.
Bấy giờ, Đức Thích Ca muốn cho Chatta đừng có chút gì sợ sệt và trước cảnh chết, nó sẽ có những tư tưởng cao thượng và dễ thương, hầu sau khi bỏ mình, Chatta sẽ sống trên trời, tưởng nhớ đến Ngài và những điều tốt đẹp của Ngài dạy nó. Ấy là cách Ngài phổ độ Chatta vậy.
Ngài bảo mấy vị Thiên thần dắt Chatta đến Ngài. Vào buổi xế hôm ấy, Chatta được khiến đi ngang qua đô thị này, và cũng vì tính tọc mạch, nó muốn tháp tùng với quần chúng để nghe Đức Thích Ca thuyết pháp. Thế thì, trong đám thính giả nghe Phật giảng, có Chatta với túi vàng. Chatta mê man trước những tư tưởng mới của Phật, nên lắng nghe tất cả, không sót một lời. Khi Phật hết thuyết pháp rồi, nó không chịu dời chân theo quần chúng, nó còn nán lại, vì nó muốn nhìn Phật với cặp mắt đẹp của Ngài. Khi Đức Thích Ca không nhìn ngay nó, thì nó lại nhìn mặt Ngài một cách say đắm. Nó nhìn, cứ nhìn và nhìn mãi. Nhưng đôi khi Đức Thích Ca nhìn ngay nó, cặp mắt phi thường của Ngài khiến nó cúi đầu, lắng nghe chứ không nhìn nữa.
Chatta là một đứa con trai thuộc về hạng thượng lưu, có giáo dục đàng hoàng, nên khỏi sợ nó thất lễ. Nó còn nán lại, lặng lẽ, lắng nghe câu chuyện đàm thoại giữa đám đông.
Lúc bấy giờ quần chúng giải tán gần hết, Đức Thích Ca bèn gọi Chatta đến gần và hỏi nó hiểu bài thuyết pháp ấy chăng?
Chatta trả lời: “Bạch Phật con hiểu được một phần”.
Chatta có thể lập lại những lời nguyện trong bài thuyết pháp ấy chăng? Nó lập lại không được đúng, nên Đức Thích Ca nói lại, rồi nó lập theo như vầy:
“Tôi nguyện không giết hại một sinh vật nào”
“Tôi nguyện không lấy của người”
“Tôi nguyện giữ tư tưởng và hành vi của tôi được trong sạch”
“Tôi nguyện không nói dối”
“Tôi nguyện không hút thuốc hay uống rượu cùng các chất độc”.
Chatta lập lại mấy câu này, và nhờ trí nhớ dai, nên học qua một lần đã thuộc.
Rồi Dức Phật nói: “Này Chatta, con có muốn một ngày kia làm một vị giáo chủ, một người hướng đạo cho đời, và đưa đời đến nơi giải thoát như ta bây giờ không?”
Chatta là một đứa con trai nhỏ khôn ngoan, nó biết rằng: nếu nó quyết chí giống một người nào thì nó sẽ giống người ấy; dầu phải trải qua nhiều kiếp. Nếu kiếp này sang kiếp khác, mà nó còn giữ cái nhiệt vọng ấy, thì một ngày kia nó sẽ toại nguyện. Bởi thế nên nó bẻn lẻn nhìn mặt Phật mà bạch rằng:
“Bạch Phật, con muốn thế. Nếu một ngày kia, mà con giống được Ngài, thì tốt đẹp biết bao!”
Với nụ cười tươi tắn, Đức Thích Ca nói rằng: “Chatta, sáng mai này, nhân lúc con đến đây, con vừa đi vừa hát vang rân. Nếu ta cho con một bài hát, con có chịu hát thay bài của con chăng?”
Các em ơi, các em có thể tưởng tượng được câu trả lời của Chatta rồi! Nghĩ coi, một bài hát hay, một bài hát làm cho nó và chỉ riêng một mình nó thôi, thì quý thế nào!
Các em ơi! Đức Thích Ca cũng là một nhà thi sĩ đại tài, nên trong giây lát, Ngài đã đặt xong bài hát cho Chatta. Hiện giờ, bài hát này cũng còn ca lại bằng thứ tiếng xưa, mà Ngài dùng để thuyết pháp tại Ấn Độ. Tôi(1)[6] chỉ biết chút đỉnh tiếng ấy, và có một phần bài hát đó đã dịch ra tiếng Anh mà thôi. Ước chi tôi là một nhà thi sĩ, có thể viết nó ra thành một bài thi hay cho tất cả các em đều đọc được. Tuy nhiên, tôi cũng phải nói cho các em rõ ý nghĩa bài hát này. Hãy nhớ rằng: Chatta chỉ có 13 tuổi, nên bài hát phải thật dễ hiểu, và Đức Thích Ca muốn nó hát trong lúc nó đi với túi vàng.
Câu thứ nhất nói: “Ngày nào thành được một vị Phật, một vị Giáo chủ của Thần và của người, giúp đỡ cả thảy sống một cuộc đới cao quý, thì tốt đẹp biết bao!”
Câu thứ nhì nói: “Tốt đẹp thay sự Minh triết, nhờ nó mà các người được trong sạch, mạnh mẽ, khôn ngoan và dễ thương!”
Câu thứ ba nói: “Dưới trần này có một nhóm “Người Anh Cao Quý”, là những linh hồn đã đi trên đường Đạo, và tại làm sao khi trợ giúp được các Ngài, mấy người lại luôn luôn sung sướng?”
Những câu hát khác ca tụng sự tốt đẹp và sự phúc lạc của cõi trời, cùng các Thiên thần trên ấy dễ thương thế nào, và sau khi thác rồi, đời sống chung với các Ngài là hạnh phúc dường nào!”
Đó là một bài hát; và Đức Thích Ca cùng hát với Chatta, nên nó dễ nhớ. Chatta học rất nhanh, và khi học xong rồi, nó được phép lên đường đi nữa. Chatta chắp tay lại, để trên trán, xá xuống thật sâu. Thế là nó từ giã Đức Phật.
Bấy giờ các môn đồ nhà Phật, các vị La Hán, đoan nghiêm và đáng kính như Xá Lợi Phất (sâriputta), Mục Kiển Liên (Moggallâna), Ânanda cùng những người khác nữa, đều mục kích và nhớ câu chuyện này; và 35 năm sau, khi Đức Phật từ giã cõi trần, Ânanda có thuật và viết lại cách mà Đức Chí Tôn đã dạy và giúp một đứa nhi đồng.
Các em ơi, chẳng phải mỗi ngày, mỗi người chúng ta đều được hân hạnh đến trước mặt một vị cao cả như Đức Thích Ca đâu. Chatta đã chất chứa biết bao là thiện căn, nên mới được Ngài chọn lựa trong đám đông và được phổ độ như thế! Vậy chớ lấy làm lạ tại sao Chatta quá cảm kích và thu cả tâm hồn vào bài hát mới này. Qua ngày sau nó đi nữa; sung sướng và vui mừng nó ca rân bài hát đó, và nó đánh đưa túi vàng để lấy nhịp.
Rồi chuyện xảy ra y như Đức Thích Ca đã thấy trước. Đó là quả báo của Chatta, và trả cho rồi là tốt lắm. Trên khoảng đường vắng vẻ, những kẻ ăn cướp xông đến giết nó. Nhưng các em biết, thật ra, chúng nó không giết được Chatta đâu; chúng nó chỉ giết được cái xác thịt của Chatta mà thôi. Chatta lại không khiếp sợ trước tử thần. Nó đã chú hết tâm lực vào bài hát, nhớ tới Đức Thích Ca, và một ngày kia sẽ giống như Ngài; nó nhớ tới tất cả sự tốt đẹp của đời sống chung với Thiên thần. Chatta ở trong cái Vía vẫn là một với Chatta ở trong cái xác, và như không có sự gí làm cho nó khoái lạc bằng bài hát của nó. Liền đó, nó được siêu thăng, sống trên trời với các Thiên thần; nơi đây, Đức Thích Ca sẽ dạy nó thêm nhiều Chân lý mới lạ.
Thác chừng 30 năm, Chatta đầu thai lại thành Athènes. Khi khác, tôi sẽ nói cho các em nghe những việc làm mạo hiểm của nó dưới trần.
Hởi các em, đến ngày nay, tại xứ Phật, nam nữ học sinh, da sậm, lúc tan học, chấp tay hát ba câu đầu của bài hát mà Phật đã làm cho đứa bé (Chatta). Mấy năm qua, khi tôi còn là đứa học sinh, tôi cũng hát như vậy, đến năm sau này, tôi đã trưởng thành và làm một vị Giáo sư tại trường ấy, tôi cũng dạy học sinh hát bài hát đó, để tưởng niệm đến Chatta và Đức Thích Ca yêu thương của nhân loại.
