CHƯƠNG BỐN
Vị mẫu thân của Chân Sư Tuệ Minh – Một buổi dạ tiệc với các Chân Sư – Người thiếu phụ đẹp tuyệt trần – Tình Bác Ái thiêng liêng.
I
Trong năm ngày kế đó, con đường của chúng tôi đi xuyên qua vùng mà ngày xưa Thánh Jean đã từng đi qua. Qua ngày thứ năm, chúng tôi đến nơi thôn ấp mà những người giữ ngựa đã ở lại để chờ đợi chúng tôi. Đức Tuệ Minh đã có mặt tại đây và kể từ lúc đó, cuộc hành trình được tương đối dễ dàng cho đến khi chúng tôi đến nơi làng của ngài sinh trưởng. Khi gần đến làng, chúng tôi nhận thấy vùng này có khá đông dân cư, những đường lộ và đường mòn đều tốt hơn những đường mà chúng tôi đã đi qua từ trước đến giờ. Nhưng trong những giờ kế đó, chúng tôi đi qua một vùng cao nguyên lồi lõm với một địa thế vô cùng cheo leo hiểm trở. Làng có tường đá bọc chung quanh như thành quách để làm hệ thống phòng thủ.
Người ta nói rằng vùng này trước kia là nơi cư trú của một bộ lạc thổ dân sống biệt lập với thế giới bên ngoài; về sau họ đã lần lần biệt tích và không còn để lại dấu vết. Một thiểu số còn lại đã xáp nhập với những bộ lạc khác ở quanh vùng. Đó là nơi quê hương của đức Tuệ Minh và là nơi mà các đoàn viên của phái bộ chúng tôi hẹn gặp nhau trở lại. Những đoàn viên này đã chia ra từng toán nhỏ để thi hành công tác trên một vùng lãnh thổ rộng lớn.
Khi hỏi lại thì được biết rằng chúng tôi là toán đến đây trước tiên, và những toán khác cũng sẽ đến nơi nội trong ngày hôm sau. Chúng tôi được chỉ định nơi trú ngụ trong một ngôi nhà ba tầng lầu dựa vách tường làng. Người ta dọn cho chúng tôi một nơi tạm nghỉ khá tiện nghi và cho biết rằng bữa cơm chiều sẽ được dọn ra ở từng dưới. Khi chúng tôi bước xuống từng dưới thì thấy ngồi quanh bàn ăn có bà chị của đức Tuệ Minh, chồng bà, và hai người con mà chúng tôi đã gặp gỡ tại ngôi đền, cùng với đức Tuệ Minh cũng hiện diện tại đó.
Chúng tôi vừa dùng cơm chiều xong, thì nghe có tiếng động trước sân nhà. Một dân làng đến cho hay rằng một trong các toán đoàn viên vừa mới đến. Đó là toán của vị trưởng nhóm Tô Mặc. Người ta dọn bữa ăn chiều cho họ và xếp đặt cho họ nghỉ lại ban đêm cùng với chúng tôi, kế đó tất cả chúng tôi đều bước lên trên nóc bằng của ngôi nhà. Tuy mặt trời đã lặn, nhưng bóng hoàng hôn hãy còn phảng phất, và trời chưa tối hẳn.
Trong khi chúng tôi đang bình luận về giá trị phòng thủ của bức tường rào chung quanh làng, thì bà chị và cô cháu gái của đức Tuệ Minh đến với chúng tôi. Một lát sau đó, người anh rể và người cháu trai của ngài cũng đến. Chúng tôi nhận thấy các vị tỏ dấu băn khoăn mong đợi một sự gì, và bà chị của đức Tuệ Minh bèn nói cho chúng tôi biết rằng chiều nay bà trông đợi một cuộc viếng thăm của thân mẫu bà. Bà nói:
-Chúng tôi sung sướng đến nỗi cầm lòng không đậu, vì lòng yêu mến của chúng tôi đối với mẫu thân thật đậm đà dường nào. Chúng tôi yêu mến tất cả những người sống đời sống tâm linh cao cả, vì tất cả các vị ấy đều có tâm hồn cao quý và thiêng liêng. Nhưng thân mẫu chúng tôi còn có lòng từ bi, nhân hậu, vị tha, cứu đời đến nỗi chúng tôi không thể nào yêu mến bà gấp ngàn lần. Vả lại, chúng tôi đối với bà còn có tình mẫu tử, cốt nhục. Chúng tôi biết rằng các ông cũng sẽ yêu mến bà như vậy.
Chúng tôi hỏi đức bà có thường đến đây không, thì được đáp:
-Có chứ! Mẫu thân thường đến luôn luôn khi nào chúng tôi cần đến bà. Nhưng bà mắc bận rộn công việc trong lãnh vực hoạt động của bà nên bà chỉ đến đây một năm có hai lần, và ngày hôm nay chính là ngày thăm viếng định kỳ của bà. Lần này bà sẽ ở lại với chúng tôi một tuần. Chúng tôi sung sướng đến nỗi không còn biết làm gì trong khi chờ đợi.
Câu chuyện xoay qua những kinh nghiệm của chúng tôi kể từ khi chúng tôi chia nhau đi riêng từng toán, và cuộc thảo luận đang đến hồi sôi nổi thì thình lình một cơn im lặng xâm chiếm lấy chúng tôi. Trước khi nhận biết điều đó, tất cả chúng tôi đều ngồi im không ai nói gì và cũng không ai nghĩ ngợi điều gì. Bóng tối của ban đêm đã bao trùm khắp nơi, và dãy núi tuyết ở xa xa coi giống như một con quái vật khổng lồ. Kế đó chúng tôi nghe một tiếng động nhẹ, giống như tiếng con chim sẻ đậu dưới đất. Một đám sương mù dường như đông đặc lại từ từ ở hướng đông của vách tường rào, rồi thình lình tượng hình một cách rõ rệt. Trước mặt chúng tôi lúc đó là một người đàn bà nhan sắc diễm kiều bao phủ bởi một vòng hào quang sáng chói đến nỗi chúng tôi không thể nhìn thấy rõ tận mắt.
Cả gia quyến đều đổ xô về phía người đàn bà ấy, hai tay đưa thẳng ra phía trước và đồng thanh kêu to:
-Mẫu thân!
Bà Mã Ly nhẹ nhàng từ bờ tường bước xuống sân thượng và ôm hôn mỗi người trong thân quyến như mọi người hiền mẫu trong dịp tái ngộ với con cái. Kế đó, chúng tôi được giới thiệu với bà. Bà nói:
-À! Các ông là những huynh đệ từ Mỹ quốc xa xôi đến đây để thăm viếng chúng tôi ? Tôi rất sung sướng chúc mừng các ông. Chúng tôi ban rải tình thương cho tất cả, và nếu những người đàn ông sẵn lòng để cho chúng tôi tự nhiên, thì chắc hẳn là chúng tôi cũng ôm lấy họ trong vòng tay như tôi vừa đón mừng những người mà tôi gọi là thân bằng quyến thuộc của tôi. Vì thật ra chúng ta chỉ là thành phần của một đại gia đình, tức là gia đình những người con của Thượng Đế. Vậy tại sao chúng ta không thể sum họp tất cả với nhau như anh em một nhà?
Chúng tôi vừa nhận thấy rằng thời tiết miền núi về đêm cũng khá lạnh. Nhưng khi đức bà Mã Ly xuất hiện, thì sự hiện diện của bà tỏa ra một mãnh lực nó biến đổi bầu không khí nơi đây trở thành bầu không khí của một đêm mùa hè. Khí trời dường như đượm mùi hương của bông hoa. Một ánh sáng dịu giống như ánh trăng rằm thấm nhuần mọi vật, và làm cho cảnh vật chung quanh được bao phủ trong một sự ấm cúng lạ lùng khó tả. Tuy nhiên, các Chân Sư không biểu lộ một cử chỉ nào gọi là kiểu cách. Các Ngài có một lối xử sự thật khả ái hồn nhiên và vô cùng giản dị.
Có người đề nghị đi xuống nhà dưới. Đức bà Mã Ly và các bà phu nhân dẫn đường đi trước. Chúng tôi nối gót đi theo sau, và những người gia nhân đi sau cùng. Trong khi chúng tôi đi xuống cầu thang như thường lệ, chúng tôi nhận thấy rằng bước chân chúng tôi không gây nên một tiếng động nào. Tuy nhiên, chúng tôi không hề cố gắng giữ im lặng. Một người trong chúng tôi còn thú thật là y đã thử đi nặng bước nhưng cũng không gây tiếng vang. Dường như bàn chân chúng tôi đi không chấm đất trên sân thượng hay trên những nấc cầu thang.
Trên tầng lầu các buồng ngủ, chúng tôi bước vào một gian phòng trang hoàng rất đẹp và ngồi an tọa. Chúng tôi liền nhận thấy một sự ấm áp dễ chịu, và một ánh sáng dịu tỏa khắp phòng, mà chúng tôi không hiểu từ đâu đến. Gian phòng đắm chìm một lúc trong một cơn im lặng thâm trầm, kế đó đức bà hỏi thăm chúng tôi có chỗ nghỉ đàng hoàng tươm tất không, có được săn sóc tử tế không, và cuộc hành trình có làm chúng tôi được thỏa mãn không?
Chúng tôi nói chuyện thường về cuộc đời hằng ngày, mà bà có vẻ rất thành thạo. Kế đó câu chuyện xoay về vấn đề đời sống của chúng tôi trong gia đình. Đức bà kể tên họ của cha mẹ, và anh chị em trong gia đình chúng tôi, và làm chúng tôi ngạc nhiên bằng cách diễn tả cuộc đời chúng tôi từng chi tiết mà không hỏi chúng tôi một câu nào. Đức bà kể những xứ mà chúng tôi đã viếng thăm, những công trình mà chúng tôi đã thực hiện, và những lỗi lầm mà chúng tôi đã mắc phải. Đức bà không nói một cách mơ hồ nó bắt buộc chúng tôi phải ráng nhớ lại những kỷ niệm cũ, mà trái lại mỗi chi tiết đều rõ ràng dường như chúng tôi sống lại những giai đoạn đã qua.
Khi các vị quý khách kiếu từ để lui về phòng riêng, chúng tôi đều bày tỏ sự ngạc nhiên mà nghĩ rằng không có ai trong các vị đã sống ít hơn một trăm tuổi, và đức bà đã có bảy trăm tuổi, trong số đó bà đã trải qua sáu trăm năm trên địa cầu và sống trong thể xác vật chất. Tuy vậy, tất cả các vị đều đầy nhiệt tính và vui tươi như ở tuổi hai mươi, điều đó thật là tự nhiên và không kiểu cách hay gượng ép chút nào. Mọi việc đã xảy ra dường như chúng tôi sống chung với những giới người trẻ.
Trước khi lui gót để về phòng riêng, các vị đã cho chúng tôi biết trước rằng sẽ có đông quan khách đến dự bữa ăn tại quán trọ chiều ngày hôm sau, và chúng tôi cũng được mời tham dự.
II
Trưa hôm sau, tất cà các toán trong cuộc hành trình của chúng tôi đều về đến nơi. Chúng tôi trải qua suốt buổi chiều hôm đó để đối chiếu những bản ghi nhận của chúng tôi và thấy mọi sự đều ăn khớp nhau một cách đúng đắn. Khi mọi việc đã xong xuôi, chúng tôi được mời đi thẳng đến quán trọ để dùng cơm chiều. Khi đến quán trọ, chúng tôi thấy có độ ba trăm người ngồi chung quanh những bàn tiệc dài. Người ta dành cho chúng tôi những chỗ ngồi ở một đầu của gian phòng. Tất cả những bàn ăn đều có trải khăn bàn bằng vải trắng mịn rất đẹp, trên có bày chén đĩa bằng bạc và bằng sứ như một bữa dạ tiệc long trọng, tuy nhiên chỉ có một cái đèn nhỏ duy nhất để thắp sáng khắp phòng.
Sau khi chúng tôi đã ngồi an tọa được chừng hai mươi phút và tất cả các chỗ ngồi đều đầy đủ những quan khách trừ ra một vài chỗ còn trống ở rải rác đó đây, một cơn im lặng thâm trầm ngự trị khắp phòng và trong khoảnh khắc một ánh sáng nhạt mờ đã tỏa ra khắp chốn. Ánh sáng ấy mỗi lúc càng tỏ rạng thêm dường như hằng nghìn bóng đèn điện ẩn dấu một cách khéo léo ở đâu đây đã từ từ được thắp lên. Gian phòng trong giây lát đã trở nên sáng rực, và tất cả các đồ vật đều chiếu rạng ngời. Về sau chúng tôi được biết rằng làng này không hề có hệ thống cung cấp điện lực.
Sau đó, cơn im lặng kéo dài độ một khắc đồng hồ; hình như có một đám sương mù từ từ đông đặc lại, chúng tôi nghe một tiếng động nhẹ giống như ngày hôm trước, rồi thình lình xuất hiện bà Mã Ly, thân mẫu của đức Tuệ Minh. Đám sương mù tan dần, và chúng tôi thấy cùng đứng rải rác trong gian phòng, bà Mã Ly và mười một người khác, gồm có chín người nam và hai người nữ. Tôi không biết dùng danh từ nào để diễn tả cái đẹp của cảnh tượng ấy. Thật không phải là quá đáng nếu tôi nói rằng những nhân vật ấy đã xuất hiện như một đoàn thiên thần, nhưng không có cánh. Các vị đứng yên trong một lúc, đầu hơi nghiêng về phía trước, trong một cử chỉ chờ đợi. Kế đó, vang lên những âm thanh của một ban hợp ca vô hình kèm theo một điệu nhạc thanh tao huyền diệu nhất mà người ta có thể tưởng tượng. Tôi đã từng nghe nói về nhạc điệu thần tiên, nhưng chưa hề được nghe bao giờ; cho đến ngày hôm ấy, tôi mới biết thế nào là những âm thanh của cõi Trời. Có thể nói rằng chúng tôi nghe nhạc điệu ấy mà có cảm giác như cất nhẹ mình lên khỏi mặt ghế.
