ĐẠO và ĐỜI
Sách tặng 1973 |
ĐẠO VÀ ĐỜI
------
Nhiều bạn mới phát tâm mộ Đạo thường hay bối rối, không biết tìm con đường Đạo ở nơi nào và phải làm gì để gặp Chơn Sư (Thầy Tiên) thoát khỏi đọa Luân Hồi, sớm nhập Niết Bàn, thung dung tự tại.
Nhưng khi bạn đã chấp nhận rằng Luật Nhân Quả vẫn có, nó không hề sai lầm và cũng không bao giờ thiên vị, là bạn đã thấy đúng con đường Đạo rồi. Từ đây bạn chỉ cần bền chí bước đi cho đến ngày giải thoát.
Đường Đạo là con đường dốc và hẹp, phải vượt lên cao cho nên có phần mệt nhọc, ít người theo, đối với Đời nó là con đường buồn tẻ; trái lại, con đường Đời bê tha, phóng túng, thì thênh thang, hấp dẫn; vì xuống dốc rất dễ dàng và có nhiều người đi nên trông nó có vẻ rộn rịp, vui nhộn, khiến ai cũng ham thích và đua chen sa ngã.
Nhưng Luật Trời là Luật Tiến Hóa, nên dầu cho nhơn loại có mê đắm dục vọng đến bực nào, sau rốt cũng đến ngày quày đầu hướng thiện để trở về với Đạo. Nếu kiếp nầy chưa dừng bước để trở lại theo Đạo, thì một vài kiếp sau, khi chịu nhiều khổ não, gian truân, chán nản lợi danh, phai mờ dục vọng, chừng ấy họ cũng phải tỉnh ngộ và tìm đường phản bổn hườn nguyên.
Nhơn loại thường phân chia Đạo và Đời làm hai phe không dung hòa nhau. Người tín đồ một Tôn Giáo, khi hiểu được một ít giáo lý thì thường hay tự phụ cho đời là thấp kém chưa xứng đáng làm người. Trái lại, người đời, nếu có một trình độ văn hóa khá, biết lý luận, hiểu nhiều về khoa học vật chất, thì chê người học Đạo là mê tín, dị đoan, rồi họ chạy theo danh lợi, quyền tước, cho đến khi gặp phải nạn tai dồn dập, sầu thảm liên miên, nghịch cảnh chất chồng, không còn lối thoát, mới quay ra tìm Đạo để an ủi số phận. Nếu người nào may mắn, gặp được giáo lý chân truyền, kinh nghiệm được một ít Luật Trời, nhiễm mùi Đạo Đức, rồi quyết tâm hướng thiện để đi đến mục tiêu giải thoát, thì y tìm tòi học hỏi thêm để hành động cho hạp với Thiên Cơ. Y biết Tu là cội phúc nên không còn mê luyến vật chất cõi Hồng trần. Có thể y xuất gia để tu hành cho mau đắc quả. Nhưng nếu y quá thiên về tinh thần, còn ích kỷ và chỉ mong hưởng cảnh sung sướng ở Thiên Đàng, cảnh Niết Bàn, rồi quên các công tác ở Trần gian, quên phận sự làm người, thì cũng chậm tiến bộ. Người tu muốn mau đắc quả phải biết quên mình, chỉ lo phụng sự cho đời, mà không cầu xin cho mình được hưởng điều gì cả (xã thân cầu Đạo). Nhưng đây phải là người có căn duyên, đã rõ thông đạo lý và đã tập được tự chủ rồi mới thi hành nổi. Người đời lầm tưởng hễ tu là phải ly gia cắt ái, như vào chùa, ẩn nơi đạo viện, hoặc hang động, xa lánh trần gian. Vì vậy mới có người xuyên tạc cho rằng Phật là người bỏ phế tất cả danh, lợi, không bị việc đời làm bận tâm, vậy tu theo Phật phải xa lánh đời, không màng thế sự nữa. Nhưng nếu tu mà trốn tránh nợ trần thì không đúng bổn phận kẻ tu hành. Người hành Đạo phải là người siêng năng, tận tâm, cố gắng hoạt động, giúp ích cho đời, làm sao cho công việc càng ngày càng hay, càng khéo thêm lên, cho kết quả được tốt đẹp, nhưng lòng vẫn không bị lợi danh ám ảnh. Ngoài ra mỗi ngày còn phải xét mình để sửa các thể Xác, Vía, Trí cho thêm phần cao thượng, theo đúng Luật Trời.
ĐỜI ĐẠO LIÊN QUAN
Khi mới bắt đầu học Đạo mà xa lìa thế tục thì khó tập rèn các hạnh kiểm tốt đến bậc cao và cũng không có dịp để thực hiện những đức tánh đã đạt được. Nhờ lo giúp đời, con người mới có dịp để kinh nghiệm hầu thấu đáo Luật Trời. Nhờ biết phụng sự nên họ có thể trả lần những nghiệp quả xấu cho đến hết để được giải thoát. Nếu còn nhiều nghiệp quả, thì con người còn phải Luân Hồi, trở lại Trần gian để trả nợ, cũng như người làm lành mà mong hưởng phước thì cũng còn đầu thai lại cõi trần để hưởng phước. Cũng không phải là lánh chốn phồn hoa đô hội, chuyên tụng kinh, cầu khẩn hay cúng kiến mà hết tội, được hủy bỏ nợ cũ. Chỉ có một phương pháp hay nhất để trả hết nợ là giúp đời và vững lòng chịu đựng mọi khổ đau, tai nạn mà không lo sợ, buồn phiền. Mà muốn có dịp giúp đời thì phải ở gần người đời, chung sống với nhơn loại.