AGADE
1.500 NĂM TRƯỚC CHÚA GIÁNG SINH.
_Này em trai, em hãy ngó xuống. Em thấy gì?
_ Biển! Biển! Một bà dang tay ra! Sóng biển kêu tôi đến gần bà.
_Em, em chớ đi đâu cả. Bây giờ ta hãy trông vào đồng nội. Ta ở xứ nào đây?
_Này là biển Lonienne (ở Hy Lạp). Không nơi nào có biển xanh như thế, phải không?
_Phải đó em! Đây là chỗ mà em và tôi ở thuở xưa. Hãy trông theo mấy chiếc tàu nơi cửa hòn và nhìn vào thành phố.
_Tàu gì ngộ thế? Các cánh buồm đều đỏ như vậy sao? Ta hãy đi vào đền thờ sơn trắng trên ngọn đồi kia.
_ “Khoan đã em”. Trước hết em có muốn thấy kiếp ấy, em thế nào không? Chúng ta hãy tìm em. Bây giờ em dòm đi. Em đang nói gì đó?
_Chà! Tôi biết tiếng bổn xứ! Đó là tiếng Hy Lạp. Tôi tên là Eurystheus. Cái tên lạ thật! Tôi chưa từng nghe nói bao giờ. Người ta thương tôi quá! Mẹ tôi dịu dàng làm sao! Tôi nhận ra người rồi. Lạ quá! Bây giờ tôi già hơn mẹ tôi lúc ấy. Tôi là con trai một; có phải sung sướng cho tôi được hai người chị dễ thương như thế chăng?
_Phải đó em. Em đã nhìn ra hai người chị rồi chăng?
-Thưa phải, mà tôi trìu mến người nhỏ hơn. Chị mỉm cười lúc ấy giống như bây giờ! Ồ! Mà Ngài cũng ở chung với chúng tôi nữa. Ngài hãy xem tất cả dân chúng đều trông vào ngài. Còn cha tôi đâu rồi? Phải chăng người tôn kính Ngài như bậc Sư Phụ?
-Phải! Cha em mến sự Minh Triết cũng như em, và cha em vẫn còn là đệ tử của ta. Em hãy xem vị hải quân Đại tá dị kỳ này; người đem từ xứ ta những quyển sách dâng cho cha em. Cha em có một cái thư viện lớn. Em tập mến sách nơi đây. Ta sẽ cho em thấy lúc em lớn tuổi hơn chứ?
-Cha tôi và tôi thường đến thăm Ngài tại đền thờ. Ngài ưu nhã với cha tôi quá! Và cha tôi sung sướng biết bao, khi Ngài ca tụng đứa con trai nhỏ của người! Tôi thích cái đền thờ trắng trên đồi. Còn cái đền thờ nào trong thành nữa đó? Phải chăng các vị tín đồ ấy không biết bà Chúa của chúng ta?
-Họ không biết đâu em. Họ không phải là người Hy Lạp; họ thờ Bà Thánh Đen, chứ không phải bà Chúa Pallas Athène, là bà Chúa Minh triết của chúng ta đâu. Nay em biết đền thờ của ta rồi. Vậy em thấy ai trong đó?
-Một người, hai người, còn nhiều nữa. Cô vũ nữ Sibyls bước oai vệ làm sao!
-Ủa, tại sao em cười?
-Bởi vì xưa kia cô cũng giống y như bây giờ. Khi mà trời đã ban cho cô lời nói thì lời cô trôi suốt như hạt chuỗi trân châu. Cô như thế mãi sao?
-Rất ít người được trời ban cho tài nói trôi chảy như thế. Mỗi người Trời phú cho một cái thiên tư. Cái thiên tư của cô là lời nói. Này, em xem nữa đi. Bây giờ em là một người đàn ông rồi.
-Có phải lúc nhỏ tôi tốt hơn chăng? Ta có thể giữ mình trong sạch như thuở bé chăng?
-Sự trong sạch vẫn ở mãi trong lòng, em à. Em đừng quên…Ủa, sao đó em? Tại sao em buồn?
-Kìa! Trong đền thờ! Bà Chúa! Bà chúa của chúng ta! Ôi! Tôi yêu bà quá! Ngài xem kìa, Bà sáng lòa và mỉm cười! Bà gọi tôi, mà tôi đến không được.
-Em ơi! Em hãy đợi đúng ngày giờ mới được đến gần Bà. Em còn phải làm việc cho Bà và cho các con Bà nữa. Em không được đi. Bà là sự Minh triết của người đời. Trước khi đến gần Bà, em phải tập thương Bà bằng cách thương nhân loại.
-Mà tôi có thể sắp thấy Bà lần nữa chăng? Chỉ thấy lại một tia sáng của Bà được chăng? Ôi! Tôi phải sống với sự tuyệt vọng này sao?
-Nắm tay ta nữa đi, em…Bây giờ em thấy được hân hoan chăng?
-Dạ thấy!
-Em ơi! Bàn tay này thuộc về em mãi…Bây giờ em hãy nhìn nữa đi. Đời sống của em đã đến giờ cuối cùng rồi.
-Tôi chỉ sống được có hai mươi bảy tuổi sao? Chết như thế là tốt nhỉ? Nghĩ tôi chết tốt như vậy là chuyện đáng mừng. Mà Ngài và tôi cùng cả dân chúng trong thành đều bị giết sạch. Phải chúng nó đông hơn chúng ta nhiều quá chăng?
-Dân dã man ở bên đồi kia đến quét sạch chúng ta, và phá hủy thành phố. Em chống cự mãnh liệt để cứu chúng tôi trong đền thờ, để cứu cha em, mẹ em và chị em. Ta cũng bị giết nốt, nhưng liền đó, ta lấy xác một ngư ông. Ngư ông bị chết đuối, cái xác chưa hư, ta mới nhập vào. Bây giờ ta lại viễn du ở Á Đông. Này em, hãy xem coi em tái sinh tại chốn nào?
-Bên Ấn độ, và kìa sông Gange linh thánh của chúng ta đấy
-Phải đó em! Và em là Chatta vậy.
VUA WENCESLAS NHÂN TỪ
Hỡi các em, các em có nghe nói về vua Wenceslas nhân từ chăng? Cách đây một ngàn năm trước, Ngài là một vị vua tại xứ Bohême, nay người ta tôn Ngài là bậc Thánh và cũng là một vị Tuẩn nạn nữa (Martyr). Ngày 28 tháng 9 tức là ngày lễ của Ngài. Tánh Ngài can đảm, công bình, khiết bạch và ưa súng bái Thánh thần. Trước khi vua Wenceslas thăng hà, có xảy ra nhiều chuyện lạ chỉ rằng: nhờ sự trong sạch và thành tín của Ngài mà nhiều người khuất mặt đến thi hành mạng lịnh Ngài.
Một ngày kia, trước lễ Phục Sinh (Noel), vua Wenceslas ra lịnh cho sĩ quan và nội thị rằng: “Trong những ngày lễ, người nào cũng phải có đủ củi và lương thực; tất cả kẻ nghèo nàn, côi cút sẽ được kho vua cung cấp đủ sự nhu cầu”. Nhưng lịnh Ngài không được thi hành chu đáo, và sau ngày Phục Sinh, nhằm lễ Thánh Stephem, có xảy ra một chuyện như sau đây:
Có một bài ca rất hay viết bằng tiếng Anh xưa, thuật chuyện như vầy:
Lễ Tep-Phang, nhằm khi trăng tỏ,
Tuyết đông sa, sương gió lạnh lùng.
Vua hiền dựa cửa hoàng cung,
Thánh vương Xết-Lắt(1)[7] xem cùng thế gian,
Ngày đại lễ khắp tràn trong nước
Lộc vua hiền ban phước lê dân.
Mắt nhìn trăm họ an thân
Bỗng đâu lại gặp nạn nhân khốn cùng.
“Người nào kia, Thị đồng con hỡi,
Đêm lạnh lùng hái củi rừng sâu?
Mùa đông tuyết trắng làu làu
Người này sao lại sót màu hoàng ân?
“Tâu thánh thượng: là dân nghèo khổ,
Nhà ở gần cách độ dặm đàng
Thánh tuyền Ta niết (St.Agnes) tuôn tràn,
Chảy quanh chân núi chí đàng rừng thưa”.
“Vậy thời con hãy đưa thịt, rượu,
Cùng củi thông, mỡi thứ cho ta
Cùng nhau ta hãy xông pha
Cho người ăn uống, mặc dầu tuyết sương”.
….Rồi vua tôi lướt sông gió lạnh,
Mây mịt mù lần ánh trăng thanh
Sương dầm,tuyết phủ lòng thành
Nhưng vì rét quá, dồng dành củi thưa
“Tâu Thánh thượng , đêm khuya càng tốt
Rét như vầy, gió thổi rụng rời!
Bước đi nửa bước lại thôi
Tấm lòng bang giá, vậy thời làm sao?”