Sau bản hợp ca, mười hai vị đều bước đến chỗ ngồi của mình. Chúng tôi lại có dịp nhận thấy rằng các vị bước đi êm ru như không gây tiếng động, tuy rằng các vị không có làm một cố gắng đặc biệt nào để giữ im lặng. Khi các vị đã an tọa, một đám sương mù giống như lúc nãy lại xuất hiện, và lại tan dần, rồi mười hai vị khác nữa xuất hiện, gồm có một người nữ và mười một người nam, trong số đó có vị sư tổ, tác giả các văn kiện. Các vị đứng yên một lúc, và giọng hợp ca vô hình lại trổi lên một lần thứ nhì. Sau bài hát, mười hai vị bước đến chỗ ngồi và cũng không gây một tiếng động. Khi các vị vừa an tọa, đám sương mù lại xuất hiện một lần thứ ba, và khi nó vừa tan thì mười ba vị khác đứng xếp thành hàng, sáu người nam và bảy người nữ, xuất hiện ở đầu kia của gian phòng.
Ở chính giữa là một thiếu phụ trẻ dưới hai mươi tuổi, với ba người nam và ba người nữ đứng ở hai bên. Tất cả những người nữ đã xuất hiện cho đến khi đó đều rất đẹp, những người thiếu phụ này lại còn đẹp hơn tất cả các vị khác. Mười ba vị đến sau cũng đứng yên một lúc, đầu hơi nghiêng và nhạc điệu lại trổi lên lần nữa. Sau vài điệp khúc, tiếng hợp ca lại hòa điệu với âm nhạc. Chúng tôi đứng dậy, và trong khi nhạc khúc vẫn tiếp diễn, dường như chúng tôi thấy hàng ngàn hình bóng thần tiên vừa múa lượn chung quanh vừa hát theo một lượt. Không có giọng hát nào buồn, cũng không có một âm điệu bi thương. Nhạc điệu trổi lên với những âm thanh vui tươi nhẹ nhàng, xuất phát tự tâm hồn và truyền cảm đến người nghe, làm cho tâm hồn chúng tôi được nâng cao lần lần cho đến khi chúng tôi có cảm giác như lâng lâng thoát tục.
Sau điệu hợp ca, mười ba vị mới đến sau bước tới chỗ ngồi và an tọa, nhưng nhãn quang chúng tôi không thể tách rời khỏi nhân vật ở chính giữa, người thiếu phụ đẹp tuyệt trần này tiến đến bàn của chúng tôi cùng với hai người nữ khác đi kèm ở hai bên. Thiếu phụ ngồi an tọa cùng với hai vị đi kèm ở đầu bàn của chúng tôi. Người ta mau đặt một chồng dĩa ở bên tay trái của thiếu phụ. Ánh sáng trong phòng lu mờ trong một lúc, và chúng tôi nhận thấy chung quanh mỗi người trong ba mươi sáu vị đã xuất hiện, đều có một vầng ánh sáng nó làm cho chúng tôi ngạc nhiên, và một vầng hào quang đẹp lộng lẫy chói sáng trên đầu của vị nữ quý khách danh dự. Trong cử tọa, chúng tôi là những người duy nhất bị xúc động sâu xa bởi cảnh tượng này, còn những vị khác thì không thấy gì là khác thường.
Khi tất cả mọi người đều an tọa, cơn im lặng kéo dài một lúc trong gian phòng, kế đó phần đông những người có mặt đều cất tiếng hợp ca một nhạc khúc vui tươi dưới sự điều khiển của ba mươi sáu vị đã xuất hiện. Khi bài hợp ca chấm dứt, vị nữ quý khách danh dự đứng dậy đưa hai bàn tay ra, thì thấy xuất hiện trên tay bà một ổ bánh mì nhỏ dài độ ba tấc rưỡi, đường kính độ năm phân tây. Mỗi người trong 36 vị đều đứng dậy, bước đến gần bà, và nhận được một ổ bánh mì tương tự. Kế đó, các vị đi vòng quanh tất cả các bàn để phân phát cho mỗi người một mẩu bánh mì. Người thiếu phụ cũng làm y như vậy ở tại bàn chúng tôi.
Vừa phân phát bánh mì cho chúng tôi, bà nói:
-Các bạn có biết chăng Đấng Christ ngự trong các bạn cũng như trong mỗi người? Các bạn có biết chăng thân thể các bạn vốn trong sạch, hoàn hảo, trẻ trung, luôn luôn tốt đẹp và thiêng liêng? Các bạn biết chăng Chúa Trời đã tạo ra các bạn đúng theo hình ảnh của Ngài và giống y như Ngài, và đã ban cho các bạn quyền năng đối với mọi vật? Trong bản chất, các bạn luôn luôn là một Đấng Christ, Con của Chúa Trời. Các bạn vốn tinh khiết, toàn hảo, thánh thiện, thiêng liêng, hợp nhất với Chúa Trời là Đấng Trọn Lành. Và mỗi người Con của Ngài đều có quyền tuyên bố sự hợp nhất và sự thiêng liêng đó.
Sau khi đã ban cho chúng tôi mỗi người một mẩu bánh mì, thiếu phụ bèn an tọa. Ổ bánh mì nhỏ của bà vẫn còn nguyên vẹn như trước khi chia cho chúng tôi. Khi cuộc lễ khai mạc chấm dứt, thì thức ăn bắt đầu được đem tới. Thức ăn đến với mọi người trong những cái tộ lớn có đậy nắp, những tộ này xuất hiện trước mặt các vị nữ khách dường như được đặt bởi những bàn tay vô hình. Người thiếu phụ mở các nắp tộ để qua một bên, và bắt đầu múc thức ăn ra dĩa. Mỗi khi múc đầy một dĩa, bà đưa luân phiên qua hai vị nữ khách ngồi hai bên, hai vị này chuyền dĩa khắp các bàn, và tất cả các quan khách đều được cung cấp thức ăn đầy đủ. Khi đó các quan khách bắt đầu ăn và nhận thấy thức ăn rất ngon.
Khi bữa ăn vừa bắt đầu, Tô Mặc hỏi thiếu phụ rằng theo bà thì đức tính nào của Thượng Đế là cao quý nhất. Không chút do dự, bà đáp:
-Tình Thương.- Kế đó bà nói tiếp- Cái “Cây Sinh Hoạt” vốn ở giữa cõi Thiên Đàng của Chúa Trời, ở tận nơi thâm sâu nhất trong tâm hồn con người. Trái cây phong phú tốt lành nó mọc và trở nên chín mùi một cách toàn vẹn nhất, trái cây ngon lành và bổ dưỡng nhất, chính là Tình Thương. Những người nhận thức được chân tính của nó, đã định nghĩa nó như là vật cao cả nhất trên thế gian. Tôi xin nói thêm rằng đó là cái mãnh lực hàn gắn cứu chữa lớn nhất trên đời. Tình thương không bao giờ làm ngơ trước sự đòi hỏi của lòng người. Người ta có thể sử dụng nguyên tắc thiêng liêng của Tình Thương để đáp ứng tất cả những nhu cầu của nhân loại và loại trừ mọi sự buồn thảm, tật ách, và những sự lầm than thống khổ của người đời.
Nhờ hiểu biết và sử dụng Tình Thương đúng chỗ, nhờ ảnh hưởng tế nhị và vô biên của Tình Thương, tất cả những vết thương của thế gian có thể được chữa khỏi. Tình bác ái thiêng liêng có thể sửa chữa, hàn gắn tất cả mọi sự bất hòa, vô minh và tội lỗi của nhân loại. Khi Tình Thương chan hòa khắp chốn, nó thức động đến những nơi khô khan tẻ lạnh của lòng người và những nơi khốn khổ của cuộc đời. Tình Thương có thể cứu chuộc được nhân loại và biến cải thế gian như một phép mầu. Tình Thương là Thượng Đế, nó vốn trường cửu, vô biên, bất biến, rộng rãi và bao la ngoài mọi sự tưởng tượng.
Bạn bị đè bẹp dưới áp lực nặng nề của cuộc đời hằng ngày chăng? Bạn cần có lòng can đảm và sức mạnh tinh thần để đối phó với những nỗi khó khăn trắc trở của mình chăng? Bạn bị đau ốm, sợ hãi chăng? Nếu vậy, bạn hãy nâng cao tâm hồn và cầu nguyện Đấng Tối Cao chỉ đường cho bạn. Tình Thương bất diệt của Thượng Đế che chở cho bạn, bạn không cần phải sợ sệt gì cả. Đức Chưởng Giáo há chẳng nói rằng: “Trước khi ngươi khấn nguyện, Ta đã đáp ứng, trước khi ngươi nói dứt lời, Ta đã nghe”.
Bạn hãy can đảm tiến đến gần Ngài, bạn hãy từ bỏ thái độ cầu khẩn van xin của mình, hãy cầu nguyện với một đức tin minh mẫn, và biết rằng sự giúp đỡ mà bạn cần, đã được ban bố cho bạn. Bạn đừng bao giờ nghi nan. Bạn hãy có làm hơn thế nữa, hãy đòi hỏi. Bạn hãy tuyên bố như Đức Jesus cái quyền được sinh trưởng làm con của Chúa Trời. Hãy biết rằng có một khí Hạo Nhiên vô hình bao trùm khắp vũ trụ, trong đó chúng ta đang sống và tiến hóa. Trong chất Tiên Thiên Khí đó, có tất cả những vật tốt lành và toàn hảo mà con người có thể mong muốn. Những vật tốt lành đó chỉ đợi đến khi nào con người biểu lộ đức tin của y, để xuất hiện dưới hình thức rõ ràng và cụ thể.
Bạn hãy nhớ chuyện vua Salomon trong đêm kinh nghiệm huyền linh của ngài, khi ngài nâng cao tâm hồn lên tận cõi tâm thức vũ trụ, khi đó ngài cầu xin cho cuộc đời ngài tránh khỏi thói ích kỷ và dành cho công việc phụng sự nhân loại. Việc ấy đã đem đến cho ngài những kho tàng của cải vô tận, không kể những danh vọng mà ngài không bao giờ dám nghĩ tới. Ngài đã nhìn nhận sự minh triết của Tình Thương, và Tình Thương đã ban rải cho ngài những của cải kho tàng phong phú vô tận. “Tiền bạc không có giá trị gì dưới thời đại của vua Salomon”. Thậm chí, đồ chén dĩa của vị vua đầy lòng bác ái đó cũng được đúc bằng vàng khối. bạn rải Tình Thương, tức là mở rộng cửa kho vô tận chứa đầy những kho tàng vàng bạc của Thượng Đế. Người nào đã biết thương yêu đồng loại, không thể không cho ra. Nhưng cho, tức là được. Đó là cái tác động của luật Bác Ái. Khi ta đem cho, chúng ta vận chuyển cái định luật bất di dịch này là “Cho bao nhiêu, được bấy nhiêu”. Khi người ta cho ra mà không có hậu ý muốn thu nhận, người ta không khỏi được nhận lãnh, vì những gì ta đem cho sẽ được hoàn trả lại cho ta một cách dồi dào do sự tác động của luật Nhân Quả. “Bạn hãy cho, rồi bạn sẽ nhận được với một dung lượng đầy tràn, dồi dào, phong phú gấp bội…”
Nếu chúng ta hành động với tinh thần Bác Ái, ta phải làm sao cho Thượng Đế hiện diện trong lương tri của chúng ta. Đồng hóa với Sự Sống, Tình Thương và Minh Triết, tức là tiếp xúc một cách có ý thức với Thượng Đế, tức là nhận được một cách sung mãn, dồi dào giống như những thức ăn dồi dào mà chúng ta đã thọ lãnh hồi chiều nay. Các bạn thấy rằng sự sung túc được dành cho tất cả mọi người và không ai là người bị thiếu thốn.
Luật Trời luôn luôn tác động một cách trường cửu, nó luôn luôn vẫn y như thế, bây giờ cũng như bao giờ. Luôn luôn bất biến không hề dời đổi, Luật Trời bao giờ cũng vẫn tốt lành. Nếu chúng ta sống thuận theo Thiên Ý, thì Luật Trời sẽ trở nên những nền tảng vững chắc để cho chúng ta xây dựng sức khỏe, hạnh phúc, sự bằng an, sự quân bình và sự thành công. Nếu chúng ta hoàn toàn sống thuận theo Luật Trời thì không một tai họa đau khổ nào có thể xảy đến trong đời chúng ta. Chúng ta không cần được cứu chữa khỏi bệnh tật nào cả, vì chúng ta vốn lành mạnh từ sợi tóc chí đến đầu móng chân.
Chúng ta hiểu rõ niềm khát vọng sâu xa, nó ray rứt trong tâm hồn của nhân loại! Không gì có thể chữa khỏi sự nhớ nhung ray rứt đó, trừ ra một sự thông hiểu rõ ràng, một ý thức rõ rệt về đấng Cha Lành của chúng ta, là Chúa Trời vậy. Không có một sự mong mỏi khát khao nào sống động trong linh hồn con người cho bằng sự khát khao mong mỏi được biết Thượng Đế. “Và được biết Thượng Đế, tức là đạt tới sự sống trường cửu”.