Đấng Tạo Hóa đã sanh ra muôn loài vạn vật để con người chung sống và học hỏi, rút tỉa kinh nghiệm. Khi ta đã học hỏi thông thạo từ vật chất lẫn tinh thần, tức là đạt được sự Minh Triết và trả xong các quả báo thì ta sẽ thoát khỏi đọa luân hồi, đắc quả Chơn Tiên. Một người còn dốt nát, hoặc nhân quả chưa tròn, chắc chắn là không thể nào giải thoát được.
Như vậy người mới tu không bị bắt buộc phải từ bỏ công việc hằng ngày của mình, mà phải để hết tâm trí vào công tác đang thi hành làm sao cho thiên hạ được hưởng lợi ích của công việc mình làm. Thí dụ: mình là một nông dân, thì cứ tiếp tục công việc cày cấy ruộng nương, nhưng gia công suy nghĩ, tìm tòi phương pháp để phát triển nghề nghiệp mỗi ngày, kèm thêm ý tưởng cao thượng là muốn có nhiều lúa thóc, hoa màu để giúp đồng bào được ấm no, quốc gia thịnh vượng và nhân loại khỏi thiếu thốn lầm than. Đành rằng trong khi mình siêng năng làm lụng thì huê lợi tự nhiên tăng thêm dồi dào, đời sống của mình sẽ ấm no đầy đủ, nhưng trí mình đừng bao giờ nghĩ đến sự lợi ích riêng tư ấy mà cứ để tâm tưởng nhớ đến mục đích là làm sao sản phẩm của mình có thể đủ cung ứng cho nhơn loại để họ được ấm no, vui vẻ và sung sướng hơn. Mục đích của người tu hành là làm cho đời được thêm vui tươi, hạnh phúc. Vì vậy, mình theo nghề nào cũng có thể giúp đời được. Dầu buôn bán, thợ thuyền hay công nhân, ta cũng đều có thể tu luyện và tập ý tưởng cao thượng, mà không trở ngại gì đến công tác hằng ngày, vì mình vẫn làm lụng hăng say.
Ta phải tập làm sao cho có thói quen tính làm việc gì cũng nhớ đến mục đích là làm hữu ích cho xã hội, đừng làm việc gì để người khác phải bị vạ lây hay bị buồn rầu, đau khổ. Trước khi hành động ta phải xét kỹ coi có ai bị thiệt thòi, bị hại vì việc làm của ta hay không. Nếu có thì ta nhứt định không làm. Gặp trường hợp có nhiều người được lợi, mà mình bị thiệt thòi chút ít, cũng không sao, vì mục đích người tu là phải lo cho nhơn loại được tiến bộ chớ không còn ý nghĩ ích kỷ hại nhơn. Mà hễ nhơn loại được an vui, thì mình cũng sẽ được an vui, vì trong nhơn loại vẫn có mình. Ta có thể nói: lo cho nhơn loại tức là lo cho mình, vì mình và nhơn loại liên quan mật thiết với nhau.
Vậy tu hành là sửa đổi cách hành động hằng ngày cho thêm khéo léo, hạp Thiên Cơ, chớ không phải bỏ phận sự làm người. Kẻ tu hành phải suy nghĩ nhiều để trừ bỏ các điều dở, dứt tuyệt các tham vọng. Người đời trong khi làm ăn, tìm sanh kế thường cố gắng tranh đua nhau để được nhiều lợi, tự nhiên là có tiến bộ trong nghề nghiệp, nhưng lại có những người quá tham lam, sanh lòng bất chánh, dùng đủ thủ đoạn để mưu cầu lợi tức, không biết việc làm của mình sẽ có hại cho kẻ khác. Như thế là họ làm ác, tránh sao khỏi quả xấu. Người tu hành phải nhớ luôn luôn là không bao giờ làm nghề gì có hại cho kẻ khác. Kinh Phật gọi là chánh nghiệp. Ta cứ tùy tài năng, phương tiện, để chọn nghề. Bất cứ nghề gì, hay ở đâu cũng được, miễn là trong sạch và không làm người khác và thú vật phải đau khổ.
ĐƯỜNG ĐẠO
Đường Đạo thật dài. Ta không nên tin lời đồn đại sai ngoa, vô căn cứ, là tu ba năm thành Tiên, chín năm thành Phật, để rồi sau khi cố gắng một thời gian, chưa thấy kết quả gì lại chán nản bỏ việc tu hành.