“Thị đồng hỡi, con mau nghĩ lại
Tội nghiệp người nghèo phải khổ thân
Con nương dấu gót đi lần
Theo ta thẳng tới giữa cơn lạnh lùng
Rồi con sẽ bớt con run
Tấm lòng từ thiện, ấm lòng giá đông!”
Nghe Thánh thượng, Thị đồng giác ngộ
Động lòng nhân, tiến bộ lẹ làng
Nhờ tình bác ái thấm tràn
Với lòng hang hái, rõ ràng thành công
Người Tô giáo (Gia tô giáo) tấm lòng an tĩnh
Nên chắc rằng: “Ai tính độ đời,
Của công bố thí cho người
Khó hèn, no ấm, phúc trời sẽ ban!
Đây là nguyên văn của bài ca ấy:
Good King Wenceslas looked out,
On the feast of Stephen,
When the snow lay round about,
Deep, and crisp, and even.
Brightly shone the moon that night,
Though the frost was cruel,
When a poor man came in sight
Gathering winter fuel
“Hither, page and stand by me,
If thou know’st it, telling,
Yonder peasant, who is he?
Where and what his dwelling
“Sire, he lives a good league hence,
Underneath the mountain;
Right against the forest fence,
By Saint Agnes’ fountain”
“Bring me flesh, and bring me wine,
Bring me pine- logs hither
Thou and I will see him dine,
When we bear them thither.”
Page and monarch forth they went,
Forth they went together;
Through the rude win’d wild lament,
And the bitter weather.
“Sire, the night is darker now,
And the wind blows stronger
Falls my heart, I know not how,
I can go no longer”
“Mark my footsteps, my good page,
Treat thou in them holdly;
Thou shat find the winter’s rage
Freeze thy blood less coldly”.
In his master’s steps he trod,
Where the snow lay dinted;
Heat was in the very sod
Which the saint had printed.
Therefore, Christlan men, be sure,
Wealth or rank possessing
Ye who now will bless the poor,
Shall yourselves find blessing.
Thế thì các vị Thiên thần đã giúp vua Wenceslas nhân từ làm tròn việc phước thiện bằng cách hơ ấm chân Ngài và làm cho thị đồng lướt nổi cơn lạnh lẽo.
Vào năm 938, vua Wenceslas bị em ngài là Boleslas giết chết. Vì chết yểu, nên Ngài ở trên trời không lâu. Ngài đầu thai lại nữa. và cách đây 14 năm tôi có gặp Ngài. Lúc ấy Ngài là đứa nhi đồng phương phi tâm tính dễ thương. Kiếp này Ngài không đầu thai vào dòng vương giả, mặc dầu quả báo đặt để Ngài làm tên Thị đồng ở tại triều đình, bên cạnh vua chúa. Từ đấy tôi không còn gặp Ngài nữa; và nay tất nhiên Ngài đã trưởng thành rồi(1)[8].
Ta hãy cầu xin kiếp này ngài trường thọ hơn, và thinh danh Ngài sẽ lưu hậu thế, chẳng những trong đạo Gia Tô sẽ xem Ngài như bậc Thánh mà cả và thiên hạ sẽ xem Ngài như vị cứu tinh.
TIỂU LỮ HÀNH
Khi, đến tuổi trưởng thành, chúng ta ngó lại thời kỳ ấu trĩ thì sẽ thấy mình đã làm nhiều điều mà hôm nay rất hổ thẹn. Xưa kia chúng ta thể nào, thì nay các em cũng thể ấy. Ngày nay các em làm nhiều chuyện nhỏ mà về sau các em sẽ không làm được và sẽ hối hận. Vậy tốt hơn là tất cả thanh niên hiện giờ chớ làm như vậy. Hầu hết những hành vi lúc còn bé đều không xứng đáng vì thuở nhỏ chúng ta xấu thật. Chúng ta hành động phần đông đều do vọng tưởng. Mà:
Vọng tưởng tạo ra sự xấu hèn,
Dục tình cũng thế có gì hơn.
(Evil is wrought by want of thought,
As well as want of heart)
Đây là bằng cớ mới xảy ra trước mắt tôi, tại châu thành Taormina ở xứ Sicile. Bạn tôi và tôi đến đó nghỉ vài tháng mùa đông. Nơi đây trong một cái quán trọ nhỏ nhất, có một người đàn ông khờ khạo giúp việc. Tuổi độ 40, người ấy chỉ làm được có một việc dễ là: xách nước tại giếng chung với một cái thùng. Mỗi ngày mười hai bận, y vác thùng trên vai, đi đi, về về, từ quán trọ tới giếng nước; nhờ vậy mà y mới có chỗ ở và có cơm ăn.
Các em tưởng rằng: ai thấy y cũng đều thương hại; nhưng có lẽ là một số ít thôi; chứ phần đông đều chế nhạo y. Đó cũng là một cách làm ác, mặc dù là vô tâm thật. Tôi để ý đến trẻ con tại chỗ chọc ghẹo y. Một khi kia, chúng tôi đi ngang qua giếng nước, thấy trẻ con đang quấy phá người khờ ấy. Tội nghiệp, y xoay mặt ngó chúng tôi- là khách du phương- ra dáng cầu xin che chở. Tôi biết tiếng Ý, nên tôi la trẻ ấy được. Nhưng tôi phải la nhiều lần như thế, trong lúc tôi ngự tại đô thị này.
Tôi tin rằng: Các trẻ ấy không có ác ý, chúng tưởng rằng mình chế nhạo chút đỉnh như vậy là hợp pháp; nhưng sự này làm cho tôi nhớ đến câu chuyện đã xảy ra từ lâu ở Ấn Độ. Tôi sẽ thuật cho các em một chuyện dịch trong sách xưa cho các em hiểu rằng: tại sao một việc ác vô tâm, mà chúng ta cho là nhỏ mọn, lại có thể gây ra cái kết quả khủng khiếp, cho ta và cho người.
Thuở Đức Phật ra đời, có hai anh em tên là: Đại lữ Hành và Tiểu Lữ Hành. Chúng có tên kỳ lạ ấy là vì sự ngẫu nhiên cả hai đồng sinh lúc mẹ đang đi xa. Bởi hai anh em không sinh tại nhà mà sinh dựa lề đường, nên người ta đặt tên một cách tự nhiên là “Lữ Hành”, nhưng muốn phân biệt đứa lớn, đứa nhỏ người ta thêm vào chữ lót “Đại” và “Tiểu”.
Khi Đức Thế Tôn đến gần nơi phụ cận miền Bắc Ấn Độ thuyết Chánh Đạo của Ngài, thì Đại Lữ Hành đến nghe Ngài giảng, và được Ngài thâu nhận làm đệ tử. Liền sau khi đó, Tiểu Lữ Hành nghe anh khuyên bảo, mới mặc áo vàng và đi theo Phật.
Mà, nói ra thật kỳ lạ, hễ bàn đến điều gì thuộc về tinh thần thì Tiểu Lữ Hành lại tỏ ra khờ khạo. Anh không thể nhớ và định trí để tham thiền. Anh ráng học thuộc lòng bài thi hay nói về Đức Phật. Còn có bài thi nào giàu hứng thú hơn để giúp anh nhớ cho bằng bài nói về Đức Phật mà anh đã được biết. Nhưng anh cũng không thuộc!
Kìa như sen nở buổi rạng đông,
Thanh hương ngào ngạt, nực nồng khắp nơi.
Quang vinh Đức Phật rạng ngời,
Ví như mặt nhật vòm trời sáng choang!
(Lo I like a fragrant lotus at the dawn,
Of day full blown, with virgin wealth to scent, forth,
As in the caulted heaven beams the sun!”
Nhưng hễ Tiểu Lữ hành học hàng này thì quên hàng khác. Tội nghiệp thay, ráng học trong bốn tháng có một bài thi này, mà không thuộc. Anh sẽ không ngã lòng và sẽ cố gắng nữa, nếu người anh của anh không xen vào. Đại Lữ Hành rất hổ thẹn vì em mình, rồi kết luận rằng: Tiểu Lữ Hành làm ô danh Thánh Hội Áo Vàng. Đoạn một đêm kia, Đại Lữ Hành nói với em một cách nhẫn tâm rằng: “Tiểu Lữ Hành phải ra khỏi Giáo Hội và đừng mong làm đệ tử Phật nữa”. Tiểu Lữ Hành biết mình ngu độn, nên vội vàng tin anh nói đúng, bèn nhất định sáng mai bỏ áo vàng, trở lại làm người thế lần nữa.
Nhưng chuyện không thể xảy ra như vậy được, bởi vì Đức Phật cũng như thường lệ, lúc rạng đông, dùng phép thần thông xem xét nhân gian, coi người nào cần hỗ trợ hơn hết trong ngày. Ngài thấy người ấy là: Tiểu Lữ Hành, cũng như buổi rạng đông kia, Ngài đã thấy Chatta vậy. Ngài thấy: Tiểu Lữ Hành nhất định không tìm Chân lý nữa. Mà Ngài lại còn thấy số của anh buộc anh phải thành công, dù trí óc cạn hẹp. Đây là cách mà Phật hóa độ Tiểu Lữ Hành.