Chúng ta thấy những người luôn luôn lao chao, bôn tẩu, để hy vọng tìm thấy sự yên tĩnh trong tâm hồn bằng cách thực hiện một vài công trình nào đó, hay tìm sự yên vui trong việc chiếm hữu một tài sản vật chất nào đó, mà tài sản ấy hiển nhiên là một vật hữu hình hữu hoại. Chúng ta thấy họ theo đuổi và cũng đạt được những mục đích đó, nhưng rốt cuộc họ vẫn không được thỏa mãn. Có người tưởng tượng rằng họ cần có nhà cửa, đất ruộng; có người nghĩ rằng họ cần có một gia tài to lớn; những người khác cho rằng họ cần có sự hiểu biết và kiến thức dồi dào. Chúng ta có cái vinh dự được biết rằng con người vốn sở hữu tất cả những thứ ấy ở tự nơi mình…
Thiếu phụ im lặng trong một lúc, kế đó một người trong chúng tôi đứng dậy đưa câu hỏi về luật tương đối và được thiếu phụ giải đáp thỏa đáng.
Câu chuyện chấm dứt tại đó. Bữa ăn chiều đã xong, người ta dọn bàn ghế ra khỏi phòng. Khi đó bắt đầu một giai đoạn giải trí, có vũ và nhạc. Âm nhạc do khúc hợp ca vô hình trổi lên, và tất cả chúng tôi đều cùng nhau trải qua một giờ vui vẻ trước khi chia tay.
Chúng tôi ở lại làng này hết ba ngày, trong khi đó chúng tôi đã thấy lại một số lớn những vị quý khách đã xuất hiện đến với chúng tôi trong đêm trước. Chiều ngày thứ ba, các vị xin cáo biệt và hứa sẽ gặp lại nhau tại căn cứ điểm mùa đông của chúng tôi, kế đó các vị biến mất dạng.
III
Sáng ngày hôm sau, chúng tôi rời khỏi làng và đi trong ba ngày trên một đường mòn xuyên qua một vùng núi non gồ ghề hiểm trở, dân cư thưa thớt đến nỗi chúng tôi phải cắm lều để ngủ lại ban đêm. Chúng tôi không có đem theo lương thực, nhưng mỗi khi cần ăn uống, thì luôn luôn có sẵn đồ vật thực trong tầm tay. Khi chúng tôi vừa sửa soạn ngồi ăn, thì những thức ăn liền xuất hiện một cách đầy đủ. Không bao giờ chúng tôi thiếu ăn, và luôn luôn ăn uống thừa thãi.
Chiều ngày thứ ba, chúng tôi đến một vùng cao nguyên rộng lớn mà chúng tôi phải đi xuống lần lần để đến nơi thôn ấp mà chúng tôi muốn đến viếng. Kể từ khi đó, con đường của chúng tôi vượt qua một vùng phì nhiêu và đông dân cư. Chúng tôi chọn thôn ấp này làm căn cứ mùa đông vì nó ở ngay trung tâm của vùng mà chúng tôi đến viếng. Chúng tôi hy vọng rằng điều ấy sẽ đem cho chúng tôi cái cơ hội hằng mong ước là có dịp kéo dài hơn sự tiếp xúc hằng ngày với các vị Chân Sư. Một số lớn những vị siêu nhân mà chúng tôi đã gặp ở rải rác nhiều nơi, hiện đang sống tại làng này và tất cả các vị đều khẩn khoản mời chúng tôi đến viếng các ngài. Chúng tôi có cảm giác rằng trong khi lưu trú tại làng này vào mùa đông, chúng tôi sẽ có nhiều cơ hội tốt để quan sát cuộc đời hằng ngày của các ngài một cách gần gũi hơn.
Chúng tôi đến làng này ngày 20 tháng 11, và từ căn cứ đó chúng tôi mở một loạt những cuộc xuất hành quanh vùng cho đến khi tuyết rơi làm cho mọi sự di chuyển trở nên khó khăn. Chúng tôi được dọn chỗ ở tiện nghi, dân làng niềm nở tiếp đón, và chúng tôi chuẩn bị hòa mình với cuộc sống của dân làng. Tất cả các nhà đều mở rộng cửa đón chúng tôi, chúng tôi được cho biết rằng ở đây nhà nhà đều không đóng cửa, vì dân làng coi tất cả mọi người như anh em.
Kế đó chúng tôi được mời đến ở tại nhà của một bà thiếu phụ có tiếng tăm trong làng này, mà chúng tôi đã gặp ở vùng biên giới. Vì chúng tôi đã yên nơi yên chỗ, chúng tôi không thấy cần thiết phải làm quấy rầy bà, nhưng bà khẩn khoản mời mọc và nói rằng chúng tôi không có quấy rầy gì bà hết cả. Bởi đó chúng tôi dọn đồ hành lý sang ở nhà bà và ở luôn tại đó cho đến mãn cuộc hành trình.
Tôi không hề quên cuộc gặp gỡ đầu tiên của chúng tôi với bà trong một tỉnh thành nhỏ ở vùng biên giới.Khi bà được giới thiệu với chúng tôi, chúng tôi nghĩ rằng bà trạc độ mười tám tuổi, và nhận thấy bà rất đẹp. Độc giả sẽ tưởng tượng sự ngạc nhiên của chúng tôi như thế nào khi chúng tôi được biết rằng thiếu phụ đã có trên bốn trăm tuổi và là một trong những nhà giáo mô phạm được mến chuộng nhất vùng ấy. Bà đã dành trọn cuộc đời vào việc phụng sự kẻ khác. Khi chúng tôi ở nhà bà và sống cạnh bà hằng ngày, chúng tôi đã hiểu tại sao bà được mến chuộng dường ấy. Trong lần gặp gỡ đầu tiên, chúng tôi thấy bà trong hai tuần liên tiếp nhưng cá tính của bà chỉ biểu lộ thật sự khi chúng tôi sống tại nhà bà. Người ta không thể nào làm khác hơn là yêu mến và kính trọng bà. Vả lại, chúng tôi càng biết rõ các vị Chân Sư, thì chúng tôi lại càng yêu mến và kính trọng các ngài.
Chúng tôi đã có dịp đối chiếu những lời xác định về tuổi tác của các ngài với những tài liệu xác thật cũng như tập du ký này. Chúng tôi ở tại nhà thiếu phụ và dùng cơm chung một bàn với bà hằng ngày kể từ đầu tháng 12 năm 1895 đến tháng tư năm 1896. Chúng tôi đã có dịp quan sát tỉ mỉ đời sống của bà và cuộc đời của nhiều vị Chân Sư khác cư ngụ tại làng này. Chúng tôi nhận thấy tất cả đều là những cuộc đời lý tưởng.
IV
Thời gian trôi qua mau cho đến cuối tháng chạp. Năm đã hầu tàn. Chúng tôi nhận thấy một số đông người kéo đến làng này vì một cuộc lễ mà trên thực tế chỉ có các Chân Sư mới tham dự.
Ngày nào người ta cũng giới thiệu với chúng tôi những người lạ mặt. Tất cả đều nói tiếng Anh, và chúng tôi có cảm giác như mình đã đồng hóa với sự sinh hoạt của làng.
Một ngày nọ, chúng tôi được cho hay rằng cuộc lễ sẽ diễn ra trong đêm Giáng Sinh và chúng tôi được mời đến dự. Người ta nói thêm rằng cuộc lễ không dành cho người ngoại quốc. Tuy nhiên, cuộc hội họp không phải là riêng tư. Vả lại, không có một cuộc họp nào của các Chân Sư là riêng tư. Cuộc họp nhằm mục đích quy tựu những người đã bắt tay vào công việc tâm linh, những người đã đặt cho công việc ấy một tầm quan trọng, nghiêm chỉnh, và đã tiến bộ khả quan để xác nhận sự mong ước của họ là sống cuộc đời thánh thiện. Họ đến một nơi mà họ đã chấp nhận một tâm thức cao cả hơn, và hiểu rõ cái vị trí mà nó phải có trong cuộc đời của họ. Một cuộc hội họp quần chúng như thế thường diễn ra vào mùa này trong năm ở một nơi đã định sẵn từ trước, để cho họ tham dự cuộc lễ. Năm ấy, địa điểm hành lễ được chọn lựa lại là nơi thôn ấp mà chúng tôi đang trú ngụ.
Sáng ngày được ấn định cho cuộc hội họp, ánh bình minh thật là trong sáng, và hàn thử biểu chỉ trên 20 độ dưới số không. Tất cả chúng tôi đều bồn chồn, với cảm giác rằng đêm ấy sẽ đem lại một kinh nghiệm mới nữa thêm vào những sự việc lý thú đã xảy ra trong chuyến du hành của chúng tôi. Chúng tôi đến nơi hội họp vào lúc tám giờ tối và thấy có độ hai trăm người tề tựu tại đó. Gian phòng được trang trí tốt đẹp và được thắp sáng bằng phương pháp huyền diệu như đã diễn tả trước đây.
Chúng tôi được biết rằng bà chủ nhà của chúng tôi sẽ chủ tọa cuộc hội họp. Bà đến sau chúng tôi ít lâu, và khi bà bước vào gian phòng, tất cả chúng tôi đều khen thầm sự trẻ trung và kiều diễm của bà. Bà mặc một áo dài trắng rất đẹp, nhưng không chút nào se sua để làm cho người khác chú ý đến mình. Bà lẳng lặng bước lên một cái sàn gỗ và bắt đầu thuyết pháp. Bà nói:
-Chúng ta hội họp chiều nay với sự mong ước được hiểu rõ ý nghĩa của sự chuyển tiếp từ một trạng thái tâm thức thấp kém lên một trạng thái siêu việt hơn. Chúng tôi xin chúc mừng những người nào trong quý vị đã được chuẩn bị cho sự chuyển tiếp đó. Trước tiên, quý vị đã theo chúng tôi do bởi sự ưa thích công việc mà chúng tôi làm. Trước hết quý vị đã theo dõi những công việc đó một cách ngạc nhiên và sợ hãi vì quý vị cho rằng đó là những việc nhiệm mầu. Bây giờ quý vị coi đó như là những điều tự nhiên của một cuộc đời gương mẫu, như Thượng Đế vẫn mong ước chúng ta phải sống.
Vào giờ phút này, quý vị đã biết chắc rằng chúng tôi không có thực hiện một phép lạ nào cả. Quý vị đã hiểu cái ý nghĩa tâm linh thật sự của những gì mà quý vị đang làm.
Chuyển tiếp từ trạng thái tâm thức thấp kém lên một trạng thái cao hơn có nghĩa là gạt bỏ cái thế giới vật chất dẫy đầy những xung đột và va chạm để chấp nhận cái Tâm Thức Bồ Đề hay tâm thức của Đấng Christ. Khi đó, thì tất cả đều là mỹ lệ, điều hòa, và toàn thiện. Đó tức là phép sinh hoạt tự nhiên, đó là phép sống mà Thượng Đế đã chọn lựa cho chúng ta, và Đức Jesus đã nêu một gương sáng huyền diệu thay trên thế gian. Cách sống ích kỷ là phản tự nhiên. Đó là con đường chông gai, trắc trở. Con đường của Đấng Christ thật là dễ dàng và tự nhiên nếu chúng ta hiểu rõ được nó! Người nào theo con đường đó tức là sống trong Tâm Thức của Đấng Christ hay Tâm Thức Bồ Đề.
Chúng ta đang ngồi chung quanh những bàn đã bày sẵn thức ăn. Đây là cơ hội duy nhất mà chúng ta tựu họp trong một bữa tiệc. Đây không phải là một bữa tiệc như những kẻ thế nhân phàm tục vẫn thường quan niệm. Nó là một bữa tiệc thông đạt và thực hiện, biểu tượng cuộc Lễ Chuyển Tiếp như hồi thời đại của Đức Jesus, cuộc Lễ Phục Sinh (Pâque), tức sự chuyển tiếp (thường không được hiểu rõ vào thời đại này) của tâm thức phàm tục lên tâm thức Bồ Đề. Chúng tôi tin rằng một ngày kia tất cả những người con của Thượng Đế sẽ hội họp quanh một bữa tiệc tương tự và hiểu rõ cái ý nghĩa thật sự của nó.
Chiều hôm nay, trong số những vị thực khách ngồi quây quần nơi đây, có vài vị đã hoàn toàn tinh luyện xác thân đến mức có thể di chuyển bằng thể xác lên tận những cảnh giới cao siêu nhất của cõi Thượng Thiên để học Đạo thượng đẳng. Tất cả các vị ấy đã từng sống một thời gian trong thể xác hữu hình trên địa cầu, và khi viên tịch, các Ngài đã đem thể xác theo đến một nơi địa hạt tâm thức làm cho các Ngài trở nên vô hình đối với người trần gian. Chúng ta phải nâng cao tâm thức lên đến mức độ Tâm Thức Bồ Đề để có thể tiếp xúc với các vị ấy. Nhưng các Ngài có thể trở lại với chúng ta và ra đi tùy ý muốn. Các Ngài có thể trở lại thế gian để dạy Đạo cho những người nào thụ cảm đối với giáo lý của Ngài, và xuất hiện hay biến mất tùy ý muốn. Chính các Ngài đến dạy Đạo cho chúng ta khi chúng ta sẵn sàng thụ huấn các Ngài, hoặc bằng trực giác, hoặc bằng cách tiếp xúc tự bản thân. Năm vị trong các Ngài sẽ đến dùng bữa chung với chúng ta chiều nay. Trong số đó có một vị nữ thánh mà chúng tôi đặc biệt yêu mến, vì bà là mẹ của một vị trong chúng tôi. (Đó là thân mẫu của đức Tuệ Minh) Bây giờ chúng ta hãy ngồi vào bàn ăn…
Ánh sáng trong gian phòng hạ thấp xuống trong một lúc, và tất cả các quan khách đều ngồi trong cơn im lặng hoàn toàn, đầu hơi nghiêng về phía trước. Kế đó, ánh sáng lại tỏ rạng. Năm vị Chân Sư đã xuất hiện trong gian phòng, ba vị nam và hai vị nữ, tất cả đều mặc y phục trắng tinh, tất cả đều có một vẻ đẹp lộng lẫy và bao phủ bởi một vầng hào quang sáng dịu. Các Ngài âm thầm tiến bước, và mỗi vị đều an tọa nơi chỗ ngồi còn để trống của mình ở đầu một bàn trong năm bàn dài. Đức bà Mã Ly, thân mẫu đức Tuệ Minh, ngồi nơi chỗ danh dự ở tại bàn của chúng tôi cùng với vị Trưởng nhóm chúng tôi ngồi bên tay mặt và đức Tuệ Minh ngồi bên tay trái bà. Khi các Ngài đã an tọa, thì những thức ăn bắt đầu xuất hiện. Bữa ăn rất giản dị, nhưng rất ngon lành, gồm có bánh mì, rau đậu và trái cây.