Đường Đạo có nhiều giai đoạn, nhiều cấp bực, ta phải đi từ bực thấp lên cao. Phải học lần lần cho thông suốt hết mới đỡ vấp ngã. Nên nhớ là ta phải trải qua nhiều thử thách, nhất là phải lần lượt trả cho dứt các nghiệp quả mới được giải thoát. Cũng giống như đường đời, muốn lên bực cao, trước phải học bực thấp. Muốn vào Đại học phải học xong bậc Tiểu học và Trung học rồi mới đủ trí để hiểu bài Đại học. Nhiều bạn muốn sớm học với Thầy Tiên chớ không nghe lời dạy dỗ, khuyên lơn của các Sư Huynh đã đi trước mình, đã có nhiều kinh nghiệm. Như thế chẳng khác gì người mới bắt đầu học chữ mà muốn học với các vị Cử nhơn, Tiến sĩ, giáo sư Đại học. Dầu cho mấy vị nầy có vì tình riêng lãnh dạy giúp mình, thì cũng phải bắt đầu dạy bài lớp chót, Tiểu học rồi mới lần lần lên Trung và Đại học. Hễ mình càng chuyên cần thì trí càng mở rộng, và trí có mở rộng, mình mới hiểu được bài học cao ở các bậc trên. Đành rằng có thầy giỏi thì ta dễ học, mau hay, nhưng nếu ta thiếu siêng năng, không cố gắng suy xét để rút kinh nghiệm thì cũng chậm tiến bộ. Học Đạo là học Luật Trời, hay là Luật Thiên Nhiên. Các nhà khoa học cũng phải thi hành đúng Luật Thiên Nhiên mới có kết quả tốt đẹp. Nếu không biết áp dụng luật Thiên Nhiên thì sẽ không bao giờ thành công.
Luật Trời không hề thay đổi. Ta phải tuân theo mới đắc quả. Quyển DƯỚI CHƠN THẦY (Aux pieds du Maître) ghi lại những lời dạy của Chơn Sư đã huấn luyện Đức Alcyon đến bực Điểm Đạo lần thứ nhứt, Phật Giáo gọi là Tu-Đà-Hườn. Nếu nay ta gặp Thầy Tiên thì Ngài cũng dạy ta phải bắt đầu thi hành như vậy. Còn ba cấp bực nữa mới đến bực La Hán . Người chưa tập đủ các đức tánh trong quyển DƯỚI CHƠN THẦY mà lại muốn thành Tiên, thành Phật thì còn xa vời lắm, không thể nào có kết quả sớm quá như ta mong mỏi đâu. Chúng tôi không nói là ta không thể thành Tiên, Phật, mà chúng tôi nói ngày đó còn xa, cũng như người mới học chữ thì ngày đậu Tiến sĩ hãy còn xa vậy. Tu hành còn khó hơn học chữ rất nhiều. Vì vậy ta còn phải tu nhiều kiếp nữa.
Tuy nhiên nếu ta biết lo tu niệm ngay từ bay giờ thì thời gian sẽ rút ngắn lại gấp trăm ngàn lần hơn người buông trôi theo luật tiến hóa tự nhiên. Ta nên nhớ: CHẮC CHẮN LÀ TA SẼ THÀNH TIÊN, PHẬT nhờ sự cố gắng chuyên cần học tập và hành động đúng phương pháp. Hiểu rõ như vậy thì trí ta không còn hoang mang dao động khi có người nói tới, bàn lui, không chán nản khi chưa thấy kết quả và ta không hoài nghi công phu tu tập của mình. Đường Đạo không khó vì đường dài diệu viễn, mà khó vì lòng ta còn e ngại, hoài nghi, chưa chí quyết.
Mặc dầu đường Đạo có rất nhiều lối đi đến mục đích, ta đừng để hoa mắt, rối trí. Ta không cần phải đi tất cả các lối mà chỉ chọn lựa lối nào hạp với bản năng của mình để mình có phương tiện thực hành. Cũng đừng ép người khác bỏ lối đi của họ để theo mình, dầu mình thấy lối đi của mình dễ dàng, mau đến đích. Ta chỉ trình bày tỉ mỉ khi có dịp tiện, để cho người suy xét và tự do chọn lựa tùy thích.
Những người tu hành, dầu cùng đi một lối cũng không hoàn toàn giống nhau. Tùy theo phương tiện, hoàn cảnh và sở thích mà hành động của họ có khác nhau, không nhiều thì ít. Vì vậy ta không nên phê bình chỉ trích người không hành động giống ta, trái lại nên tùy tiện giúp người tiến bước theo lối riêng đó nếu mình hiểu rõ.
Dầu người tu theo lối nào cũng phải lập hạnh và khi trả dứt nghiệp quả mới được giải thoát. Lệ thường, người trả quả là bị tai nạn, bị bệnh tật đau đớn về xác thịt, khổ não về tinh thần, bị đời chê bai, chỉ trích, tiêu hao tài sản, vật chất v.v. . . nghĩa là ta phải chịu nhiều sự phiền lụy, khó khăn để trả cho dứt những điều quấy mà ta đã làm từ khi thoát kiếp thú đầu thai làm người. Nếu tu mà không muốn trả quả thì làm sao dứt nợ để được tự do giải thoát ! Phần đông muốn hưởng phước mà không dám làm điều thiện, như thế là bất công. Đừng mãi cầu xin Phật, Chúa ban phước lành và xá tội, vì như thế là còn lòng tham và ích kỷ. Nho giáo có dạy: “Trời đất không thiên vị, Thần minh thường xét soi kỹ lưỡng, không vì người cúng tế mà cho phước, cũng không vì người thất lễ, không cúng mà giáng họa ! Không phải lo hối lộ mà Thần Thánh ban phúc. Luật Nhân Quả đúng đắn không hề sai. Trời Phật, Thánh Thần không thể xóa bỏ tội lỗi của người quấy được. Chỉ còn một ân huệ là lập công chuộc tội, tức là mình lo làm công quả giúp đời mà không mong hưởng phước để trừ bớt tội; nếu mình làm được một ít việc thiện rồi mong hưởng quả lành thì còn dư cái gì để trừ bớt tội cũ, trong khi đó ta lại có những hành vi bất chánh, hoặc lời nói ác, tư tưởng quấy tức là gây thêm quả xấu, ắt phải đầu thai mãi để trả quả.