Trước khi Tiểu Lữ Hành lên đường, Đức Phật đi đi , lại lại chỗ anh phải đi ngang qua. Phút chốc, Tiểu Lữ Hành đã đến, anh thấy Đức Phật, bèn lại gần thi lễ.
Đấng Tôn sư hỏi; “Con đi đâu đó, Tiểu Lữ Hành?”
Tiểu Lữ Hành bạch rằng:
-Bạch Phật, anh con trục xuất con ra khỏi Giáo Hội, và con đang đi đây.
Tiểu Lữ Hành còn bày tỏ rằng: mình bị anh trục xuất ra khỏi Hội Tăng già vì tham thiền không được.
Đức Phật lấy làm thương hại cho anh. Ngài nói: “Tiểu Lữ Hành, con hãy cùng ta dừng bước.”
Đoạn Ngài dắt anh đến trước hương phòng của Ngài; Ngài dùng phép lạ làm ra một mảnh áo trắng, rồi trao cho anh mà rằng:
“Con hãy quay mặt ra hướng Đông, cầm áo này rồi lập lại như sau:
“Diệt trừ ô trược, diệt trừ ô trược”.
Nói rồi, Đức Phật sang qua nhà ông Jivaka là người ngoại đạo, có dạ tín thành, đang chờ Ngài.
Tiểu Lữ Hành với tấm the hướng về phía mặt trời, làm y như lời Phật nói, anh cuốn tròn cái áo trắng tinh ấy, và áp trong lòng (hai) bàn tay, rồi lập lại luôn miệng rằng: “Diệt trừ ô trược”. Làm như vậy trong một lát, anh nhận thấy cái áo, vì dính nơi tay, không còn trắng trong, tinh anh như trước nữa. Sự công nhận nhỏ mọn này, khiến dòng tư tưởng của anh rung chuyển. Như một sự huyền diệu: anh thấy mình có thể tham thiền được. Một cái chân lý vĩ đại hiện trong trí anh, anh bèn nói rằng: “Chính mới đây, mảnh áo này trắng tinh, nhưng tại phàm nhân tôi làm mất bản tính của nó và làm cho nó lấm dơ.”
Đức Phật đang ở tại nhà ông Jivaka, nhờ phép thần thông mà biết rằng: Tiểu Lữ hành, dẫu trước kia khờ khạo, nay đã biết tham thiền đúng cách và đã phát giác được một điều quan trọng. Rồi Ngài liền hiện đến trước mặt Tiểu Lữ Hành, ngồi trên không trung và nói với anh như sau:
“Ớ Tiểu Lữ Hành! Con chớ quan tâm đến mảnh áo tầm thường này đã hóa ra dơ, lấm; trong người con có những sự ô trược của dục vọng và các tật xấu khác. Con hãy diệt trừ chúng nó đi.”
Thế, Đức Phật đã dạy người khờ biết tham thiền và phân biện những tư tưởng cùng hành vi dữ, lành. Ngài còn cho biết thêm rằng: Cái trường hợp của Tiểu Lữ Hành là cái trường hợp thích lệ vì nó thường xảy ra trong đời. Đức Phật cắt nghĩa cho các thính giả tại nhà ông Jivaka rõ: vì sao Tiểu Lữ Hành tham thiền không được, nhưng một lát, lại biết suy gẫm cặn kẽ và rõ ràng.
Đức Phật thuật lại hai kiếp trước của Tiểu Lữ Hành. Trong một kiếp, Tiểu Lữ Hành là một vị vua. Bữa kia vua ngạc nhiên thấy mảnh áo trắng mình bị ố vì có tay sờ vào. Ngài mới đâm ra suy nghĩ và biết rằng: tâm tính con người trở nên xấu là do những ý tưởng xấu vụn vặt, vụn vặt cho đến đỗi không ngờ có kết quả gì ở tương lai. Trong kiếp sau này, Tiểu Lữ Hành có chế nhạo và mắng nhiếc một người đang ráng sức tham thiền mà không được. Tội nghiệp cho người đó, vì lời nhạo bang của Tiểu Lữ Hành mà bấn loạn; rồi trong cơn thất vọng y bỏ tham thiền; vì vậy y trở nên xấu thêm. Đó là do cái ác của Tiểu Lữ Hành. Tiểu Lữ Hành phải trả quả hai tội ác này; tại anh mắng nhiếc người khờ, nên anh tái sinh làm người khờ, hầu trong khi đau khổ, anh tập có cảm tình với những kẻ khờ khạo. Một khi trả hết quả này, anh mới trở lại trạng thái thật của anh là: người có thể tham thiền được. Biết Tiểu Lữ Hành đã trả quả xong, Đức Phật mới giúp anh trở về trạng thái thật, bằng cách làm cho anh nhớ phương pháp tham thiền kiếp trước của anh. Vì vậy, Đức Phật mới làm phép hóa ra cái áo trắng, rồi bảo anh lập đi lập lại “Diệt trừ ô trược”.
Trong đời có một cái luật vĩ đại là: gieo giống nào thì gặt giống nấy. Bên Ấn Độ gọi cái Luật ấy là Luật Nhân Quả. Tội nghiệp người khờ ở Taormina! Y đang gặt cái quả buồn đau của tội ác kiếp xưa, mà y đã gây, khi chưa đầu thai làm người khờ khạo kiếp này. Quả xấu làm cho y đau khổ; nhưng chúng ta không ai được phép làm tay sai cho quả xấu để đem sự đau khổ cho y. Đức Chúa nói rằng: “Sự sỉ nhục cần phải đến, nhưng khốn cho ai là kẻ đem sự sỉ nhục này!”.
(It must needs be that offences come; but who to that man by whom the offence cometh).
Khi mãn kiếp đau thương, và đến lúc “từ trần”, như người ta nói, thì người khờ đã trả quả xong, và trong kiếp tới anh có thể cảm thông được những người sống lân cận anh vậy. Anh cũng sẽ tập khống chế và sửa chữa mình một chút, khi những tính thô ác trở lại.
Cái luật nhân quả ấy cũng ứng dụng với ta nữa. Ta là những linh hồn tiến hóa hơn người khờ ở Taormina. Ta gieo giống nào thì sẽ gặt giống nấy. Nếu ta không biết sử dụng sức khỏe, tiền của, uy quyền cùng trí tuệ mà quả báo đưa đến cho ta ngày nay, khiến cho ta ăn ở độc ác hay bất công với kẻ khác, thì trong tương lai sẽ bị đau khổ. Và trong lúc ta chịu đau khổ để trả quả, ta làm mất cơ hội may mắn, để hưởng hạnh phúc và tiến hóa vậy. Nếu ta không thận trọng mỗi tư tưởng, lời nói và hành vi, thì sự việc này có thể xảy đến cho ta cũng như nó đã xảy đến cho Tiểu Lữ Hành khờ khạo kia vậy. Và có thể, ta sẽ không được gần Đấng Chí Tôn từ bi và hiền lành để giúp ta sống lại cuộc đời chân thật của ta như các linh hồn xinh tươi và khả ái.
CON BẠCH TƯỢNG CON
Thuở xưa, khi vua Brahmadatta trị vì tại Bénarès, có một làng thợ mộc nọ không xa châu thành. Trong làng có năm trăm người thợ. Họ quen đi ghe lên miền thượng lưu, đến cụm rừng kia đốn gỗ làm vật liệu cất nhà. Họ làm gỗ để cất nhà một tầng, hoặc hai tầng, và họ ghi dấu liền trên cây nào dùng làm cột v..v…Xong rồi, họ đem đà chất xuống ghe đậu dưới sông; khi ghe đầy, họ chèo xuống miền hạ lưu, đến châu thành bán gỗ cho người cất nhà. Khi được tiền, mấy người thợ mộc này lại trở về miền thượng lưu, chốn cũ, để đốn gỗ làm nhà nữa.
Họ sinh kế bằng cách ấy; khi họ dựng trại và rào rồi, họ mới ra ngoài đốn gỗ. Bấy giờ, gần đấy có một con voi đạp phải gai keo xiêm rất nhức nhối, cẳng sưng lên và đọng mủ. Tội nghiệp con voi ấy đau đớn vô cùng, nhưng khi nghe tiếng đốn gỗ, nó bèn nghĩ thầm rằng:
“Nếu tôi đi lại mấy người thợ mộc này, họ sẽ giúp tôi nhẹ bớt đôi phần”. Đoạn nó nhảy ba chân đến gần mấy người thợ mộc, rồi đứng bên cạnh họ. Vừa thấy chân voi sung và cây gai đâm vào, mấy người thợ mộc mới dùng lưỡi rìu bén khoét một lỗ tròn chung quanh gai, rồi lấy dây cột giựt. Khi gai ra rồi, họ nặn mủ và rửa vết thương với nước nóng; đoạn lấy cỏ thuốc xức vào; ít lâu thì vết thương lành.