Những câu chuyện kế tiếp là những huấn thị dành cho những người tới dự cuộc lễ. Đó là những huấn thị bằng tiếng bổn xứ, và Dật Sĩ dịch lại cho chúng tôi nghe. Đức bà Mã Ly nói sau cùng. Bà nói tiếng Anh toàn hảo, bằng một giọng trong suốt và rõ ràng. Dưới đây là những lời của bà:
-Hằng ngày chúng tôi thường sử dụng những mãnh lực mà người đời chế diễu và nhạo báng. Có đặc ân được tiếp nhận và sử dụng những mãnh lực ấy, chúng tôi cố gắng tận tình để chỉ dẫn cho người đời được biết. Bằng những tư tưởng của họ, người thế gian gạt bỏ ra ngoài cuộc đời những sự việc toàn hảo vốn nằm trong tầm tay họ và chỉ đợi họ đưa tay ra để nắm lấy. Khi nào người ta thu đạt được những mãnh lực ấy, thì chúng nó sẽ trở nên vô cùng chân xác và sống động hơn là những của cải vật chất mà họ bám víu lấy một cách tuyệt vọng thay, bởi vì họ có thể nhìn thấy, và cảm xúc được những thứ này bằng những giác quan vật chất hữu hạn của họ.
Các bạn sẽ nhận thấy rằng tất cả những tiện nghi trong gian phòng này và những phòng của các bạn cư ngụ, như ánh sáng, nhiệt lực, và thậm chí những thức ăn mà các bạn dùng, đều do sự tác động của mãnh lực ấy mà có. Các bạn gọi nó là tia ánh sáng hay là gì, tùy ý. Chúng tôi tiếp nhận nó như một quyền năng lớn của vũ trụ. Khi người ta tiếp xúc với mãnh lực ấy, thì nó tác động một cách vô cùng hữu hiệu cho họ hơn là nhiệt lực, điện khí, dầu hỏa hay than đá. Tuy nhiên, chúng tôi coi nó như một trong những nguồn lực thấp kém nhất trong số những nguồn tinh lực thiên nhiên.
Mãnh lực ấy không những chỉ cung cấp tất cả mọi vận động hữu ích cho con người. Nó còn cung cấp nhiệt lực cần thiết cho mọi nhu cầu của họ, bất cứ ở đâu và bất cứ lúc nào, mà không tiêu thụ một mảy may nhiên liệu. Nó vốn hoàn toàn im lặng, và khi người ta sử dụng nó, nó loại trừ một phần lớn những tiếng ồn ào và sự loạn động mà hiện nay dường như không thể tránh khỏi. Nó ở trong tầm tay bạn, ở chung quanh bạn; và chỉ đợi chờ bạn sử dụng. Khi bạn dùng nó, bạn sẽ thấy nó vô cùng giản dị hơn hơi nước hay điện lực rất nhiều.
Khi người đời đạt tới mức đó, họ sẽ thấy rằng tất cả những máy móc và phương thức vận chuyển mà họ đã phát minh chỉ là những sản phẩm của những quan niệm vật chất của họ. Họ tưởng rằng chính họ đã sản xuất ra những máy móc ấy và bởi vậy họ chỉ có thể tạo nên những đồ vật hữu hình hữu hoại và bất toàn.Nếu họ hiểu rằng tất cả đều phát xuất từ Thượng Đế, và ngài tự biểu lộ qua con người, thì họ chỉ có sản xuất nên những đồ vật toàn hảo. Tuy nhiên trong viêc sử dụng tự do ý chí, họ đã chọn lựa con đường chông gai trắc trở thay vì hiểu rõ sự liên hệ của mình với Thượng Đế và sử dụng tất cả những khả năng thiên phú của Ngài ban cho. Họ sẽ tiếp tục con đường ấy cho đến khi họ nhận thức rằng phải có một con đường khác tốt đẹp hơn, và con đường này quả thật là có. Sau cùng, họ sẽ biết rằng con đường của Thượng Đế là con đường tốt lành duy nhất. Chừng đó con người sẽ biểu lộ đức toàn mỹ toàn thiện mà Thượng Đế muốn thấy y biểu lộ ngay từ bây giờ.
“Các bạn có thấy chăng là các bạn phải tập trung vào đấng Thượng Đế vốn có ở tự nơi mình, thu thập từ nơi Ngài những gì là tốt lành, và do Chân Ngã thiêng liêng, vận chuyển tất cả những mãnh lực tự nhiên của mình.”
Đến đây, một người trong chúng tôi hỏi rằng những tư tưởng và lời nói có ảnh hưởng như thế nào đến cuộc đời của chúng ta. Đức bà Mã Ly đưa tay ra, và một lúc sau đó một vật nhỏ xuất hiện trong tay bà. Bà nói:
-Tôi bỏ một viên đá sỏi trong cái chén nước lạnh này. Viên sỏi rơi xuống nước tạo thành một trung điểm từ đó phát ra những làn sóng gợn đồng tâm. Những sóng gợn này càng lớn dần cho đến khi chúng đụng vào vành chén là cái giới hạn bên ngoài của chén nước. Theo con mắt phàm nhìn thấy, thì những gợn sóng này dường như mất trớn và ngừng lại. Thật ra, khi các gợn sóng đụng vào vành chén thì nó dội ngược lại trở về điểm mà viên sỏi nhỏ rơi xuống nước ở giữa chén và chúng không hề ngừng nghỉ trước khi đạt tới điểm đó. Đó là cái hình ảnh đúng đắn của tất cả những tư tưởng và lời nói mà chúng ta thốt ra. Tư tưởng và lời nói làm vận chuyên vài loại âm ba phóng ra xa theo từng vòng tròn mỗi lúc càng lớn dần cho đến khi chúng bao trùm khắp vũ trụ. Kế đó chúng dội ngược trở lại những người nào đã phát ra chúng. Tất cả những tư tưởng và lời nói của chúng ta, dù tốt hay xấu, sẽ dội ngược trở lại chúng ta một cách chắc chắn cũng như khi chúng ta đã phát ra những tư tưởng hay lời nói ấy…
Chúng tôi là những người đã tinh luyện thể xác đến mức có thể di chuyển đến nơi nào tùy ý, có cái đặc ân nhìn thấy cõi Thiên Giới và ở lại đó. Nhiều người được biết cõi ấy dưới danh từ “Cõi Trời thứ bảy,” và coi nó như điều bí mật nhất trong các điều bí mật. Ở đây cũng vậy, người đời đã lầm. Không có điều gì là bí mật cả. Chúng tôi chỉ có đạt tới một cõi giới tâm thức nhờ đó chúng tôi trở nên thụ cảm đối với những giáo lý cao siêu nhất. Chính tại đó mà ngày nay Đức Jesus đang ở.
“Đó là một cõi tâm thức tại đó chúng tôi biết rằng khi ta gạt bỏ sự chết, chúng ta có thể trở nên bất tử. Tại cõi ấy, con người vốn bất tử, trong sạch không tội lỗi, trường cửu, bất biến, giống như Thượng Đế. Đó là một nơi mà chúng ta biết ý nghĩa thật sự của Biến Hình (Transfiguration), mà chúng ta có thể cảm thông với Thượng Đế và nhìn thấy Thượng Đế diện đối diện. Mỗi người có thể đến đó và trở nên giống như chúng tôi. Không bao lâu, trạng thái tâm thức cộng đồng sẽ vượt lên tới một cõi giới tại đó chúng tôi có thể nói chuyện một cách bình đẳng với nhân loại và nhìn họ ngay vào tận mắt. Sự vô hình của chúng tôi chỉ là sự nâng cao tâm thức chúng tôi vượt lên trên bình diện của thế tục. Chúng tôi chỉ vô hình vô ảnh đối với những người trần gian mà thôi…”
Đức bà Mã Ly vừa nói dứt lời, thì khúc hợp ca vô hình lại bắt đầu trổi lên. Lúc ấy là đúng nửa đêm cuối tháng mười hai và một năm mới đã bắt đầu. Như thế chấm dứt năm đầu tiên trong thời gian mà chúng tôi có hân hạnh được tiếp xúc với các bậc Chân Sư huyền diệu.
CHƯƠNG NĂM
Một ngôi đền đục trong hang núi – Những tài liệu cổ xưa đến bốn trăm năm mươi thế kỷ - Đức Jesus xuất hiện – Tài liệu khắc trên những bia đá cổ - Bí quyết của sự cầu nguyện linh ứng –Sự chết và phục sinh của Chander Sen – Đức Jesus nói chuyện về địa ngục, ác quỷ và Chúa Trời.
I
Sáng ngày đầu năm dương lịch, chúng tôi thức dậy sớm, tinh thần khoan khoái, dễ chịu. Mỗi người trong chúng tôi đều có cảm giác một sự gì sẽ đến, làm cho chúng tôi nghĩ rằng những kinh nghiệm đã qua của mình chỉ là những bước đầu trên con đường mình sẽ đi qua.
Trong khi chúng tôi ngồi tựu họp chung quanh bàn ăn điểm tâm, chúng tôi thấy xuất hiện một người lạ mặt mà chúng tôi đã gặp một lần trong một làng nhỏ trên đường đi đến đây. Sau khi chào hỏi xã giao thường lệ, người ấy nói:
-Các bạn đã đến với chúng tôi trên một năm nay. Các bạn đã cùng đi ngao du và sống chung với chúng tôi. Vì các bạn sẽ ở lại với chúng tôi đến tháng tư hay tháng năm, tôi đến để mới các bạn đi viếng một ngôi đền đục trong núi đá ở phía ngoài làng này.
Chúng tôi được cho biết rằng người ta đã phải dùng lối kiến trúc đặc biệt đó để bảo vệ cho ngôi đền khỏi bị quấy nhiễu bởi những toán cường đạo thường hay cướp phá vùng này. Những bọn cướp này đôi khi xuống tận làng mạc, thôn ấp để “ ăn hàng”. Làng này cũng đã bị hủy diệt nhiều lần, nhưng dân làng đã tránh khỏi tai họa nhờ họ có thể trú ẩn trong ngôi đền.
Các vị Chân Sư đã sở hữu ngôi đền này do dân làng chuyển nhượng lại để gìn giữ nhiều tài liệu văn kiện mà các ngài coi như quý vô giá. Từ khi có sự chuyển nhượng này, những vụ cướp bóc đã chấm dứt, dân làng không còn bị tấn công bất ngờ, và mọi người đều sống bình yên. Người ta nói rằng vài pho tài liệu kể trên đã có từ khi giống người văn minh đầu tiên xuất hiện trên quả địa cầu. Đó có lẽ là những tài liệu cổ của giống người Naacals,cũng gọi là các “Huynh đệ Thánh Thiện”,đã xuất hiện ở Miến Điện để dạy dỗ dìu dắt những bộ lạc thổ dân Nagas ở đó. Những tài liệu đó dường như chứng minh rằng tổ tiên của giống người này là tác giả của bộ sách Surya Siddhanta và các Thánh Kinh Phệ Đà thời thái cổ. Sách Surya Siddhanta là tác phẩm cổ xưa nhất mà người ta được biết về khoa thiên văn. Những văn kiện cổ xưa cho rằng sách ấy đã có từ ba mươi lăm ngàn năm về trước. Những Thánh Kinh Phệ Đà thời thái cổ đã có từ 45.000 năm. Không phải tất cả những tài liệu văn kiện của ngôi đền này đều là những bổn chánh, vì nhiều tài liệu đã được chép lại do cùng một nguyên bản với những tài liệu cổ của xứ Babylone và được di chuyển đến đây để được gìn giữ an toàn. Còn những bản chính từ cổ xưa là những nguyên bản đã có từ hồi thời đại của Osiris và của châu Atlantide. Những khách đến thăm ngôi đền này chỉ là một thiểu số rất ít, ngoài ra những vị chân tu đã có hiểu biết ít nhiều về sự giác ngộ tâm linh thật sự.
Người khách lạ nói tiếp:
-Ngày hôm nay đối với các bạn là ngày bắt đầu một năm mới. Theo quan điểm thông thường, năm cũ vừa qua đã thuộc về dĩ vãng, không còn trở lại cuộc đời chúng ta nữa, trừ phi là ở trong tư tưởng, do những kỷ niệm về mọi sự sung sướng, đau buồn hay những công trình đã thực hiện. Một trang trong quyển lịch đời của chúng ta đã được xé bỏ. Trái lại, quan điểm của chúng tôi khác hẳn. Chúng tôi coi năm vừa qua như một giai đoạn tiến bộ thêm vào những thành quả đã thực hiện được. Nó là cái gạch nối đưa chúng tôi đến những công trình thực hiện và một sự phát triển tốt đẹp hơn, đến một thời kỳ giác ngộ và hứa hẹn lớn lao hơn, một thời kỳ mà mỗi kinh nghiệm kế tiếp làm cho chúng tôi trở nên trẻ trung hơn, khỏe mạnh hơn và bác ái hơn. Các bạn nghĩ rằng: “Làm sao được như vậy?” Chúng tôi đáp: “Các bạn hãy tự tìm ra những kết luận của mình, các bạn hãy chọn lựa cách sống riêng của mình.”
Vị trưởng nhóm của chúng tôi nói:
-Chúng tôi ước mong được thấy và biết.