Vậy người tu hành không thể chỉ tụng kinh, cúng tế, cầu xin mà hết tội, được về Thiên Đàng Cực Lạc. Phải tập giữ lời nói, tư tưởng và việc làm luôn luôn theo đường thiện. Phải vui vẻ, ôn hòa với mọi người, nhẫn nại và an lòng làm phận sự, khoan dung người làm khổ cho mình. Muốn có những đức tính tốt và không làm quấy, thì trước phải tập suy tư điều thiện cho quen, nhờ đó khi gặp điều thiện là ta thi hành liền, khỏi bỏ lỡ dịp tốt. Phật giáo dạy Tham thiền, nhưng nhiều người mới tu chưa hiểu phải tham thiền điều gì rồi cho tham thiền là một pháp môn phi thường, khó đạt được kết quả. Sự thật Tham thiền là cứu xét tỉ mỉ, rốt ráo, suy nghĩ đủ các khía cạnh của một vấn đề, một đức tánh để thi hành không sai lầm. Biết bao nhiêu người đã tham thiền rồi mà họ không dè. Các nhà khoa học cũng tham thiền nhưng về vật chất, còn nhà tu thì tham thiền về tinh thần, đó là các vấn đề đạo đức, trừu tượng, nên khó suy xét tận tường. Phải chịu khó bền chí mới có kết quả. Ban đầu tham thiền có giờ khắc, sau quen rồi, lúc nào trong trí cũng nhớ đến Đạo, đến điều thiện, không để trí vởn vơ nghĩ chuyện sái quấy.
HÀNH ĐỘNG.
Ta phải luôn luôn tận tụy với công việc ta làm. Nếu là làm việc để lãnh tiền công thì phải làm cho xứng đáng với số tiền lương mình lãnh, đừng lánh nặng, tìm nhẹ, ngồi chơi mà lãnh tiền là không công bình, dầu là công, tư chức, công nhân cũng phải tận tâm với chức nghiệp, không xao lãng phận sự thì mới tiến bộ được. Trong khi làm việc để giúp đỡ người, không tính công, không cần người đền ơn đáp nghĩa, cũng phải tận tình lo lắng, làm hết sức mình chớ không phải làm chấm câu lấy có.
LỜI NÓI.-
Luôn luôn lời nói phải dịu dàng, dễ thương và hữu ích. Nếu không được vậy, thì làm thinh là tốt hơn. Cách ngôn Pháp có câu: “Hãy uốn lưỡi bảy lần trước khi nói”. Câu nầy có ý dạy ta phải suy nghĩ kỹ lưỡng rồi sẽ nói. Dầu khi cần phải phê bình, chỉ trích ai cũng phải nói dịu ngọt thì mới giúp ích cho người được. Lời nói thô lỗ, cộc cằn, giận dữ, chỉ làm cho người bất mãn, oán ghét mình, chớ không sửa đổi người thành ra tốt. Thế là ta không giúp được người mà còn làm cho người quấy sanh thêm tánh xấu. Trái lại, khi ta gặp người trách mắng, ta phải bình tĩnh suy xét coi có phải ta sai lầm chăng ? Nếu có sái quấy, ta phải cố gắng sửa lỗi mình chớ không nên giận người. Còn như ta không lỗi lầm, cũng chớ nên chống đối lại khi người giận, phải chờ lúc người hết giận ta sẽ giải bày một cách ôn hòa vui vẻ mới hy vọng thành công.
Muốn bình tĩnh, ôn nhu như thế, không phải tự nhiên mà được. Phải chí công luyện tập lâu ngày mới thấy kết quả.
Mà phải luyện tập cách nào để có thói quen tận tâm với chức nghiệp cùng lời nói được dịu dàng, dễ thương và hữu ích ? – Tư tưởng rất quan trọng trong công tác nầy.
TƯ TƯỞNG .
Trước tiên ta phải tập cho trong trí ta luôn luôn có những tư tưởng tốt đó. Không phải đợi đến giờ tham thiền mới suy tưởng đến nó, mà lúc nào trí rảnh rang thì nhớ đến nó liền. Ta nhứt định phải có những tánh công bình, vui vẻ, ham làm việc, ưa giúp ích cho đời và tâm luôn luôn an tĩnh. Bền chí như thế một năm ta sẽ trở thành người tốt, khác trước vô cùng.