Khi bớt đau, con voi mới nghĩ rằng: “Mấy người thợ mộc này đã cứu mạng tôi, vậy tôi phải đền ơn người”.
Liền đó, nó giúp các người thợ mộc nhổ cây, và khi cây đã hạ, nó lăn giùm và tìm hộ búa cùng những khí cụ khác; nó lấy vòi quấn các vật ấy kéo đi như vị tử thần hung tợn. Tới bữa ăn, năm trăm người thợ mộc, mỗi người cho nó một miếng.
Rồi con voi ấy sinh một con voi đực, một con voi chúa con trắng nõn nà. Nó bèn nghĩ rằng: “Tôi già đây rồi, tôi phải để con trai tôi làm việc thế cho tôi, rồi tôi phải đi”. Nghĩ trong trí như vậy, nó bèn vô rừng, không cho ai biết, và khi trở về, nó dắt con theo, đoạn nói với mấy người thợ như vầy:
“Con voi này là con trai tôi; các ông đã cứu mạng tôi, vậy tôi xin biếu nó cho các ông để đền ơn săn sóc; ngay bây giờ, nó sẽ bắt đầu làm việc”. Đoạn con voi cái nói với con rằng: “Từ nay con phải làm công việc của mẹ đã làm”.
Thế rồi, voi mẹ đem con cho người, rồi vô rừng, khuất dạng.
Từ đấy, voi con vâng lịnh người và làm bổn phận nó. Còn người nuôi nó với năm trăm miếng đồ ăn. Khi hết việc, nó xuống sông chơi giỡn, rồi lại trở về. Con của mấy người thợ đeo vòi, đuôi, cẳng nó, và chơi giỡn với nó dưới nước và trên bờ.
Bấy giờ Hoàng đế tại Bénarès nghe tin con bạch tượng này, Ngài muốn chiếm nó, bởi vì bạch tượng cực kỳ hiếm có. Nên Ngài cùng quần thần đi ghe vô làng thợ mộc. Con voi đang đùa giỡn dưới sông, nghe tiếng trống, nó liền chạy về. Mấy người thợ mộc đang đi nghinh giá; họ tâu rằng:
“Muôn tâu Hoàng thượng: Nếu có phải vì chuyện gỗ, thì Hoàng thượng đâu lại ngự giá đến đây? Ngài sai người đến cũng được rồi!”
Nhà vua đáp: “Các ngươi ơi! Hãy an lòng. Trẫm không có vì gỗ mà đến đây đâu, chính trẫm vì con voi này.”
Mấy người thợ mộc nói: “Muôn tâu Hoàng thượng, Xin Hoàng thượng vui lòng thâu nó và đem nó về với Ngài.”
Nhưng con voi nhỏ không chịu đi.
Nhà vua mới nói với nó: “Mi muốn cho ta phải làm chi cho vừa?”
Con voi tâu rằng: “Muôn tâu hoàng thượng, xin Ngài vui lòng đánh giá tôi và trả tiền cho mấy người thợ mộc.”
Vua nói : “Được”. Rồi Ngài ra lịnh cho tùy tùng chất một triệu đồng ru bi (roupies) thành một chồng cao từ đầu chí đuôi con voi.
Như thế mà con voi cũng không chịu đi. Người ta mới cho mỗi người thợ hai cái áo dài, cho vợ họ vải may y phục và cho mỗi đứa con nít chơi với nó một món quà riêng.
Bấy giờ con voi cứ nhìn đi nhìn lại mãi mấy người thợ mộc và vợ con người, rồi mới chịu dời chân theo vua.
Nhà vua dắt voi vào thành. Thành vua và các chuồng voi đều trang hoàng đẹp đẽ; mình voi lại phủ khảm đẹp. Nhà vua xức dầu thánh nó, và để riêng nó cho Ngài cỡi mà thôi. Ngài xem nó như một người bạn, như bậc vương giả, và chia hai thiên hạ cho nó.
Từ khi con voi về với vua, thì vua nắm trong tay tất cả quyền hành của xứ Ấn Độ. Thuở đó, Đức Bồ Tát (là vị Phật tương lai) đầu thai làm con của Chánh hậu; nhưng vua thăng hà, trước khi thấy mặt con ra đời. Bấy giờ, nếu con voi biết được vua thăng hà, thì tấm lòng nó sẽ tan nát, nên không một ai cho nó hay và cứ săn sóc nó như thường lệ.
Lúc ấy vua Kosala ở láng giềng, vừa bghe tin này, liền hô to rằng: “Nước không vua! “, đoạn cử đạo binh tiến đến bao thành. Nhân dân đóng cửa thành và trao thông điệp cho vua Kosala như vầy:
“Chúng tôi đang chờ sinh Đông Cung Thái Tử; nếu trong bảy ngày nữa, mà Đông cung ra đời thì chúng tôi sẽ giao chiến với Ngài; bằng Công chúa ra đời thì chúng tôi xin đem xã tắc mà dâng cho Ngài. Vậy bảy ngày nữa, Ngài hãy lại đây.”
Vua kosala nhận lới và nói: “Được”
Qua ngày thứ bảy, Thái Tử ra đời; nhân dân mới nghinh chiến với vua Kosala. Nhưng vì không người cầm đầu, nên trong lúc giao chiến, đạo binh tuy lớn, mà phải lui dần. Các quan mới tâu với Hoàng hậu rằng: “Muôn tâu Mẫu hậu, nếu chúng ta rút lui như vầy, chúng ta e không khỏi bị thất trận. Con voi chúa là bạn của tiên vương không hay Ngài thăng hà, không biết Đông cung đã ra đời và vua Kosala đang khởi chiến với chúng ta. Xin Mẫu hậu cho phép chúng tôi nói cho nó rõ”.
Hoàng hậu y tấu, rồi mặc đồ cho Hoàng Tử, để Ngài lên gối lụa, và bước xuống cung điện có các quan theo hầu. Hoàng hậu lại chuồng voi, để Ấu hoàng dưới chân voi và nói rằng:
“Ngài ôi! Bạn Ngài đã thác rồi! Chúng tôi không cho Ngài hay, sợ Ngài đau khổ. Đây là con trai của bạn Ngài. Vua Kosala đã đến vây thành và khiêu chiến với con tôi. Đạo binh ta đã rút lui. Vậy hoặc giả, Ngài tự giết con tôi, hoặc giả Ngài dành lại giang sơn cho nó”.
Con voi bèn lấy vòi vuốt ve Ấu chúa, rồi cuốn Ngài đưa lên trán, vừa khóc vừa la. Đoạn nó để Ấu chúa trong tay Hoàng hậu, và rống lên rằng: “Tôi sẽ bắt vua Kosala”. Đoạn nó ra khỏi chuồng.
Các quan nai nịt chiến giáp cho voi, trang điểm nó và ra mở cửa thành, thẳng đến chiến trường. Con voi xông ra khỏi thành, rống lên inh ỏi, giáp chiến với giặc, nó nhảy bổ vào trận, làm tán loạn hàng ngũ của quân nghịch.
Đoạn nó túm đầu vua Kosala, bắt để dưới chân Ấu chúa. Nhiều người nhảy tới giết vua, nhưng nó cản lại và nói với vua như vầy:
“Kể từ nay, Ngài hãy giữ mình, chớ để trong đầu cái ý nghĩ rằng: “Chúa của Ngài chỉ là một đứa bé”. Cảnh cáo xong, nó bèn thả vua Kosala.
Từ đó về sau, tất cả quyền hành xứ Ấn độ đều thuộc về tay Bồ tát và không có kẻ nghịch nào dám khai chiến với Ngài. Đúng bảy tuổi, Đức Bồ Tát được tôn vương, trọn đời, Ngài trị vì công bình và lúc thăng hà, Ngài lên Trời.
CON MÈO CỦA TÔI
Tên nó là Ji; nó là con mèo cái thuộc về loại mèo thường hoặc là loại mèo để xem chơi. Khi tôi gặp nó, một buổi sáng mùa đông, tại châu thành Luân Đôn, trong cơn rét mướt, tôi có dè đâu nó sẽ đóng một vai tuồng quan trọng trong đời tôi gần mười năm. Chúng tôi đem nó vô nhà vì nó đói thật. Trong cũi chúng tôi không có thịt vì bạn tôi và tôi đều trường trai cả. Tôi mới đi mua một hào “thịt cho nó”. Cho ăn xong, chúng tôi bắt nó bỏ ra ngoài. Lúc ấy chúng tôi ở trong phòng trọ, cho nên chúng tôi, dẫu có muốn lắm đi nữa, cũng rất khó mà chứa một con mèo.