Người lạ mặt nói tiếp:
-Kể từ bây giờ, có những bài học đứng đắn cho những kẻ không nhìn thấy, không biết, không hiểu ý nghĩa về mục đích của một đời sống chân chính. Đó không phải là một cuộc đời khổ hạnh, khắc khổ, cô lập hay buồn thảm, mà là một cuộc đời hoạt động trong sự vui tươi, một cuộc đời mà mọi sự buồn rầu, đau khổ đều bị vĩnh viễn loại trừ.
Kế đó, người lại nói với một giọng ít nghiêm cẩn hơn:
-Các bạn đã bày tỏ ý muốn được nhìn thấy và được biết. Nhìn thấy các bạn tựu họp như vầy, tôi chợt nghĩ đến câu nói trong Kinh Thánh: “ Khi nào hai hay ba người trong các ngươi nhân danh Ta mà hội họp, thì Ta luôn luôn có mặt một bên họ”.
Cuộc đời tu hành khổ hạnh, xuất gia lánh đời, để ẩn mình trong những tu viện Cơ Đốc hay Phật Giáo, không phải là một điều cần thiết. Một cuộc đời như thế không giúp cho hành giả đạt tới sự giác ngộ tâm linh thật sự và thực hiện sự minh triết chân chính. Những pháp môn tu luyện đó đã từng có từ bao nhiêu ngàn năm về trước. Tuy nhiên, những giáo lý của Đức Jesus, trong khoảng vài năm mà Ngài xuất hiện ở thế gian, đã đóng góp một phần vô cùng lớn lao hơn nhiều trong việc giáo dục tâm linh cho dân chúng.
Người ta biết rằng Đức Jesus đã từng thấu triệt mọi giáo lý, đã vượt qua nhiều cấp bực Điểm Đạo, nghiên cứu những cấp đẳng Huyền Môn bí truyền, cùng những nghi thức lễ bái, và sau cùng đã đạt tới giáo lý của Osiris. Những giáo lý này được chỉ dẫn cho Ngài bởi một vị tư tế đã thoát ly ra khỏi tất cả mọi nghi thức lễ bái, và quy luật, sắc tướng.
Vị tư tế này là một đệ tử của vị Thánh Vương Thoth, thuộc triều đại thứ nhất của các vì vua Ai Cập. Đế quốc Ai Cập đã từng được nâng lên một trình độ văn minh cao cả hùng cường nhờ ảnh hưởng của Osiris và những vị kế nghiệp của ngài. Vị Thánh Vương Thoth trị nước trong sự minh triết và cố gắng duy trì giáo lý của Osiris. Tuy vậy những quan niệm vật chất và hắc ám đã xuất hiện khi những bộ lạc miền Nam là những giống người da đen đã đưa Thoth lên cầm quyền, tăng gia ảnh hưởng của họ. Những triều đại sau đó đã đi xa dần những giáo lý của Osiris. Họ lần lần chấp nhận những quan niệm hắc ám của giống người da đen, và sau cùng đã tuyệt đối thực hành khoa bàn môn tả đạo. Đế quốc Ai Cập đã suy vong rất mau chóng, và một đế quốc như thế lẽ tự nhiên phải bị suy vong.
Sau khi Đức Jesus đã chăm chú nghe lời dẫn giải của vị tư tế này, Ngài bèn thấu triệt được ý nghĩa thâm sâu huyền diệu của giáo lý Huyền Môn. Những quan điểm sơ khởi của Đức Jesus về giáo lý nhà Phật mà Ngài đã thụ huấn của những nhà hiền triết phương Đông đã giúp cho Ngài nhận thức được những điểm tương đồng chính yếu của tất cả mọi giáo lý. Khi đó, Ngài bèn quyết định đi sang Ấn Độ, đó là một dự tính hoàn toàn có thể thực hiện được do bởi con đường bộ xuyên Á châu của những đoàn lạc đà thường di chuyển từng kỳ hạn vào thời đó.
Sau khi đã nghiên cứu giáo lý Phật Giáo ở Ấn Độ, Đức Jesus nhận thấy giữa các tôn giáo có những điểm tương đồng. Ngài hiểu mặc dầu có những sự khác biệt về hình thức lễ bái và giáo điều do người đời đặt ra, nhưng tựu trung các tôn giáo chỉ có một nguồn gốc duy nhất là Thượng Đế…
Cuộc nói chuyện chấm dứt và chúng tôi đi đến ngôi đền. Tại đây, chúng tôi gặp bốn vị trong số các bậc siêu nhân đã đến đây trước chúng tôi. Sau một lúc nói chuyện thông thường, chúng tôi tất cả đều ngồi xuống, và người khách lạ lúc nãy lại nói tiếp:
-Không một nhân vật lịch sử nào có thể bì kịp với Đức Jesus. Phần đông người Âu Mỹ tôn sùng Ngài như một thần tượng, và bởi đó họ đã lầm. Đáng lý ra họ nên coi Ngài như hiện thân của một lý tưởng, thay vì tôn thờ Ngài như thần tượng. Thay vì khắc những hình tượng để thờ Ngài, người ta nên coi Ngài như một nhân vật đang sống, vì hiện nay Ngài thật sự đang sống trong chính cái thể xác đã từng bị đóng đinh trên Thập Tự Giá. Ngài vẫn còn sống và có thể nói chuyện với các bạn như hồi trước khi Ngài bị đóng đinh. Sự lầm lạc to lớn của đa số người, là nghĩ rằng Đức Jesus bị kết liễu cuộc đời trong tai nạn đau khổ và chết trên cây Thánh Giá. Họ quên rằng phần lớn cuộc đời của Ngài đã diễn ra trong thời gian sau khi Ngài Phục sinh. Ngày nay Đức Jesus vẫn có thể dạy Đạo và chữa bịnh một cách linh nghiệm hơn bao giờ hết. Các bạn có thể đến trước mặt Ngài bất cứ lúc nào, nếu các bạn muốn. Nếu các bạn tìm Ngài, thì các bạn sẽ gặp. Đức Jesus không phải là một vị vua có thể bắt buộc các bạn chấp nhận sự hiện diện của Ngài, mà là một người Anh Cả luôn luôn sẵn sàng giúp đỡ các bạn và giúp đỡ thế gian. Khi Ngài còn sống trên cõi thế gian phàm tục, Ngài chỉ có thể tiếp xúc với một thiểu số người có hạn định. Còn dưới hình thể mà Ngài khoác lấy hiện nay, Ngài có thể tiếp xúc với tất cả những người nào hướng về Ngài. Phải chăng Ngài đã nói rằng: “Bất cứ nơi nào có Ta, thì các người cũng có thể có mặt ở đó?” Câu này phải chăng có nghĩa là Ngài ở một nơi rất xa, tận trên Trời, và các bạn chỉ lên tới đó sau khi đã chết? Không, Ngài vẫn ở tại cõi này, là nơi các bạn đang ở, Ngài có thể di chuyển đó đây, và nói chuyện với bạn. Ta chỉ cần để cho Ngài tự do hành động. hãy nâng tầm mắt bạn lên cao hơn một chút, hãy bao gồm một chân trời rộng lớn hơn, và bạn sẽ thấy Ngài, miễn là tâm hồn và trí não bạn hướng đến Ngài một cách chân thành. Các bạn có thể cùng đi và nói chuyện với Ngài. Nếu các bạn quan sát tỉ mỉ thân thể Ngài, các bạn sẽ thấy những vết thẹo đóng đinh trên Thánh Giá, vết đâm của ngọn giáo và của chiếc mão gai, nay đã hoàn toàn lành hẳn. Tình thương và niềm phúc lạc từ toàn thân Ngài toát ra sẽ chứng minh cho bạn thấy rằng Ngài quên tất cả, và tha thứ tất cả…
Tới đây, người khách lạ ngừng nói, tất cả đều đắm chìm một lúc trong một cơn im lặng thâm trầm, kế đó một ánh sáng mà chúng tôi chưa nhìn thấy bao giờ, chiếu khắp gian phòng. Chúng tôi nghe một giọng nói, lúc đầu dường như vọng lại từ đằng xa và không được rõ ràng. Sau khi giọng nói ấy làm cho chúng tôi chú ý và tất cả những tư tưởng của chúng tôi đều hướng về nó, thì giọng nói trở nên hoàn toàn rõ rệt và vang rền những âm thanh sáng sủa như tiếng chuông ngân.
Một người trong chúng tôi hỏi:
-Ai nói đó?
Vị trưởng nhóm của chúng tôi đáp:
-Hãy im, đó là đức Chưởng Giáo của chúng ta, Đức Jesus đó.
Một người trong bọn lại nói:
-Đúng rồi, chính Đức Jesus nói đấy.
Khi đó giọng nói tiếp tục:
-Khi tôi nói “Ta là Con Đường, là Chân Lý, là Sự Sống,” tôi không có ý đem đến cho nhân loại cái ý nghĩ rằng chỉ có một mình tôi mới là Ánh Sáng, chân thật và duy nhất. Khi tôi nói: “Ta là người Con hoàn toàn, người Con Duy Nhất do Chúa Trời sinh ra,” tôi muốn xác nhận với toàn thể nhân loại rằng một trong những người Con của Chúa Trời đã nhìn thấy, hiểu rõ và tuyên bố tính chất thiêng liêng của mình. Người Con ấy thấy rằng cuộc đời mình và những hành động của mình vốn phát sinh ra tự nơi Chúa Trời, tức là cái nguyên lý Vô Cực của vạn vật. Người tuyên bố mình là Đấng Christ, người Con duy nhất do Chúa Trời sinh ra. Rồi bằng cách sống cuộc đời thánh thiện của một tâm hồn chân thật và kiên nhẫn, người trở nên nhân vật thiêng liêng mà người đã tuyên bố. Luôn luôn giữ gìn cái lý tưởng đó, người thấm nhuần nó khắp toàn thân của mình, và sau cùng đã đạt được cái mục đích mà người tìm kiếm.
Tại sao có biết bao nhiêu người không hề thấy tôi? Đó là bởi vì họ đặt tôi trên một cái ngai thần tượng và để tôi vào một chỗ cao xa không thể đạt tới. Họ bao trùm tôi với bao nhiêu phép lạ nhiệm mầu và những điều huyền bí, và đặt tôi ở một nơi xa xôi cách biệt với quần chúng mà tôi hằng thương yêu với một tình bác ái vô biên khôn tả. Tôi không rút lui ra khỏi họ, mà chính họ đã rút lui ra khỏi tôi. Họ đã dựng lên những bức màn, những vách tường ngăn cách, đặt ra những người trung gian và khắc nên những hình tượng của tôi cùng những người thân của tôi. Mỗi người trong chúng tôi đều được bao phủ bằng những huyền thoại và những chuyện nhiệm mầu làm cho tôi bị ngăn cách quá xa đến nỗi người đời không còn biết làm thế nào để đạt tới chúng tôi được nữa. Người ta cầu nguyện và khẩn cầu Đức Mẹ mến yêu của tôi và những người thân chung quanh tôi, và như vậy họ bao phủ chúng tôi với những tư tưởng trần gian phàm tục. Thật ra nếu người đời muốn biết chúng tôi một cách thật sự và mong ước được bắt tay chúng tôi như các bạn đã làm hôm nay đây, thì họ sẽ được như ý nguyện. Nếu người đời muốn từ bỏ mọi sự dị đoan mê tín, họ sẽ nói chuyện với chúng tôi như các bạn đã làm. Các bạn nhìn thấy chúng tôi không hề thay đổi. Chúng tôi muốn cho toàn thể thế gian cũng biết như vậy xiết bao!
Các người đã bao trùm chúng tôi từ bao nhiêu lâu với những điều huyền bí đến nỗi làm cho sự hoài nghi rốt cuộc phải thắng thế. Các người càng làm nhiều hình tượng bao nhiêu, thì các người lại càng làm cho chúng tôi trở nên xa cách bấy nhiêu. Các người càng bao phủ chúng tôi trong sự nghi nan tăm tối sâu đậm bao nhiêu, thì cái vực thẳm mê tín dị đoan càng trở nên rộng lớn và khó vượt qua bấy nhiêu. Nếu các người muốn bạo gan bước lại bắt tay chúng tôi và nói: “Tôi biết ông,” thì chừng đó mỗi người đều có thể nhìn thấy chúng tôi và biết chúng tôi như hiện giờ. Không có sự mầu nhiệm nào chung quanh chúng tôi hay những người thân của chúng tôi, vì chúng tôi thương yêu tất cả nhân loại.
Phần đông chỉ nhận thấy có một phần cuộc đời của tôi nó kết liễu trên cây Thánh Giá. Họ quên rằng phần lớn cuộc đời tôi đã sống trong hình thức hiện tại. Họ quên rằng con người vẫn tiếp tục sống, dẫu rằng sau một cái chết bất đắc kỳ tử. Người ta không thể hủy diệt sự sống. Sự sống vẫn tiếp diễn luôn luôn, và một đời sống tốt lành không bao giờ mất. Dẫu cho cái xác thể vật chất cũng có thể trở nên bất tử và không còn thay đổi.
Khi người anh em Phi Lát rửa tay và nói: “Các người hãy đem y đi và hãy tự tay các người đóng đinh y trên cây Thánh Giá” tôi không cho rằng Phi Lát đã lầm lỗi. Y không hề biết gì về cái diễn biến lịch sử mà y đang sự phần trong đó, và điều tiên tri mà y đang thực hiện. Y và những người chung quanh y đã đau khổ nhiều hơn tôi. Nhưng tất cả những việc ấy đã qua, đã được quên lãng và được tha thứ, như các người sẽ thấy trong cuộc hội họp hôm nay.
Kế đó, hai nhân vật xuất hiện, và Đức Jesus ôm hôn cả hai người. Đặt bàn tay Ngài lên vai của một trong hai người, Ngài nói:
-Người anh em này đã cùng tôi đi suốt con đường Đạo. Còn người kia, y đã trải qua nhiều cuộc thử thách đắng cay trước khi y mở mắt tỉnh ngộ, nhưng khi y tỉnh ngộ, y bèn đi theo chúng tôi. Y cũng hoàn toàn chân thật như những người khác, và chúng tôi thương yêu y cũng bằng một tình thương không kém.