Có một định luật thiên nhiên là: “TA SẼ TRỞ THÀNH CÁI GÌ MÀ TA SUY NGHĨ” (On devient ce que l’on pense). Vậy nếu ta muốn thành người siêng năng, hoạt bát và hướng thiện, thì ta cứ suy nghĩ mãi điều thiện, có lợi ích cho xã hội rồi lâu ngày ta sẽ ưa thích làm việc giúp ích cho xã hội.
Tư tưởng có một sức mạnh vạn năng, nên muốn có được một hạnh kiểm nào thì cứ bền chí suy nghĩ đến hạnh kiểm đó mãi, ta sẽ thành công mỹ mãn.
Cách ngôn Pháp có nói: “Muốn thì được” (Vouloir c’est pouvoir). Ta cũng có câu: “Chí công mài sắt, chầy ngày nên kim”, hoặc “nước chảy đá mòn”.
Tóm lại, muốn đạt được kết quả, ta phải có ý muốn thật sâu đậm và chí cương quyết thật vững bền. Ta hãy suy gẫm đều đều, tức Tham thiền, chắc chắn ta sẽ thành công.
Tinh hoa các tôn giáo đều giống nhau, ấy là hành thiện. Chỉ có các nghi lễ, thờ phụng cúng bái, tức là các hình thức bề ngoài khác nhau mà thôi. Tôn giáo nào cũng bắt buộc tín đồ làm các việc lành, tránh các điều ác. Nếu ai không giữ hai điều nầy là sai Đạo, còn phương pháp áp dụng để luyện cho được chơn chánh thì tùy thích mỗi người. Nhưng muốn có được Tâm Đạo, muốn có thói quen về điều lành nào thì phải tưởng mãi điều đó cho đến khi thành thuộc rồi sẽ bắt qua điều khác. Ban đầu thấy dường như chậm chạp, nhưng khi học được điều nào thì chắc chắn không còn quên nữa.
PHÂN BIỆN.
- Khởi đầu, tập tánh phân biện để hiểu rành điều lành và điều dữ. Điều nào mình làm mà người khác được vui, được lợi là Thiện. Điều nào làm cho kẻ khác buồn lòng, đau khổ, bị thiệt thòi là ác. Hiểu được vậy rồi, chỉ còn thực hành. Nhưng muốn thực hành được không phải dễ đâu. Phải tập nhiều năm, nhiều kiếp, mới thi hành được một cách tự nhiên, không so đo, không ngần ngại. Khi ta thấy một người nào làm được việc thiện mà không sợ cực, không sợ bị thiệt thòi, đó là va đã tập thực hành từ nhiều kiếp trước đã quen rồi. Vậy ta phải suy xét, chiêm nghiệm điều thiện hằng ngày, hễ có dịp là suy nghĩ kỹ lưỡng liền, lâu ngày, việc HÀNH THIỆN sẽ trở thành tánh tự nhiên của ta.
Muốn đắc quả mà không tập làm điều thiện là không thể được. Không còn cách nào khác. Nhưng sớm hay muộn gì đến cuối cùng, tất cả nhơn loại cũng phải đi đến mức hành thiện đúng theo luật tiến hóa. Nếu ta bắt đầu bây giờ thì ta thấy còn rộng ngày giờ, được thong thả để luyện tập cho thuần thục, trái lại, nếu đợi đến gần hết hạn kỳ mới lo thì không kịp, hoặc bị luồng sóng tiến hóa xô đẩy vội tới, nên kết quả không trọn vẹn, phải bị bỏ lại trong ‘Cuộc Phán Xét Cuối Cùng’ để chờ kỳ khác thì trễ không biết bao lâu nữa.
Sách nho có dạy: Đừng thấy việc thiện nhỏ mà bỏ qua, cũng đừng thấy việc ác nhỏ mà làm, vì làm được nhiều việc thiện nhỏ thì cũng bằng một việc thiện lớn. Hơn nữa, nếu việc thiện nhỏ mà không làm được thì việc thiện lớn sẽ không bao giờ làm nổi.
Khi ta đã nhất quyết làm điều thiện, chừa điều quấy rồi, ta còn phải biết chọn điều thiện nào đáng làm liền để làm, điều thiện nào ít cần kíp thì nhường lại cho người khác, vì ta không thể làm bao gồm tất cả điều thiện được. Thà ta làm một điều thiện nhỏ mọn mà nó hữu ích liền cho Chơn Sư hơn là tìm những việc mà người đời gọi là lớn lao nhưng không hữu ích mấy. Nuôi người nghèo đói là một việc tốt, cao quý và hữu ích, nhưng nếu nuôi được linh hồn của họ thì càng cao quý và hữu ích hơn. Nếu họ được no ấm mà chưa hiểu Đạo để làm lành thì kiếp sau họ cũng sẽ bị nghèo khổ nữa.
Dầu ta đã khôn ngoan thế mấy đi nữa thì trong đường Đạo cũng còn rất nhiều điều cần phải học, nhất là những điều có thể giúp ích cho thiên hạ mau tiến bộ. Ta phải tìm học mãi cho được Minh Triết, không phải để được người ta khen mình là khôn ngoan, cũng không phải để lợi dụng sự khôn ngoan đặng mưu hưởng hạnh phúc, mà để giúp đời một cách khôn khéo, không lầm lạc.