Chiều lại, con mèo ấy đến nữa, nó đòi vào phòng. Tôi định để nó ở với một gia đình nào, đã dọn nơi khác, bỏ nó lại tự lo lấy, đó là một chuyện thường xảy ra.
Thế, nên con mèo đến ở với chúng tôi. Mấy năm sau, tôi nghĩ rằng: đó cũng do nhân duyên đưa đến. Về mặt thiết thực thì ban sơ nó đã mến tôi hơn bạn tôi, có lẽ tại tôi ở nhà thường hơn. Nó là người thứ ba của “tiểu gia đình” chúng tôi. Tôi đặt tên nó là “Ji”. Ji là danh từ vinh dự của xứ Ấn Độ để gọi ông hoặc bà.
Ở chẳng bao lâu, mà nó đã thích đi dạo với chúng tôi. Ban đầu, hễ tôi đi chỗ nào gần, thì tôi mới dắt nó theo. Chiều lại, khi chó đã bị nhốt rồi, tôi cầm gậy to để bảo vệ nó. Thật ra, nếu nó gặp chó không mấy lớn, thì chính nó tấn công trước. Đó là một tật xấu của nó, mà tôi trừ không được. Ở miền ấy, nó theo tôi vô rừng, bận đi và bận về, xa lối một phần tư dặm đường. Cẳng yếu nhỏ của nó đôi khi bị đau xốn, tôi phải vác nó lên vai, một lát. Quả nhiên, tôi đi đâu, con mèo cũng cố nài đi theo cho được. Lắm khi tôi phải lánh mặt và trốn nó, mà luôn luôn tôi thấy nó ngồi trong vườn, trên đầu tường nhìn ra ngoài. Nó tập chạy lại tôi theo tiếng hút gió của tôi, nhưng nó không hề vâng lời. Nó chỉ biết dụ tôi đi chơi nữa, hoặc ra dấu chỉ món gì, khi nó cần.
Có lẽ chính lúc tôi đi vào trường trung học là lúc con mèo đóng vai chính trong đời tôi. Luật trường cấm dẫn chó theo, chứ không cấm dẫn mèo. Mỗi bữa tôi dẫn nó theo, vì nếu tôi đi đâu thì dường như nó khô héo. Ngoài tôi ra, nó còn thương một vài người nữa, nhưng nó chỉ chìu lụy thôi, chứ không thật vui sướng với mấy người ấy. Mỗi ngày, nó đi theo tôi đến nhà ga, bận đi bận về; nó nằm trong giỏ để trên chiếc xe ngựa hai bánh, lúc lắc gần văng nó ra, y như đi qua biển Manche vậy.
Lớp học tôi ở tầng trên; con mèo nhảy ngang qua cửa sổ vô sân lầu đẹp, dạo chơi rất thích. Vào mùa hè, nó ngồi trên cửa sổ nhìn ra ngoài, nó chú ý đến mấy người đi lên, hoặc đi xuống. Người tử tế luôn luôn muốn dừng chân lại, trầm trồ khen ngợi cái trán trắng, cái mũi hồng, cặp mắt khôn ngoan và kín đáo, cùng bộ tịch trầm tư mặc tưởng của nó. Nhưng nó không hề để ý đến những người đó chút nào; nó trông người mà mơ mộng những ngày trôi xa, bên xứ Ai Cập và Pérou, là nơi người ta đã nhìn nhận cái bản tính bất di chuyển của giống mèo là: tượng trưng sự dịu dàng, nhàn rỗi và sự xinh đẹp của loài người.
Buổi chiều mùa hạ, khi giờ đã khuya, ngoài đường vắng khách du ngoạn, con mèo và tôi đi trong vùng Backs, từ John tới Trinité, giữa bụi lau gần Cam đã chìm trong giấc mộng. Có khi chúng tôi chẳng đi đâu cả, vô vườn cùng chơi giỡn với nhau. Con mèo nhảy bổ lại chụp tôi, rồi chạy dang ra xa mấy thước, ngừng lại đập đuôi, cặp mắt sáng ngời; tôi nhảy tới chụp nó, nhưng mới vừa trúng, thì nó lại vượt đi và lánh sang bên kia. Nó leo cây và khi tôi lại gần, nó liền nhảy xuống vai tôi, mừng rỡ vô cùng, rồi lại chạy nữa. Giữa đêm khuya, mọi vật đều yên lặng, nhiều khi chúng tôi đi lang thang qua “khám đường” đến cầu Sights, từ New Court là nơi phòng trọ tôi, ở về phía trường cũ.
Lắm khi tôi về trễ, mà hễ tôi bước vào nhà, thì tôi thấy con mèo ngồi góc bàn giống như con Thần thoại Hy lạp (con thú đầu đàn bà mình sư tử) đang chờ tôi, mặt day ra cửa. Thấy tôi, nó liền chạy lại cạ tôi, kêu khò khò lớn tiếng. Tôi tưởng chắc rằng: nếu móng cẳng trước nó không quá nhọn và nếu đấy là thói quen của giống mèo, thì nó sẽ lại ôm cổ tôi, mỗi lần gặp tôi.
Vậy chúng tôi là đôi bạn. Nhưng chẳng bao lâu tôi bắt đầu thấy con mèo tôi thay đổi lạ thường; nó không còn là một con mèo nữa, mà đã thành một hồn người, một linh hồn bé nhỏ. Thật đấy, một linh hồn bất tử, đang khởi đi hành hương thẳng tới con đường thần học, chỉ vì tôi đã cho nó cơ hội thuận tiện.
Nhiều người nói tôi: “Chú trẻ này, già rồi còn gì!”
Nhưng họ không biết điều mà tôi đã biết, và thấy trong tương lai như tôi đã thấy.
Người bạn tôi chủ ý đến chân thần xuống thế, thành một cá nhân trong chân thể (corpscausal). Bạn tôi lấy thần nhãn trông nom từng bậc tiến hóa, còn tôi về việc ấy thì (hữu nhãn vô châu); nhưng tôi cũng biết được. Thỉnh thoảng người bạn tôi để tâm nhập vào tâm con mèo, rồi nhìn đời bằng cặp mắt nó. Nghe bạn tôi miêu tả sự lạ lùng rất là thú vị. Mọi vật không còn cân xứng nhau nữa: tỷ như nó đi trên cỏ, mà bạn tôi tưởng mình đi ngoài đồng hoang. Khi tôi tạo trong trí cái hình dạng của phòng tôi, thì con mèo dường như có nhãn quang thấy được, nhưng nó khó mà truy ra đó là cái phòng của tôi, theo nó biết. Tôi tưởng cái phòng ấy ở ngang tầm mắt tôi, nó cũng tưởng cái phòng ấy ở ngang tầm mắt nó. Nhưng sự cân đối và liên quan của vật trong phòng thì khác biết bao! Tôi tưởng tôi ngồi trên ghế, để tấm giấy nằm trên bàn; con mèo cũng tưởng đến cái ghế và cái bàn, nhưng nó thấy tôi và vật đều đứng mãi.
Nó suy nghĩ nhiều và rành rẽ. Thật ra nó thấy rõ ràng hơn nhiều người. Nó mến bà Besant và một đêm kia tại Sweden, lúc bà Besant tỉnh giấc, bà thấy con Ji ngủ bên cạnh bà. Quả thật, con Ji ngủ bên Londres, nhớ bà Besant tha thiết và rõ rệt, nên trong lúc ngủ cái vía nhỏ của nó theo luồng tư tưởng mà đi dạo xa. Khi bạn tôi đi California, thì co Ji và tôi qua Ceylan, ở bên kia trái đất.Đôi khi bạn tôi diễn thuyết nhằm lúc con Ji ngủ, cái vía của nó lăn qua lộn lại, vì nó ngủ mà nhớ tới bạn tôi.
Nó ở lối bốn năm tại trụ sở Hội Thông Thiên Học bên Luân Đôn. Trong mấy người ngụ tại đó, có một người đàn ông dễ thương, nhưng lại hút thuốc. Người thương con mèo Ji lắm, mà có tính ưa khuấy chơi, thường hút thuốc phun khói vào mặt nó. Con Ji không hề cố oán, chỉ day mặt qua chỗ khác mà thôi. Bạn tôi xem chừng nó, lấy tâm nhập vào tâm nó, và nói rằng: “Con mèo nhìn người hút thuốc một cách lạ lùng; y làm nó bối rối,nó không hiểu nổi việc này. Tại sao người đàn ông dễ thương, thông mimh như thế- (nó tin vậy)- mà lại làm một chuyện ngu xuẩn là phà khói hôi vào mặt nó?”