Khi đó, nhân vật thứ hai từ từ tiến lên và đứng yên một lúc. Đức Jesus day lại, mở rộng hai tay ôm lấy người ấy và nói: “Hỡi Phi Lát thân mến.” Thật là không ai có thể lầm lẫn về những hảo ý của cả hai vị.
Kế đó, Phi Lát cất tiếng nói:
-Tôi đã đau khổ trong nhiều năm sau khi tuyên bố bản án vào cái ngày mà tôi đã nhẹ dạ gạt bỏ cái trách nhiệm nặng nề của tôi. Trong đời sống hằng ngày, rất ít người trong chúng ta nhận thức được những gánh nặng vô ích mà họ chồng chất lên vai kẻ khác chỉ vì họ muốn trốn tránh trách nhiệm của mình. Nhưng khi chúng ta đã thức tỉnh, chúng ta hiểu rằng khi mình càng cố gắng tránh né bổn phận và tìm cách đặt gánh nặng của mình lên vai kẻ khác, thì cái gánh nặng ấy lại càng đè nặng trên vai mình. Tôi đã phải mất nhiều năm ray rứt đau khổ mới nhìn thấy rõ điều đó, nhưng thật cũng là một niềm vui mừng lớn lao thay từ khi tôi đã tỉnh ngộ!
Khi đó, khúc hợp ca vô hình trổi lên với một âm điệu du dương khôn tả. sau vài điệu nhạc, Đức Jesus tiến lên và nói:
-Các ngươi có lấy làm ngạc nhiên chăng, khi biết rằng tôi đã tha thứ từ lâu cho những kẻ đã đóng đinh tôi trên Thánh Giá? Kể từ lúc đó, tại sao người thế gian không tha thứ lẫn nhau như tôi vậy? Tại sao các người không nhìn thấy tôi trong cái chân tướng bản thể, không phải bị đóng đinh trên Thánh Giá, mà vượt lên cao hơn tất cả những gì là trần gian tục lụy?
Khúc ca vô hình lại tiếp tục với câu hát: “Xin Ngài cứu rỗi và giải thoát cho tất cả, hỡi Ngài là Con của Chúa Trời. Các người hãy nghiêng mình suy tôn Ngài, nước Chúa đã được đặt ra cho nhân loại trường cửu đến muôn đời. Thật vây, Ngài sẽ ở bên cạnh các người, mãi mãi…”
Đó không phải là một cảnh tượng xa xôi, huyền ảo, hay lu mờ. Chúng tôi thật sự có mặt trong gian phòng lúc ấy và chúng tôi đã nói chuyện với những người đối thoại. Chúng tôi đã bắt tay chào hỏi và đã chụp ảnh tất cả các vị. Các vị đã hiện diện giữa nhóm chúng tôi, và chúng tôi đã vây quanh các vị. Sự khác biệt duy nhất giữa các vị với chúng tôi là các vị được bao phủ quanh mình bằng một thứ hào quang đặc biệt. hào quang đó dường như là cái nguồn xuất phát ra ánh sáng chiếu khắp phòng. Các vị không có tỏa ra một cái bóng nào như chúng tôi. Thể xác các vị dường như trong suốt một cách lạ thường, bàn tay sờ vào thì nó giống như chất bạch ngọc ( albâtre ). Tuy nhiên, thân thể các vị có những rung động ưu ái tốt lành và tỏa ra chúng quanh sự nhiệt thành và ấm áp của tình thương. Sau khi các vị đã ra đi, gian phòng dường như vẫn còn giữ lại sự ấm áp và ánh sáng của các Ngài. Sau đó, mỗi khi chúng tôi bước vào phòng này, chúng tôi đều cảm thấy như vậy. Một ngày nọ, vài người trong nhóm chúng tôi hội họp tại đó, trao đổi cảm tưởng lẫn nhau và vị trưởng nhóm chúng tôi nói:
-Gian phòng này thật là kỳ diệu.
Anh ta đã biểu lộ cái cảm tưởng chung của chúng tôi, chúng tôi không ai nói thêm điều gì nữa. Khi chúng tôi trở lại đó vào mùa thu năm sau, gian phòng giống như một nơi linh điện và chúng tôi ngồi tĩnh tâm tại đó trong nhiều giờ.
Sau cuộc gặp gỡ đầu tiên đó, chúng tôi đợi cho các vị siêu nhân bước ra khỏi phòng. Trong khi Phi Lát sắp sửa ra đi, người yêu cầu vị trưởng nhóm chúng tôi cùng đi theo người. Chúng tôi dùng các cầu thang đi xuống phòng dưới, và đi theo con đường hầm để ra ngoài đường. Chúng tôi đi về làng và trở về nhà trọ, tại đây chúng tôi còn ngồi nói chuyện đến nửa đêm.
Sau khi các vị quan khách đã ra về, chúng tôi tựu họp chung quanh bà chủ nhà, và mỗi người đều đến bắt tay bà để cám ơn bà về buổi tối đặc biệt đó. Một người trong chúng tôi nói:
-Tôi chỉ có một cách duy nhất để phát biểu những tư tưởng và cảm nghĩ của tôi, là nói rằng những quan niệm vật chất thiển cận của tôi đã hoàn toàn tan vỡ đến nỗi tôi sẽ không bao giờ còn thấy lại một mảnh vụn nhỏ nhặt nào!
Dường như bạn tôi đã thức động đến những tư tưởng thầm kín của tất cả mỗi người trong nhóm. Về phần tôi, tôi không nói gì về những cảm nghĩ của mình và cũng không hề nghĩ đến việc thuật chuyện lại cho ai nghe. Việc đó tôi để tùy theo sự tưởng tượng của độc giả. Khi chúng tôi chào bà chủ nhà trước khi đi ngủ, không ai thốt ra một lời nào nữa. Mỗi người đều có cảm tưởng rằng một thế giới hoàn toàn mới lạ đã xuất hiện trước mắt chúng tôi. Chúng tôi lui về phòng riêng trong đêm đó với ý nghĩ rằng mình đã trải qua một ngày đầu năm tốt đẹp nhất trong đời.
II
Sáng ngày hôm sau, vào lúc ăn điểm tâm, chúng tôi hỏi bà chủ nhà và được biết rằng không phải là một điều bất thường mà thấy Đức Jesus xuất hiện như Ngài đã làm đêm trước. Bà nói rằng Ngài vẫn thường tham dự với bà và các bạn hữu trong công việc chữa bịnh.
Ngày đó, bà chủ nhà và hai bà khác quyết định đến ngôi đền với chúng tôi. Khi chúng tôi vừa ra khỏi nhà, hai người đàn ông đi theo chúng tôi. Một người nói với bà chủ nhà rằng có một đứa trẻ trong làng bị đau ốm và nhờ bà đến chữa bịnh. Chúng tôi bỏ dở lộ trình và đi theo hai người lạ mặt đến nhà đứa trẻ, thì thấy em bé ấy thật sự đang đau nặng. Bà chủ nhà chúng tôi liền tiến tới và đưa hai tay ra. Mẹ em bé đặt đứa nhỏ trong vòng tay của bà. Gương mặt đứa bé liền sáng lên, rồi nhăn lại trong một lúc. Sau vài phút, nó ngủ một giấc li bì. Bà chủ nhà mới trả em bé lại cho người mẹ nó và chúng tôi ra đi để đến ngôi đền.
Người ta đưa chúng tôi đi qua nhiều phòng trong ngôi đền. Trong lúc nói chuyện, chúng tôi được biết rằng một trong hai người đã đi theo chúng tôi hồi sớm mai là con cháu của một trong các bậc siêu nhân có gương mặt còn trẻ mà chúng tôi đã gặp tại làng cũ của Thánh Jean Baptiste ở ngày xưa. Chúng tôi đã gọi vị siêu nhân ấy là vị sư tổ, tác giả các văn kiện cổ xưa. Trái lại, người cháu chắt này già như một ông lão, điều này làm chúng tôi ngạc nhiên.
Trong khi chúng tôi trở lại gian phòng thứ nhất, vị trưởng nhóm của chúng tôi hỏi rằng một điều ước nguyện có thể nào thực hiện được chăng? Bà chủ nhà đáp rằng mọi điều mong ước được bày tỏ dưới một hình thức toàn vẹn sẽ được thực hiện. bà nói thêm rằng sự mong ước là một hình thức cầu nguyện, rằng Đức Jesus vẫn dùng một hình thức cầu nguyện toàn vẹn vì lời cầu nguyện của Ngài luôn luôn được đáp ứng. Một lời cầu nguyện luôn luôn được đáp ứng chỉ có thể là toàn vẹn, bởi đó nó rất khoa học, và nếu nó đúng tinh thần khoa học, lẽ tất nhiên nó phải theo một định luật đúng đắn. bà chủ nhà nói tiếp:
-Định luật ấy là như vầy: Lời cầu nguyện được đáp ứng là tùy theo đức tin. Nói một cách khác, bất luận là bạn mong ước điều gì khi bạn cầu nguyện, bạn hãy tin rằng bạn đã nhận được những điều mong ước đó, rồi bạn sẽ có.
Nếu chúng ta biết chắc rằng những gì ta cầu xin đã được ban cho ta, chúng ta cũng biết rằng chúng ta đã hành động đúng luật. Và nếu điều mong ước được thực hiện, chúng ta biết rằng luật đã ứng nghiệm. Còn nếu điều ta ước mong không được đáp ứng, thì ta biết rằng chúng ta đã cầu nguyện trái phép. Lỗi ấy không phải ở nơi Trời, mà ở nơi chúng ta. Trong trường hợp đó, thì đây là điều răn:
“Các bạn hãy kính yêu Thượng Đế với tất cả tấm lòng thành, với tất cả linh hồn, tất cả sức mạnh, tâm tư và trí não của bạn. Bây giờ, bạn hãy đi sâu vào tâm hồn bạn, không thành kiến, không sợ hãi, và không nghi nan, với một tâm hồn vui vẻ, tự do và biết ơn, và biết rằng những gì bạn cần dùng, những gì bạn cầu mong, bạn đã được rồi đấy.”
Cái bí quyết là hãy nâng tâm hồn lên cho hòa nhịp với Thượng Đế. Kế đó, phải giữ nguyên trạng thái đó không cho suy chuyển một li, dầu cho ta có gặp phải sự chống đối của toàn thể thế giới. Đức Jesus nói:
-Riêng ta, ta không thể làm gì được. Đức Chúa Cha ngự nơi ta đã làm tất cả mọi việc.
Các bạn hãy có đức tin nơi Thượng Đế, đừng nghi ngại, đừng sợ sệt. Các bạn hãy nhớ rằng quyền năng của Thượng Đế không giới hạn. Tất cả mọi việc, ta đều có thể làm được.
III
Trong nhiều ngày liên tiếp, suốt hai tháng trường chúng tôi nghiên cứu một loạt những tấm bia đá cổ xưa sắp thành hàng trong một gian phòng kín của ngôi đền. Những bia đá này có khắc những cổ tự và những hình biểu tượng hàm xúc nhiều ý nghĩa thâm sâu. Ông lão đi theo chúng tôi giảng giải cho chúng tôi nghe những ý nghĩa của các bia đá cổ. Một ngày nọ vào đầu tháng ba, như thường lệ chúng tôi đến gian phòng nói trên và thấy ông lão nằm im bất động trên tấm nệm, dường như người ngủ. Một bạn tôi bước đến gần, đặt nhẹ một bàn tay trên mình ông lão để đánh thức ông dậy, nhưng liền thụt lùi lại và hoảng hốt kêu:
-Ông ta không còn thở, hay là ông ấy đã chết rồi!
Chúng tôi tựu lại quanh tấm nệm với ý nghĩ là ông lão đã chết nên không để ý đến việc gì xảy ra và có ai bước vào phòng. Bỗng một tiếng “Chào các bạn” kéo chúng tôi ra khỏi cơn mơ. Chúng tôi quay lại phía cửa vào và thấy đức Tuệ Minh. Sự xuất hiện của ngài làm chúng tôi ngạc nhiên, ví chúng tôi tưởng là ngài đang ở một nơi cách đây một ngàn năm trăm cây số. Trước khi chúng tôi định tĩnh tinh thần, ngài bước tới gần và bắt tay chúng tôi.