Trong khi hành nghề thương mãi, ta tìm coi nên buôn bán những thứ gì có thể giúp cho thiên hạ sung sướng về vật chất, nếu được luôn cả tinh thần thì càng quý. Mua bán cần phải phân minh, không bao giờ gạt gẫm khách hàng, không mua cân già, bán cân non, không chưng hàng tốt lại bán tráo hàng xấu, của xấu không kiếm lời trao chuốt gạt người để bán giá cao, nhứt là không đầu cơ trục lợi, làm cho dân lành phải chịu thêm khổ não.
Tóm lại, dầu theo nghề nào cũng tập cho được tánh lương thiện, công bằng. Lúc nào cũng chơn chất thật thà, rồi sau mới tập các chi tiết của Đạo Đức. Không có cuốn kinh nào dạy đủ hết các cách xử sự hằng ngày cho mọi người. Vậy ta phải suy nghĩ để tìm lối hành động riêng, miễn là nó không làm hại ai là tốt rồi.
Phần đông thiên hạ chỉ lo cho quyền lợi riêng tư của mình nên thường làm thương tổn người khác mà không hay, thế là vô tình làm ác, vì vậy ta nên khoan dung cho người, khi gặp ai làm điều gì có thiệt hại cho mình, hoặc nói một lời nào dường như có can hệ đến mình. Ta có thể nghĩ rằng: đó là cơ hội để ta trả một quả xấu và ta sẽ an lòng hết thắc mắc. Nếu gặp ai quạo quọ với ta hoặc vô cớ mà muốn gây gổ với ta thì rõ ràng là va đang có việc bực tức riêng nên khi gặp ta, va nói để hả hơi. Va không còn sáng suốt, ta nên bình tĩnh, nhịn cho qua việc thì sẽ không xảy ra điều gì rắc rối.
KHÔNG NHIỄM TRẦN
Chúng ta cần xác thịt để sinh hoạt ở cõi Trần và phải nhờ có vật chất đặng nuôi dưỡng nó. Nhưng nếu ta quá mê luyến vật chất thì không bao giờ hết khổ và giải thoát được. Phật giáo dạy ‘vạn vật giai không’ để cho tín đồ dứt lòng tham. Dầu cho tận tâm giữ gìn của cải, hoặc dùng đủ phương kế, xảo thuật để thâu góp, thì ngày lâm chung vẫn nắm hai bàn tay trắng. Đến kiếp sau, tùy theo nghiệp quả, linh hồn sẽ đầu thai vào một gia đình tương hợp với tánh nết cũ của ta. Nếu ta tập được những hạnh của nhà Đạo Đức, ta sẽ được ở vào một hoàn cảnh thuận tiện để học hỏi cao thêm. Nếu kiếp trước ta đã biết tu hành rồi thì kiếp nầy không ai ngăn cản nổi sự tu hành của ta. Vậy ta phải sớm tập cho quen tánh KHÔNG HAM MUỐN, tức là DỨT BỎ LÒNG THAM. Đây không phải là sự chán đời, bỏ phế mọi việc, mà trái lại, hăng say hoạt động nhưng không bị dục vọng chi phối; ưa làm việc vì nó cần thiết cho đời, chớ không vì tư lợi, ích kỷ. Tài sản, quyền thế không phải là ta, nó là những phương tiện để ta giúp đời, nếu có càng hay, mà không có cũng không sao, ta tìm kiếm phương tiện khác. Nếu chúng nó mất đi, ta cũng không nên buồn rầu lo sợ. Cho đến xác thân nầy cũng không phải là TA. Nó là dụng cụ để ta làm việc ở cõi Trần, cũng như một con ngựa, một chiếc xe ta dùng để đi đường xa, nếu không săn sóc nó kỹ lưỡng, nó sẽ mau bết, mau hư không còn dùng được, nhưng đừng để chúng sanh chứng xấu bất phục tùng. Sự tử biệt sanh ly là nghiệp quả của Xác, Vía chớ không có gì quan trọng.
Người mới tu chưa làm chủ được Xác, Vía, Trí nên còn làm sái lương tâm. Lương tâm là bản tánh của linh hồn (Chơn Nhơn) không bao giờ sái quấy, còn Xác, Phách, Vía, Hạ Trí, là bốn thể thấp của ta lại quen theo nết cũ, thâu vào để tiến bộ. Chơn Nhơn thì cho ra để tiến hóa, nên bốn thể thấp sợ tiêu hao, mới làm nghịch với linh hồn, nhưng nhiều người không biết.
Thí dụ: khi gặp một việc giúp ai thì xác thân sợ mệt nhọc, tránh né không chịu làm, cho đến công việc hằng ngày, làm để lãnh tiền công mà cũng có kẻ không làm trọn vẹn. Vậy ta phải lo làm cho đúng lương tâm chức nghiệp trước, rồi sau quen tánh siêng năng, ham làm lụng mới có thể vui lòng giúp đỡ kẻ khác không cầu lợi. Ta đã nghe nói Tâm lành hay Chơn Tâm, Đạo Tâm, nghịch với Ác tâm, Phàm tâm, nhưng không hiểu sao cũng là mình mà khi thì hiền lương, chơn chất, có khi lại hung dữ, tham lam, ích kỷ. Cũng là một cái Tâm mà khi thì giống quỉ, giống ma, ưa làm ác, có khi theo Tiên, theo Phật, mến điều Thiện, ưa cứu nhơn độ thế.