Khi kia, thế giới nhỏ của nó bị xáo trộn một lúc, bởi vì đúng giờ ăn trưa (là một giờ trưa) mà kiểng không đổ như thường lệ. Giờ ăn trưa đã sửa lại trễ hơn nửa giờ, nhưng con mèo không rõ, nó mới ra ngồi ngoài thềm vườn, nghi có sự gì không hay xảy đến, nó buồn bực, nhìn kẻ qua, nhười lại trong vườn.
Khi tới lúc tôi phải trở về Tích Lan, nó theo tôi. Chúng tôi có làm một cái lồng đặc biệt cho nó, có đầy ánh sáng và không khí ra vào. Dưới tàu, người ta để nó trong phòng thịt, (phòng có sắp thịt trước vén khéo) và ít nhất, trong ngày hai lần tôi dắt nó ra đi hóng mát trên bong tàu. Nó không để ý đến hành khách nâng niu nó, mặc dầu nó lễ phép luôn luôn. Lúc nào có tôi ở gần bên nó, thì nó không hề sợ tiếng động dưới tàu, hoặc tiếng sóng biển. Nó ra khỏi lồng, vào trong một toa xe lửa, rồi nằm ngủ trên gối, y như một hành khách, không để ý đến tiếng động và sự vận hành. Lại nữa, nó có quyền choán một chỗ ngồi, bởi vì bên nước Ý phải mua cho nó một cái vé đi đường.
Vào năm 1901, con mèo và tôi đi Adyar để dự Đại hội nghị (Thông Thiên Học ). Chúng tôi có đến thăm bà Besant trong phòng bà. Con ji được tiếp rước ân cần và được người bạn uy nghiêm của nó ở Luân Đôn tưng tiu. Qua năm sau, con mèo ji cùng đi với tôi qua nước Ý, và trong khi tôi đến các Chi nhánh để diễn thuyết, nó cũng đi theo tôi chỗ này đến chỗ kia: mấy nhà hàng, mấy phòng trọ, mấy tiệm cơm trưởng giả đối với nó, chỗ nào cũng giống như nhau.
Có lẽ nó tưởng tôi là người yêu nhất của nó, là một con mèo con to nhất, tôi lấy làm lạ. Nhưng có một điều mà tôi phải lo nghĩ là: vấn đề con nó. Mỗi năm nó đẻ hai lần, và tôi không thể giết con nó được. Phải tìm nhà cho chúng nó ở là một công việc! Một ngày kia, tôi phải đi xa, từ Turin đến Gênes và từ Gênes đến Pise, dắt theo con mèo mẹ với ba con mèo con.
Đến nước Ý thì nó chết, sau khi chịu đau đớn nhiều vì nó bị mổ lấy mủ. Và bạn tôi nói: sự đau đớn khủng khiếp và cuối cùng này tuy hữu lý, nhưng dường như số mạng quá ư cay nghiệt đối với một con vật đa cảm như thế. Con Ji không còn là con mèo nữa, mà là một linh hồn còn bé; nó có cái lịch sử ngắn ngủi của quả báo xấu và tốt. Cái quả ấy đem đến cho nó niềm vui hay sự đau khổ. Trước khi nó chết mấy tháng, Đức Nam Tào Bắc Đẩu sắp đặt cho nó trả quả thật nhiều, nội trong kiếp thú cuối cùng này, để khi nó đầu thai làm người lần thứ nhất, linh hồn khởi sự tiến hóa, ít bị trở ngại chừng nào hay chừng nấy. Vậy một lần nữa, ta thấy rằng: “Không một con chim sẻ nào chết mà Đức Thượng Đế và các Thiên thần chẳng rõ”.
Sau khi bỏ xác, con mèo không biết mình đã chết. Nó ở trong cái Vía của nó, trẻ hơn trước, một cách tự nhiên như không có sự gì đã xảy ra. Chẳng bao lâu nó vào cõi Thiên Đàng (Devachan) của nó và từ đây, nơi cõi Trời nhỏ, nó sẽ chờ cho tới chừng nào đi đầu thai làm người.
Khi nó chết rồi, tôi cảm thấy tôi đã làm tròn phận sự mình trong sự lành và sự thật. Dẫu đời tôi có bị một vài trở ngại và hạn chế trong bao nhiêu năm vì con Ji nữa, tôi cũng cho là một dịp may ít có. Con Ji ở trong hào quang tôi ngày đêm, lúc tôi mơ mộng, ước mong và kiến thiết. Từ điện tôi rung chuyển nó ngày này qua ngày nọ, giúp nó tiến triển thành một hồn người. Từ bao giờ đến bây giờ, tôi có cảm tưởng rằng: nếu các Đấng Nam Tào Bắc Đẩu có ghi lỗi trong đời tôi, thì các Ngài cũng sẽ ghi một chuyện mà tôi, đã thành công là: thật dạ thương yêu và giúp đỡ một linh hồn bé nhỏ.
“Khi bức tranh trần chót đã vẽ xong, và ống mực đã cạn và cuốn quắp lại rồi”, cái kỷ nguyên này đã tận cùng; nhân loại sẽ qua bầu Thủy tinh để học hỏi điều mới lạ. Nơi đây nhân loại phải khởi sự tiến hóa từ giống dân thượng cổ; nhưng trong giống dân này, chỉ một số ít người có trí và đức mà thôi. Mong rằng: lúc ấy tôi sẽ ở tại bầu Thủy tinh, không phải làm con chốt trong bàn cờ như bây giờ, mà là người đánh cờ, làm hướng đạo cho Thần và cho người. Chừng ấy, khi linh hồn thơ ấu kia, mà tôi gọi là Ji, mới đầu thai làm người, thì nó sẽ là con chốt trong bàn cờ của tôi, một con chốt xinh xắn và kỳ diệu, sẽ được chăm nom kỹ lưỡng và sẽ được đẩy trên bàn cờ một cách âu yếm. Đẹp thay, khi biết một ngày kia chúng ta sẽ làm người anh cả dìu dắt đàn em dại ngày nay!
VỊ CỨU TINH
Tôi mệt mỏi trọn buổi xế. Cổ tôi khó chịu hơn mọi khi, nên tôi nằm dài trên ghế trường kỷ để tại góc phòng. Nhà yên lặng vì vắng người, nhưng tiếng động không dứt của thành thị từ từ, đều đều làm cho sự yên lặng không hoàn toàn được. Trời chưa thật tối, nên tôi không cần mở đèn. Một tiếng động nhẹ nhàng nơi cửa; nhìn lại, tôi thấy một đứa con trai mà tôi chưa hề gặp.Tôi nghĩ em ở một căn phòng trong biệt thự to lớn này. Tôi tưởng tôi biết mặt tất cả người trẻ tuổi trong nhà; vậy có lẽ em trai ấy là một người khách chăng?
-Em vô đây có chuyện chi? Và bằng cách nào? Tôi hỏi thế vì tôi biết cửa đã đóng.
Em không trả lời, mà lại mỉm cười, cái mỉm cười quyến rũ, xinh tươi và duyên dáng làm sao! Em trạc chừng mười tuổi, cặp mắt dịu dàng, tóc màu nhạt chói, mặc đồ trắng. Có lẽ em rụt rè nên không trả lời, chứ khi em mỉm cười, thì trông em rất chân thành và ngay thẳng.
Tôi hỏi:
-Em tên là gì, hỡi em?
-Tôi tên là Nhi đồng.
Em trả lời như vậy và mỉm cười.
-Ủa! đơn sơ như thế sao? Vậy, Nhi đồng tại sao em vào đây?
-Ngài bảo tôi vào thì tôi vào. Em trả lời.
-Ngài bảo em vào à? Ngài nói làm sao?
(Tôi nghĩ tốt hơn là đừng tỏ ý gì ngạc nhiên cả).
- Tôi đang đọc sách, Ngài gọi tôi và nói: “Nhi đồng, em gái con đang cần con giúp đỡ, con hãy đến giúp đi”. Thế nên tôi đến đây.
- Em gái của em à? Mà ai thế?
- Ông! Tự nhiên rồi!(1)[9]
- Tôi à! Tại sao vậy? Tôi già đáng má em.
Ngài nói với em: “Tôi cần giúp đỡ? Vậy giúp đỡ về chuyện gì?”
-Nhi đồng ơi, làm sao tôi thấy được Ngài, bạn thân của em?
- Dễ lắm, nếu ông là hai người thì được.
Bởi không có thể, nên tôi tưởng ông phải chờ tới chừng ông từ giã cõi trần mới thấy được Ngài. Ô kìa! Lắng nghe! Ngài nói ông có thể thấy Ngài được bây giờ. Ông hãy nhìn đi! Sung sướng cho ông quá!