Sau một lúc, hai người trong nhóm chúng tôi lui ra sau và đức Tuệ Minh bước đến gần tấm nệm. Đặt một bàn tay trên trán ông lão, ngài nói:
-Đây là một huynh đệ thân mến của chúng ta vừa mới từ giã cõi đời và bỏ dở công việc của y đang làm. Các bạn nghĩ rằng y đã chết. Ý tưởng đầu tiên của các bạn là tìm một người đào huyệt, mua một cỗ quan tài, và xây cho y một ngôi mộ để cho y yên giấc nghìn thu. Hỡi các bạn, hãy suy nghĩ trong một lúc. Ngày xưa Đức Jesus đã kêu gọi đến ai khi Ngài nói: “Hỡi Chúa Cha, con xin tạ ơn Chúa đã nghe lời cầu nghuyện của con?” Ngài không kêu gọi đến cái phàm ngã, cái lớp vỏ bên ngoài. Ngài nhìn nhận và kêu gọi đến cái Chân Ngã, tức Đại Ngã vô biên, vốn toàn năng, vốn nghe, biết, và nhìn thấy tất cả, tức là đức Thượng Đế toàn thông và hiện diện ở khắp mọi nơi. Đức Jesus chủ ý đến điều gì khi Ngài đứng bên cạnh nấm mồ của Thánh Lazare? Phải chăng người làm như các bạn là nhìn vào lỗ huyệt đào, và thấy xác thể Thánh Lazare đang chương sình và sắp tan rã? Không. Khi mà các bạn chỉ nghĩ đến người chết, Ngài nghĩ đến người sống, là Con duy nhất của Chúa Trời. Nhãn quang của Ngài trụ vào sự sống trường cửu, bất biến, hiện diện khắp nơi và thấm nhuần tất cả mọi vật. Bây giờ, với tầm nhãn quang của chúng ta cương quyết nhắm vào sự hiện diện hằng có của Thượng Đế, chúng ta có thể nhìn thấy hoàn tất công việc của người huynh đệ thân yêu này, y đã không bao giờ tuyệt đối trông cậy nơi Thượng Đế. Y đã trông cậy một phần vào sức mình và đã đi đến trạng thái hiện tại mà các bạn đã thấy. Y đã bỏ cuộc. Y đã phạm vào điều lầm lạc mà nhiều người trong các bạn đang làm hiện thời, điều lầm lạc mà các bạn gọi là sự chết. Người huynh đệ thân yêu này đã không có khả năng từ bỏ sự nghi ngờ và sợ sệt. Y đã cậy nơi sức mình và không thể hoàn tất công việc mà mỗi người trong chúng ta đều phải làm. Nếu chúng ta cứ để y nằm yên như thế, thể xác y sẽ tan rã. Y sẽ phải trở lại cõi trần để hoàn thành công viêc thế gian mà y làm chưa xong. Thật ra, công việc ấy đã gần xong đến nỗi chúng ta có thể giúp y hoàn tất chu đáo. Chúng ta cho rằng thật là một vinh dự lớn lao mà có thể giúp đỡ y trong trường hợp này. Các bạn đã tự hỏi rằng y có thể nào thức tỉnh dậy và sống lại như mọi người hay chăng? Có, y có thể, và tất cả những người đã chết như y cũng đều có thể sống lại. Mặc dầu các bạn cho rằng y đã chết, nhưng chúng tôi là những người đã từng chia sẻ ít nhiều cuộc đời của y, chúng tôi có thể giúp đỡ y. Không bao lâu y sẽ hiểu và sẽ có thể đem thể xác đi theo với y. Không cần phải bỏ xác cho cái gọi là “Sự chết” và sự tan rã, dẫu rằng sau khi đã làm cái điều lầm lạc lớn lao nói trên…
Đức Tuệ Minh ngừng nói trong một lúc và có vẻ đắm chìm trong một cơn thiền định thâm sâu. Một lúc ngắn ngủi sau đó, bốn người trong các vị quý khách gặp trong làng đều bước vào gian phòng. Các vị bước đến gần nhau, cũng nhắm mắt định thần và đi vào cơn đại định thâm trầm. Kế đó, hai người trong các vị đưa tay ra và mời chúng tôi cùng nhập cuộc. Chúng tôi bước đến gần và khoác tay trên vai nhau, làm thành một vòng tròn chung quanh chỗ nằm của xác chết.
Chúng tôi đứng im lặng trong một lúc, kế đó ánh sáng trở nên tỏ rạng hơn trong gian phòng. Chúng tôi quay lại nhìn thì thấy Đức Jesus và Phi Lát đang đứng cách chúng tôi có vài bước. Hai vị tiến tới và nhập đoàn cùng với chúng tôi. Lại một cơn im lặng thâm trầm tiếp theo sau, kế đó Đức Jesus đến gần xác chết, đưa hai tay lên và nói:
-Hỡi các bạn, tôi xin đề nghị với các bạn hãy cùng tôi vượt trong một lúc qua cõi giới bên kia cửa Tử. Cõi ấy không phải là vùng cấm địa như các bạn có thể tưởng. Nếu các bạn cùng tôi vượt qua cửa Tử và quan sát cõi ấy từ phía bên kia, các bạn sẽ thấy rằng nó được thuần túy tạo nên bởi những tư tưởng của con người. Ở cõi giới bên kia cũng có sự sống, giống như bên này vậy.
Đức Jesus đứng yên một lúc, hai tay đưa thẳng về phía trước, và nói:
-Hỡi người anh em và bạn hữu, bạn hiện diện với chúng tôi, chúng tôi cùng hiện diện với bạn, và tất cả chúng ta đều hiện diện chung nhau với Chúa Trời. Sự tinh khiết tuyệt đối, sự bằng an và điều hòa của Chúa Trời bao phủ và thấm nhuần tất cả. Sự thực hiện những điều đó nay đã biểu lộ nơi bạn một cách độc đáo và rõ rệt đến nỗi bạn có thể đứng dậy và được nhận ở một bên đấng Cha Lành. Bạn thân mến, bây giờ bạn đã thấy và biết rằng thể xác của bạn không phải là cát bụi trở về cát bụi, hay nhúm tro tàn hoàn lại đống tro tàn. Sự sống vẫn ở đó, tinh anh và trường cửu.Không cần phải bỏ thể xác cho nó tan rã trong sự chết. Bây giờ bạn đã nhận thức được sự huy hoàng của cõi giới nguyên thủy của mình. Bây giờ bạn có thể đứng dậy và đến với Chúa Trời…
Hỡi quý độc giả, nếu người ta thử diễn tả sự mỹ lệ và tinh anh của ánh sáng tràn ngập gian phòng này bằng ngôn ngữ của trần gian, thì đó chỉ là những danh từ trống rỗng. Khi xác chết bất động ngồi dậy, dường như ánh sáng chiếu xuyên qua mọi vật, thành thử không có vật gì phát ra bóng đen, cả thể xác của người chết cũng như của chúng tôi.
Kế đó, những vách tường dường như nới rộng ra và trở nên trong suốt, và sau cùng dường như tầm nhãn quang của chúng tôi phóng vào khoảng không gian vô tận. Không thể dùng danh từ nào để diễn tả sự huy hoàng của cảnh tượng lúc ấy. Khi đó chúng tôi hiểu rằng Thần Chết đã biến mất và chúng tôi đang hiện diện trước Sự Sống trường cửu, huy hoàng.
Người trần gian như chúng tôi chỉ có thể nhìn với đôi mắt kinh ngạc. Trong những giây phút đó, chúng tôi vượt lên cao hơn nhiều những gì mà một khối óc giàu tưởng tượng có thể nghĩ về sự mỹ lệ huy hoàng của cõi Trời. Đó không phải là một cơn mơ, mà đó là sự thật. Sự thật ấy có thể vượt khỏi rất xa tất cả những giấc mơ. Ngày hôm đó, ảnh hưởng kỳ diệu về sự mỹ lệ và sự bằng an do cảnh tưởng ấy gây ra, cộng thêm với đức tin lớn lao mà các vị Chân Sư đã gây cho chúng tôi, đã hoàn toàn đưa chúng tôi vượt qua bên kia bức rào ngăn cách giữa sự Sinh và sự Tử. Ngày nay, bức rào ngăn cách đó đối với chúng tôi chỉ còn là đồng bằng không chướng ngại. Tuy nhiên, dường như chúng tôi thấy một cách rõ rệt rằng bằng cách này hay cách khác, mỗi người phải tự mình làm sự cố gắng cần thiết để vượt qua những chướng ngại nếu y muốn nhìn thấy sự huy hoàng lộng lẫy của cõi giới vô hình.
Mọi di tích của sự già nua đã biến mất nơi Chander Sen, mà chúng tôi coi như đã phục sinh từ cõi chết. Y day lại các bạn hữu và liền cất tiếng nói. Giọng nói của y hàm xúc một điểm chân thành và hùng dũng:
-Hỡi các bạn, các bạn không thể biết được nỗi vui mừng,sự bằng an và niềm ân huệ lớn lao mà các bạn đã đem đến cho tôi bằng cách đánh thức tôi dậy như các bạn đã làm. Một lúc trước đây, tất cả đều tăm tối. Tôi đang ở đó, ngại ngùng sợ sệt không dám tiến tới và cũng không thể thụt lùi. Tôi chỉ có một cách để bày tỏ những cảm tưởng của tôi. Tôi đang đắm chìm trong sự tối tăm u ám, thì bỗng nhiên tôi thức tỉnh, và bây giờ tôi lại ở một bên các bạn.
Kế đó, gương mặt y trở nên sáng lạn với một niềm hân hoan vui vẻ đến nỗi người ta không thể nghi ngờ lòng thành thật của y. Y day lại chúng tôi và nói:
Hỡi các bạn, thật là hân hạnh thay khi tôi nghĩ đến sự kết hợp giữa chúng ta. Các bạn không thể biết được niềm vui của tôi khi tôi bắt tay các bạn. Thật là một niềm phúc lạc mà nhìn thấy và cảm xúc được sự chân thành của các bạn khi các bạn chấp nhận dự can thiệp của những vị cứu trợ cao cả thiêng liêng của tôi! Nếu các bạn có thể nhìn thấy bằng đôi mắt của tôi trong lúc này, các bạn sẽ biết được cái ân huệ mà tôi vừa kinh nghiệm. Niềm vui lớn nhất của tôi là biết được một cách chắc chắn rằng mỗi người trong các bạn sẽ có ngày đạt tới một giai đoạn giống như của tôi và chừng đó sẽ biết được một niềm vui tương tự. Tôi có thể nói rằng thật cũng đáng sống trọn một cuộc đời để thụ hưởng được một lúc an lạc như thế…
Một lúc sau, Chander sen đã biến mất. Phải chăng đó chỉ là một ảo ảnh? Các bạn tôi đều đồng thanh cho là không, vì có hai người đã đích thân đến bắt tay đương sự. Tôi để cho quý độc giả quyền tự do phê phán việc ấy.
Khi đó một trong các vị quý khách ở làng ấy day lại chúng tôi và nói:
-Tôi biết các bạn đang có sự nghi nan. Nhưng các bạn nên hiểu rằng tất cả những việc ấy không phải được dàn cảnh để làm vui mắt các bạn. Đó chỉ là một sự việc thông thường và ngẫu nhiên xảy ra để làm vui mắt các bạn. Đó chỉ là một sự việc thông thường và ngẫu nhiên xảy ra trong cuộc đời của chúng tôi. Khi đến một lúc quyết định, chúng tôi có thể thắng đoạt thời cơ và làm chủ tình hình. Nếu để riêng một mình y, người anh em này không đủ sức để tự mình vượt qua bức rào chướng ngại. Quả thật, như các bạn đã thấy, y đã chết và bỏ xác nằm trơ. Nhưng vì y đã đạt tới một trình độ tâm linh khá cao, nên chúng tôi có thể giúp y vào lúc quyết định. Trong trường hợp đó, linh hồn đã trở lại, thể xác hoàn thành sự tinh luyện của nó đến mức toàn hảo, và hành giả có thể đem xác y đi theo bất cứ nơi đâu. Sự bất hạnh của người anh em nay là do bởi y muốn chết quá! Y đã bỏ xác y lại đúng vào lúc mà chỉ thêm vài bước nữa cũng đủ để cho y vượt qua bức rào ngăn cách và hoàn tất công phu tu luyện đến mức toàn hảo. Thật là một hân hạnh rất lớn cho chúng tôi mà có thể giúp y trong dịp đó…
Chúng tôi từ từ rút tay lại và đứng yên một phút trong một cơn im lặng hoàn toàn. Một người trong chúng tôi gián đoạn phút im lặng đó bằng một câu:
-Ôi! Thượng Đế toàn năng!
Riêng phần tôi, dường như không bao giờ tôi còn muốn nói gì nữa. Tôi muốn suy gẫm. Trong một giờ đồng hồ, tôi đã sống trọn một đời người. Chúng tôi tất cả đều ngồi xuống. Vài người trong chúng tôi đã định tĩnh tinh thần trở lại, bèn nói chuyện thì thầm với nhau.
Một khắc đồng hồ sau, trong khi chúng tôi đang ngồi nói chuyện, một bạn tôi bước đến gần cửa sổ nhìn ra ngoài và nói hình như có nhiều người lạ mặt đã vào làng. Ngạc nhiên, chúng tôi đi ra để nhìn xem. Thật vậy, thật là một điều rất hiếm mà có những người khách lạ đi bộ đến làng vào mùa này, vì lúc ấy là giữa mùa đông.
Khi đến làng, chúng tôi thấy một nhóm vài người đến từ một thôn nhỏ cách đó chừng độ năm chục cây số. Họ có đem theo một người, đi lạc trước đó ba người trong một cơn bão tuyết và hầu như đã hoàn toàn bị chết cóng. Các bạn y chở y nằm trên một chiếc cáng và đã đi bộ vượt qua một quãng đường dài đầy tuyết phủ. Đức Jesus bước đến gần, đặt bàn tay trên đầu người ấy và đứng yên trong một lúc. Thình lình, người ấy bỏ mền ra và liền đứng dậy. Các bạn y trố mắt nhìn một cách vô cùng kinh ngạc và bỏ chạy trong cơn hoảng sợ. Chúng tôi không thể nào thuyết phục họ quay trở lại. Người chết cóng vừa được chữa khỏi có vẻ hoang mang ngơ ngác. Hai bạn trong nhóm chúng tôi mời y về nhà họ để nghỉ ngơi ít lâu. Kỳ dư đều quay trở lại nhà trọ, và chúng tôi thức đến nửa đêm để bình luận về những việc xảy ra trong ngày hôm đó.