Nếu học kỹ bảy thể và tánh tình, bản năng của chúng rồi thì dễ chữa trị các thói hư tật xấu.
Tiên Thể (corps atmique), Kim Thân (corps boudhique) và Thượng Trí (corps mental supérieur), là ba thể tinh vi, cao thượng, tốt đẹp, để cho Chơn Nhơn (Ego) dùng hoạt động ở các cõi Niết Bàn (Plan atmique hay Nirvana), cõi Bồ Đề (Plan boudhique, và cõi Thượng Thiên (Plan mental supérieur). Ba thể nầy không bao giờ nhiễm trần, không chia rẽ. Nếu ta dùng được ba thể nầy thì ta sẽ được cao thượng, sẽ được làm Đệ tử Tiên, vì Thượng Trí không bao giờ có tư tưởng xấu xa, thấp hèn. Kim Thân luôn luôn thể hiện tấm lòng Từ bi, Bác ái, bao la, thấu rõ mọi sự vật, biết được ý muốn của người khác, vì Kim thân của mọi người là một, liên quan mật thiết với nhau. Ai sử dụng được Kim Thân là có Trực Giác, người ta cũng gọi là có Huệ. Còn Tiên Thể có một ý chí hoạt động ích lợi chung cho tất cả thiên hạ. Ba thể nầy luôn luôn phản ảnh xuống bốn thể thấp, nhưng người thường chưa trau giồi Xác, Phách, Vía, Hạ Trí, nên chưa hưởng được các sự tốt đẹp và lợi ích của ba thể cao nầy. Vậy khi có công tác gì, thì ta nhắc Xác thân nhớ chí cương quyết của Tiên Thể, khi ham muốn thì ta nhớ Kim Thân có tánh bao dung, từ bi, bác ái, chớ không ích kỷ, người ta còn gọi là Phật tánh, khi tính toán điều gì thì nhớ Hạ Trí phải cao quí như Thượng Trí, không chia rẽ, kiêu căng, phách lối.
Nếu được như thế thì ngày Điểm Đạo không còn xa. (Cái Phách thuộc về Xác Thân, nên người ta chỉ nói có ba thể thấp).
Phương pháp tập luyện để ba thể thấp phải tùng phục ta không khó, chỉ e ta không bền chí thực hành. Hễ dẹp được lòng ích kỷ rồi thì mọi việc sẽ trôi chảy.
Tánh ích kỷ có thiên hình vạn trạng. Thí dụ: ta muốn giúp ai thì sợ người đó không biết công khó của mình, không nhớ ơn mình. Tặng cho ai một món đồ thì muốn người đó phải quí trọng nó luôn. Ta không muốn bạn thân của ta chơi thân với ai khác nữa, v.v. . .
Ta đừng nhớ công lao đã giúp người, cũng đừng mong đợi người trả ơn. Chúng ta xả thân giúp đời bởi chúng ta không thế nào làm khác hơn được. Hễ ta siêng năng làm lụng, không ích kỷ, không cần ai hoan nghinh, không màng danh, lợi, quyền, lúc nào cũng ôn hòa, vui vẻ, chỉ mong cho đời được hạnh phúc, trí mãi mê toan tính cho thiên hạ được tiến bộ, không còn một tư tưởng xấu lai vãng, thì ta đã làm chủ được bốn thể thấp. Ta còn phải đề phòng khi Trí hiểu Đạo khá cao thì nó sanh ra kiêu căng, ngạo mạn, khinh thường kẻ khác. Khi nó không mê thích việc Trần, nó sanh ra ích kỷ tinh vi hơn, nó chỉ chú ý đến sự tiến hóa riêng của mình chớ không lo việc của Chơn Sư và giúp đỡ kẻ khác. Khi làm chủ được bốn thể thấp rồi thì ta sẽ hết nhiễm Trần.
CÁC TÁNH TỐT CĂN BẢN
Người tu hành phải tập cho được những tánh tốt căn bản như: AN PHẬN, TRẦM TĨNH, KHOAN DUNG, BỀN CHÍ, LÒNG TỪ ÁI, và khi có được các tính tốt nầy rồi thì tự nhiên sẽ có được nhiều đức tính khác.
AN PHẬN. –Ta phải can đảm chịu đưng mọi nỗi bất công mà riêng phần ta phải gánh. Ta vui lòng trả quả, dầu nặng thế nào cũng không sợ vì các vị cầm cân tội phước (Nam Tào, Bắc Đẩu) thấy ta đáng được nhồi quả nên đưa cơ hội đến cho ta. Người mới tu thường gặp may mắn để họ vui mà tu, nhưng khi tu đã lâu, ý chí khá vững mới đến lúc nhồi quả. Nhờ vậy ta mới mau dứt nghiệp quả. Có khi ta phải mất những vật mà ta quí trọng nhất, hoặc những người mà ta yêu mến nhất. Ta phải bền chí thi hành phận sự dầu bị thất bại liên miên, như thế mới khỏi bị chậm trễ trên đường Đạo. Ta phải TRẦM TĨNH trong mọi việc. Bất kỳ gặp trường hợp nào, tâm ta cũng không hề xao xuyến, ta không còn hờn giận, bối rối mà bền vững chịu đựng những chuyện buồn bực hằng ngày, tránh được những sự lo lắng viễn vông, làm cho ta mất nhiều thì giờ vô ích. Ta coi những việc từ ngoài xảy đến như bệnh tật, khó khăn, hao tốn, tử biệt, sanh ly, đều không quan trọng. Đó là quả báo của những kiếp trước.