Em bèn vỗ tay một lát, đoạn xòe ra, ở giữa hai bàn tay có một vật, màu trắng. Em đưa tôi xem. Đó là cái hình mặt người. Tôi liền biết hình ấy là của Người Bạn Thân em. Trong lúc tôi đang nhìn cái gương mặt phương phi này, thì mặt nhỏ của nhi đồng kề sát với mặt tôi, em nhìn tôi thiết tha, đoạn em ôm cổ tôi, rồi rỉ vào tai tôi rằng:
“Em gái ơi! Bây giờ em hiểu chưa? Tôi nhìn mặt Ngài lần nữa, tôi liền hiểu. Em nhi đồng ấy đem đến cho tôi cái ân huệ của Ngài, mà theo tôi biết, thì nó là cảnh Trời vậy. Có lẽ một ngày gần đây, em sẽ đến với tôi nữa, để nói cho tôi nghe cái “thế giới” của em khác xa cái thế giới của chúng ta mà em cho là: “cõi mộng”.
ĐỨC THẦY
Tiên khởi, tôi gặp Đức Thầy cách nào? Tiểu Hoa Nhi ơi! Nói ra không phải dễ.
Có nhiều chuyện riêng về một linh hồn tiến hóa mà nói ra như phạm đến Thánh Thần, mặc dù một ngày kia cũng phải tỏ ra để giúp người. Tiểu Hoa Nhi ơi! Tôi bắt đầu nói với em trước nhất; và có lẽ với em tôi dễ nói hơn. Nhưng chỉ là những lời nói suông mà thôi. Nếu em muốn hiểu được thì em phải cảm kích như tôi xưa nay vậy.
Cách đây 21 năm, tại xứ nóng nực, một buổi chiều kia, khi mặt trời vừa ngã bóng thì đã thấy tối, vì không có cảnh hoàng hôn, có một đứa nhi đồng và một người đàn ông cùng nhau đi dạo. Đoạn người đàn ông từ giã đứa nhi đồng mà về nhà. Hai người thương yêu nhau đã nhiều kiếp rồi. Nay người đàn ông đi theo Thầy từ xa mới đến xứ có cau, dừa và mặt trời này, vì biết tại đây, có một đứa em trai kiếp trước cần phải gặp và phải giúp.
Đứa nhi đồng này, chính là người em trai đó. Buổi chiều ấy, người đàn ông nói với em về Hai Ngài(1)[10] : Một Ngài Hiện thân là Uy lực và Bác ái. Một Ngài Hiện thân là Bác ái và Uy Lực. Người đàn ông nói: phụng sự Hai Ngài là cái vinh diệu duy nhất; và em nhi đồng phải tự mình chọn một Ngài để phụng sự.
Tiểu Hoa Nhi ơi! Em nhi đồng còn nhỏ, tôi tưởng em không hiểu hết những lời này, nhưng em lẳng lặng lắng nghe và trước khi đi ngủ, em đã chọn rồi. Em đâu biết rằng: em đã chọn rối từ bao nhiêu kiếp trước, bởi sự quyết định ở kiếp này chỉ là sự hồi nhớ thích thời của một linh hồn mà thôi. Cái lòng biết ơn và tình thương là sợi dây nối chặt em với Đấng Hiện Thân Bác Ái và Uy Lực.
Nhiếu tháng qua…và một ngày gần đây, hỡi Tiểu Hoa Nhi, vì sự chọn lựa này mà nhân quả bắt buộc đứa trẻ phải lìa người anh kiếp trước, đến xứ xa để tập làm việc cho Đấng mà em đã chọn. Rất bình tĩnh, em đóng trên sân khấu các vai tuồng mà Đức Nam Tào Bắc Đẩu đã đặt để cho em.
Lần lần em tiến bộ, từ bậc này đến bậc khác, mỗi bậc như là quen thuộc với em, dẫu thật ra mỗi bậc đều lạ lùng và khác hẳn với sự kinh nghiệm kiếp sống ngắn ngủi của em.
Em cắt đứt cái gì buộc em với trần gian và nhân loại, em đi sâu vào tương lai vô định, một cách hoàn toàn yên ổn và vui tươi.
Tiểu Hoa Nhi ơi! Đôi khi linh hồn đảm đương nhiệm vụ mới: vì nơi thế gian chúng ta chỉ là những tên kép đóng trò, và sau lưng chúng ta có ý chí của linh hồn hiểu biết và đã chọn lựa (Đấng Thiêng Liêng để phụng sự).
Tôi đã nói, em nhi đồng này hoàn toàn tươi tỉnh. Nhưng chẳng phải em không biết cảm động. Em rất đa cảm, song khi làm phận sự, linh cảm phải để dẹp một bên. Mà chỉ dẹp được một lúc thôi, vì đêm tha hương đầu tiên, em nằm trong phòng tàu, nước rộng mênh mông, cứ mãi chia rẽ em với dĩ vãng, làm cho em cảm thấy mình ly biệt với người yêu, có thể gọi là độc nhất của đời em, mà em nhớ nhung ngày đêm không ngớt. Sự ly biệt này kéo dài, cho tới chừng nào tấn tuồng bi kịch lạ lùng biểu diễn lại mới thôi. Tiểu Hoa Nhi ơi! Đó không phải là tình thương của đứa Nhi đồng đối với một người đàn ông, hoặc người đàn bà, mà đối với một người con trai, một người bạn nhỏ tuổi hơn em. Và bây giờ đây, em phải ly biệt người bạn ấy, mà em gọi là ánh sáng của đời em.
Lạ thay, lúc em từ giã bạn em, em không có cảm biết sự biệt ly này. Mà bây giờ, em mới rõ. Tiểu Hoa Nhi ơi! Người ta nói: con người tan nát cõi lòng, nhưng đôi khi tôi tưởng cõi lòng của em nhi đồng đây cũng tan nát nữa.Nếu có linh hồn nào mà máu trái tim thấm ướt chân mình, thì linh hồn ấy là em nhi đồng vậy. Đối với em cuộc đời đã tan nát.
Người anh kiếp xưa của em đã lo lắng cho em, nhưng em cũng không yên lòng, em ráng dỗ giấc ngủ. Và đêm ấy, khi vía hai người ra khỏi xác, người anh dắt người em, lần thứ nhất, đến đứng trước Đức Thầy.
Tiểu Hoa Nhi ơi! Đức Thầy biết cả dĩ vãng, hiện tại và tương lai của em nhi đồng. Ngài để tay lên đầu em và ban cho em cái ân huệ của Đức Thế Tôn cao cả hơn Ngài.
Tiểu Hoa Nhi ơi! Hữu phước thay cho kẻ nào được cái ân huệ đó, bởi vì nhờ nó mà người khởi bước lên con Đường Mới!
CHUNG
Lời dịch giả: Đứa nhi đồng đây là ông C. Jinarâjidâsa thuở còn bé, lúc Ngài được 13 tuổi. Người anh cả nói trên là ông C.W. Leadbeater. Ông C.w. Leadbeater dắt ông C. Jinarâjadâsa từ Colombo sang Anh Quốc để giáo hóa. Nhờ đấy mà ông C. Jinarâjadâsa mới trở nên một Bông Hoa hiếm có của Nhân loại ngày nay.
[1] Những sách này viết bằng Anh văn chưa dịch ra Pháp văn.
[2] .-Lời dịch giả: Người ta không gọi Đức Phật là Đức Thích Ca Muni, vì chữ Muni là tiếng Phạn có nghĩa là bậc Thánh, bậc Hiền. Nếu cho Đức Phật là bậc Thánh, bậc Hiền là sai vậy.
[3].-lời dịch giả: Hội chúng ta đây là Hội T.T.H. (Société Theosophique) thành lập ngày 17 tháng 11 năm 1857, do bà HPB và ông Olcott, vâng lịnh hai vị Chân Tiên là Đức M và Đức K.H.
[4] .- Con người sống một cuộc đời trong sạch, thì cõi Hiện tại rất đẹp đẽ quang minh vì các mối ưu tư phiền não không còn làm lay chuyển được nữa. Một khi con người thoát kiếp luân hồi, tức là làm được một vị Chân Tiên, thì Tử thần đâu dám đến quấy nhiễu được.( lời dịch giả)
[5] .- Sách Pháp Môn Huyền Bí cho ta biết rằng: Chatta là tiền kiếp của ông C.Jinarâjadâsa (lời dịch giả)
[6] .- là tác giả.
[7] .- Xết Lắt là (Wenceslas).
[8] .- Tác giả viết quyển sách này xong hồi năm 1908.
[9] (1) Lời bàn cùa dịch giả: Người ta có nhiều kiếp. Mỗi kiếp tạo ra nhiều dây liên ái. Kiếp này đầu thai, có gia đình, cha mẹ, vợ chồng con cái, an hem v..v….Qua kiếp sau, mặc dù, tạo cái gia đình khác, chứ những người quyến thuộc kiếp xưa cũng vẫn là thân ái với mình.
Có lẽ người đàn ông nói đây (là ông C. Jinarâjadâsa)là em gái của nhi đồng trong kiếp trước.
[10] (1) Hai Ngài đây là hai vị Chân Tiên Đức Morya và Đức Kouthoumi (lời dịch giả).