IV
Câu chuyện xoay chiều đến một điểm, khi đó một bạn tôi hỏi địa ngục ở tại nơi đâu, và ác quỷ có nghĩa là gì? Đức Jesus phản ứng mau lẹ và đáp:
-Địa ngục và ác quỷ không có nơi chỗ nào nhất định ngoài ra trong tư tưởng phàm tục của người đời. cả hai đều ở đúng vào nơi nào mà con người đặt ra cho chúng. Các bạn là những người có học thức, các bạn có thể nào tìm thấy chăng một vị trí địa dư nào cho địa ngục và ác quỷ trên quả địa cầu? Nếu cõi Trời là tất cả và bao trùm tất cả, làm sao người ta có thể tìm thấy trong chất dĩ thái bao la một nơi chốn nào nhất định cho địa ngục hay ác quỷ? Nếu Chúa Trời là tất cả mọi nơi và cai quản tất cả mọi sự, thì còn có chỗ nào đâu nữa cho địa ngục hay ác quỷ trong cái thiên cơ toàn diện của Ngài? Bây giờ chúng ta đã lục soát khắp cả vũ trụ và không tìm thấy chỗ nào là nơi trú ẩn của ác quỷ. Như vậy, chúng ta bắt buộc phải nhìn nhận rằng ác quỷ ở chỗ nào có người ta và nó chỉ có những quyền năng mà người đời đã gán cho nó. Các bạn tưởng tượng rằng tôi có thể đuổi tà ra khỏi bất cứ một người nào, rồi sau đó để cho nó nhập vào một bầy heo, rồi bầy heo này sẽ đâm đầu xuống biển? Tôi không hề thấy tà ma quỷ quái nhập vào một người nào, trừ phi người ấy đã tự ý đem nó vào mình. Cái quyền năng duy nhất của tà ma mà tôi nhìn nhận là cái quyền năng mà chính người đời đã gán cho nó.
Một lúc sau, câu chuyện xoay chiều đến vấn đề Thượng Đế, và một bạn tôi hỏi:
-Con muốn biết Chúa Trời là ai và bản chất thật sự của Ngài là như thế nào?
Đức Jesus đáp:
-Tôi hiểu tầm mức quan trọng của câu hỏi đó. Anh muốn xác định vấn đề ấy cho rõ ràng. Ngày nay, thế giới đang bị xáo trộn bởi nhiều tư tưởng trái ngược. Người ta không tìm đến nguồn gốc của các danh từ. Thượng Đế hay Chúa Trời là cái nguyên lý cai quản mọi vật. Cái Nguyên Lý nó ngự trị trong một sinh vật là Tinh Thần, và Tinh Thần vốn toàn năng, toàn trí và toàn thông. Chúa Trời là tư tưởng duy nhất làm cái nguyên nhân trực tiếp và chỉ đạo của tất cả mọi sự tốt lành ở chung quanh chúng ta. Chúa Trời là nguyên nhân của mọi sự sống mà ta thấy ở chung quanh ta. Chúa Trời là nguồn gốc của tình Bác Ái bao la nó duy trì và hợp nhất tất cả mọi hình thể sinh hoạt. Chúa Trời hay Thượng Đế là một cái Nguyên Lý vi diệu, chớ không phải là một Đấng có cá thể riêng biệt. Chúa Trời không bao giờ là một nhân vật riêng rẽ, trừ phi khi nào Ngài trở nên một đấng Cha Lành, đầy tình thương và có cá tính đối với quan niệm riêng của mỗi người. Thật vậy, đối với mỗi người, Chúa Trời có thể trở nên một bậc Phụ Mẫu, đầy Bác Ái và ban rải tất cả. Chúa Trời không bao giờ là một đấng Cao Cả ngự trị ở một nơi nào đó trên Trời, ở một cõi giới gọi là Thiên Đàng, nơi đó Ngài ngồi trên một chiếc ngai vàng và xử xét người đời sau khi họ chết. Vì Chúa Trời chính là Sự Sống vậy, và Sự Sống không bao giờ mất. Cái hình ảnh nói trên chỉ là một quan niệm sai lầm nẩy sinh ra trong trí của những kẻ ngu dốt.
Điều ấy cũng áp dụng cho nhiều sự sai lầm khác mà các bạn có thể nhận thấy trên thế gian ở chung quanh ta. Chúa Trời không phải là một vị Quan Tòa, hay một ông vua, có thể áp đặt sự hiện diện của Ngài đối với con người, và đem người đời ra xét xử trước một tòa án công lý.Chúa Trời là một đấng Cha Lành đầy Bác Ái và giàu lòng quảng đại, mở rộng hai tay mừng đón khi các bạn tiến đến gần Ngài. Ngài không cần biết đến bạn là ai trong hiện tại hay trong quá khứ. Bạn luôn luôn là con của Ngài, nếu bạn tìm đến Ngài với tấm lòng thành và với những mục đích chân thật, dẫu rằng bạn đã có lúc bỏ nhà đi hoang và đã mỏi mệt trên con đường lầm lạc sa ngã. Bạn luôn luôn có thể lại quay trở về nhà của đấng Cha Lành với một niềm tin tưởng chắc chắn về một sự tiếp đón đầy hảo ý. Bữa tiệc liên hoan luôn luôn chờ đón bạn ở đó, bàn tiệc luôn luôn được sắp đặt sẵn sàng. Khi bạn trở về, bạn sẽ không nghe một lời trách móc nào của một huynh đệ đã trở về nhà trước bạn.
Các bạn có thể nhìn thấy Chúa Trời và nói chuyện với Ngài bất cứ lúc nào, cũng y như bạn nói chuyện với cha mẹ, bạn bè hay thân nhân của bạn. Thật vậy, Ngài còn gần gũi bạn hơn bất cứ một người nào trên thế gian, Ngài chăm sóc và ưu ái bạn còn hơn bất cứ một người bằng hữu thân tín nào. Ngài không bao giờ giận dữ hay chán nản. Chúa Trời không hề huỷ diệt, sát phạt, gây thương tổn hay làm buồn lòng một người con nào hay một sinh vật nào của Ngài sáng tạo ra. Nếu Ngài làm như vậy, Ngài đã không phải là Chúa Trời. Một đấng Thượng Đế mà xét xử, sát phạt hay từ chối một sự tốt lành nào đối với những sinh vật hay những đứa con của Ngài, chỉ là do sự tưởng tượng của những triết gia ngu dốt. Các bạn không cần phải sợ sệt một đấng Thượng Đế như thế, trừ phi các bạn cố ý muốn làm như vậy. Vị Chúa Trời chân chính luôn luôn đưa tay ra và nói: “Tất cả những gì Ta sở hữu, cũng là của con.” Một thi nhân há chẳng có nói rằng Thượng Đế gần với ta còn hơn là hơi thở, hai tay chân của ta. Thi sĩ nói câu ấy hẳn là do một nguồn cảm hứng thiêng liêng khi họ hướng về điều thánh thiện hay công lý. Mỗi người đều có thể được sự cảm hứng thiêng liêng bất cứ lúc nào nếu họ muốn.
Nhiều vị bạn hữu của tôi cùng đoàn kết với nhau để giúp đỡ thế gian. Đó là công việc làm trong đời của chúng tôi. Có những thời kỳ phải cần huy động tất cả nghị lực của chúng tôi lại với nhau để đánh tan những luồng sóng tư tưởng xấu xa hắc ám, những tư tưởng nghi ngờ, dị đoan nó suýt nữa đã nhận chìm toàn thể nhân loại trong vực thẳm. Các bạn có thể gọi đó là những lực lượng tà vay, bất hảo hay gì tùy ý. Theo chúng tôi, những sức mạnh đó chỉ xấu xa hắc ám là trong phạm vi mà người đời đã tạo ra nó.
Nhưng ngày nay, chúng tôi thấy một ánh sáng ngày càng tỏ rạng hơn lên, khi mà người đời từ bỏ những điều mê tín dị đoan trói buộc của họ. Sự giải thoát đó có thể làm cho họ đắm chìm một ít lâu trong chủ nghĩa duy vật. Nhưng điều này giúp cho họ tiến lên gần mục đích, vì chủ nghĩa duy vật không gây chướng ngại cho tinh thần bằng sự mê tín dị đoan hay những huyền thoại hoang đường. Cái ngày mà tôi đi trên mặt nước, chắc các bạn tưởng rằng tầm nhãn quang của tôi hướng về chỗ nước sâu, vực thẳm chăng? Không. Tôi chỉ nghĩ đến quyền năng của Chúa Trời, nó thắng đoạt tất cả mọi sự hiểm nguy của vực thẳm. Khi tôi làm như vậy, mặt nước trở nên rắn chắc như đá, và tôi có thể đi trên mặt biển một cách tuyệt đối an toàn.
Đức Jesus ngừng một lúc, và một bạn tôi hỏi:
-Thưa Ngài, buổi nói chuyện của Ngài với chúng tôi hôm nay có làm phiền rộn Ngài và làm gián đoạn công việc cao cả của Ngài chăng?
-Các anh không thể làm phiền rộn một vị nào trong các bạn hữu của tôi, dẫu rằng chỉ trong một lúc, và tôi nghĩ rằng tôi cũng là một người trong nhóm đó.
Một bạn khác nói:
-Ngài là vị Anh Cả của chúng tôi.
Đức Jesus nở một nụ cười tươi sáng. Ngài nói:
-Cám ơn bạn, tôi vẫn luôn gọi các bạn là anh em.
Khi đó, một người trong chúng tôi day lại Đức Jesus và hỏi Ngài:
-Thưa Ngài, phải chăng mọi người đều có thể biểu lộ đấng Christ tự trong mình?
Ngài đáp:
-Phải, chỉ có một con đường đưa đến sự Toàn Thiện. Con người sinh ra tự Chúa Trời và phải trở về với Chúa Trời. Những gì xuất xứ tự cõi Trời đều phải quay lại cõi Trời. Lịch sử đấng Christ không phải đã bắt đầu từ lúc tôi giáng sinh, cũng như không phải đã chấm dứt khi tôi bị đóng đinh trên Thập Tự Giá. Đấng Christ vẫn hằng có, khi Chúa Trời sáng tạo nên người đầu tiên theo hình ảnh của Ngài và giống như Ngài. Đấng Christ và người ấy chỉ là một. Tất cả mọi người cùng với người ấy cũng chỉ là một. Cũng như Chúa Trời là Cha của người ấy, thì Ngài là Cha của tất cả mọi người. Trong thời gian trên 50 năm sau ngày tôi bị pháp nạn trên cây Thánh Giá, tôi đã sống với những đệ tử và với nhiều người thân yêu của tôi. Tôi đã truyền pháp cho họ. Trong thời gian đó, chúng tôi tựu họp nhau trong một vùng hẻo lánh yên tịnh ngoài xứ Judée, ở đó chúng tôi được ẩn trú an toàn khỏi bị quấy rầy bởi những kẻ tò mò mê tín. Chính ở đó có nhiều người đã sở đắc được những quyền năng lớn lao và thực hiện một công trình vĩ đại. Khi đó tôi hiểu rằng bằng cách rút lui một thời gian, tôi sẽ có thể tiếp xúc với toàn thể thế giới để giúp đỡ nhân loại. Bởi đó, tôi bèn rút lui và sống ẩn dật. Vả lại, những đệ tử tôi thường ỷ lại nơi tôi nhiều hơn là tự trông cậy nơi sức mình. Để giải thoát họ khỏi thói ỷ lại đó, tôi phải rút lui ra khỏi tập đoàn của họ. Vì có sự liên hệ chặt chẽ giữa họ với tôi, nên phải chăng là họ có thể tìm lại tôi tùy ý muốn…
Các bạn hãy tự coi mình như một phần tử của sự sống vô biên. Các bạn hãy chấp nhận tự hy sinh vì lợi ích chung của toàn thể. Các bạn hãy tập làm điều lành mà không cần nghĩ đến hậu quả. Các bạn hãy tập từ bỏ mọi đời sống phàm tục và từ bỏ mọi thứ của cải vật chất của trần gian. Hãy làm như vậy một cách thoải mái tự do, đó không phải là một sự quên mình hay cam tâm sống cuộc đời bần cùng khắc khổ. Bạn càng cho ra bao nhiêu những gì mà Chúa Trời ban cho bạn, thì bạn sẽ nhận thấy rằng bạn lại càng có nhiều hơn để cho ra, dẫu rằng đôi khi dường như bổn phận đòi hỏi bạn phải cho tất cả, thậm chí đến cả sự sống. Khi đó, bạn sẽ thấy rằng người nào muốn duy trì sự sống của mình sẽ mất nó. Bạn sẽ vui mừng mà nhận thấy rằng sự sống mà bạn đem cho kẻ khác, lại chính là sự sống mà bạn đã thu hoạch được. Khi đó bạn sẽ biết rằng nhận lãnh, có nghĩa là cho ra một cách rộng rãi, phóng khoáng. Nếu các bạn hy sinh cái sự sống hữu hình hữu hoại này, một đời sống cao cả hơn sẽ xuất hiện. Tôi bảo đảm với các bạn rằng một đời sống như thế là một sự thực hiện lớn lao không phải cho riêng mình, mà cho tất cả.
Có lúc bạn sẽ có lòng ưu ái để cảm thông với những nhu cầu cấp bách của thế gian. Khi bạn cảm thấy điều đó, bạn sẽ có thể giúp đỡ kẻ đồng loại một cách vô tư mà không hề khoe khoang tự phụ. Bạn có thể ban rải nguồn ân huệ thiêng liêng cho những linh hồn khát khao chân lý mà nguồn ân huệ ấy sẽ không bao giờ cạn. Bạn hãy sử dụng khả năng dùng lời thuyết giảng đạo lý để đem nguồn an ủi cho những kẻ tìm đến bạn, để đem sự bằng an và nguồn hy vọng cho những kẻ bịnh tật, những kẻ mệt mỏi chán nản cuộc sống, tất cả những người bị sự đau khổ của cuộc đời đè nặng lên vai. Bạn có thể thức tỉnh những kẻ mù quáng vô tình hay cố ý. Dẫu cho một linh hồn bị sa đọa đến mực nào, y cũng sẽ cảm thấy rằng có linh hồn đấng Christ đứng ở bên cạnh y…
Kế đó, Đức Jesus nói rằng Ngài phải đến nhà một huynh đệ khác trong làng ngay chiều hôm đó. Tất cả cử tọa đều đứng dậy. Đức Jesus ban ân huệ cho tất cả chúng tôi, và rời khỏi văn phòng với hai người khác.