KHOAN DUNG.- Tánh khoan dung lại càng quan trọng hơn. (Nhiêu, nhiêu, nhiêu, thiên tai vạn sự nhất thời tiêu). Là người thường, ai cũng có lúc lầm lỗi, chỉ trừ bậc Tiên Trưởng trở lên mới toàn thiện. Vậy ta nên khoan dung người làm quấy đối với ta. Ta rộng rãi thì người mới cảm mến ta và mới có hy vọng một ngày kia, người sẽ trở nên tốt không còn quấy nữa. Hồi ta chưa hiểu Đạo thì cũng sai lầm như họ vậy. Ta phải BỀN CHÍ lâu ngày mới thấy kết quả.
Ta cương quyết theo con đường TỪ BI BÁC ÁI nên ta phải tránh NÓI HÀNH, tức là không lập lại cho người khác nghe những tội lỗi của ai cả, vì khi ta nhớ đến điều quấy đó thì ta sanh thêm tư tưởng xấu chung quanh ta và làm khổ cho đời. Ta sẽ giục người quấy đó tăng thêm tánh xấu và chính ta cũng bị tư tưởng xấu đó làm ngăn trở sự tiến bộ của ta, nó làm ta mất vui tươi. Nếu kẻ bị nói hành đó không có quấy như vậy, thì thành ra ta NÓI VU , tội ta càng thêm trọng. Ta tránh làm ác đối với nhơn loại và luôn cả thú vật nữa. Ta đừng làm cho chúng nó bị đau khổ mới thật có lòng nhơn. Vì vậy ta ăn chay trường được càng tốt. Ta nên suy xét luôn luôn (tham thiền) để tránh sự vô ý làm ác. Ta không thốt ra những lời thô lỗ, cộc cằn, làm người khổ tâm, vì đó cũng là một tội ác. Phát lương trễ cũng có tội, vì biết đâu do sự trễ nải đó mà lắm người bị khổ, phải lỡ vỡ công việc làm ăn. Có một tội ác rất lớn do sự DỊ ĐOAN là giết thú vật để cúng tế, mong hối lộ Thánh Thần để cầu phước.
Tóm lại, ta phải tránh các tội ác như NÓI HÀNH, HUNG DỮ, DỊ ĐOAN, và phải lo PHỤNG SỰ. Ý chí, Minh Triết và Từ Ái là ba trạng thái của Đức Chí Tôn. Muốn có ba đức tánh nầy thì phải học và suy nghĩ liên tục (tham thiền), vì tư tưởng có quyền năng giúp ta sửa đổi các việc xấu thành ra tốt.
KẾT LUẬN
Theo như sự trình bày ở trên, ta thấy ĐỜI và ĐẠO không thể tách rời nhau được. Nếu ta chỉ sống theo Đời, mãi đắm say vật chất, nuôi dưỡng những dục vọng ích kỷ, đê hèn, thì nghiệp quả chất chồng và phải luân hồi đau khổ không biết đến bao giờ mới dứt.
Còn người theo Đạo mà phế bỏ việc đời, coi như mình không có nhiệm vụ gì đối với thế gian, thì chưa làm xong bổn phận của người tu, cũng chưa giải thoát được.
Người tu hành muốn được đắc đạo giải thoát, cần phải quên mình để lo cho đời, phải chia sớt, gánh vác một phần nghiệp quả của Trần gian. Phải xem gương Đức Chúa đã hy sinh thân mình chịu khổ cho nhân loại và Đức Thích Ca dầu đã đắc quả Phật, nhập Niết Bàn mà mỗi năm Ngài vẫn còn hiện xuống thế gian một lần để ban ân huệ cho đời.
Trái lại, người đời muốn diệt trừ phiền não, thoát đọa Luân hồi chỉ có một phương duy nhứt là dứt bỏ lòng trần, lo lánh dữ, làm lành, tu dưỡng tánh tình và rửa lòng cho trong sạch, nghĩa là phải tìm vào cửa ĐẠO. Chúng ta đừng quên rằng bao giờ ĐỜI và ĐẠO cũng liên quan.
TRÚC LÂM và TRI THIỆN cư sĩ.
MỤC ĐÍCH CỦA HỘI THÔNG THIÊN HỌC
-------
1/- Xây dựng tình HUYNH ĐỆ ĐẠI ĐỒNG giữa nhơn loại, không phân biệt nòi giống, giai cấp, nam nữ hoặc tín ngưỡng.
2/- Khuyến khích sự nghiên cứu các Tôn giáo đối chiếu, Triết học và Khoa học.
3/- Nghiên cứu những luật thiên nhiên chưa giải thích được và các quyền năng ẩn tàng ở trong con người.
Vị nào chỉ tán đồng một mục đích thứ nhất cũng có thể được nhận làm hội viên.
498 , Võ Di Nguy Phú Nhuận SÀI GÒN