Home » » CHÂU Á HUYỀN BÍ-T4

CHÂU Á HUYỀN BÍ-T4

Written By kinhtehoc on Thứ Tư, 25 tháng 1, 2012 | 20:09

CHƯƠNG SÁU
Một nền văn minh cổ xưa đến hai trăm ngàn năm năm –Cơn bão tuyết trên vùng Gobi –Những di tích các thành phố cổ -Bọn cướp núi và đoàn kỵ mã cứu trợ vô hình – Một cuộc gặp gỡ huyền diệu.
I
Sáng ngày hôm sau, chúng tôi bắt tay vào công việc phiên dịch chữ cổ tự dùng trong những bản văn kiện và tài liệu cổ. Chúng tôi muốn có sự rõ ràng chân xác tối đa về ý nghĩa của những chữ ấy. Nhờ sự giúp đỡ của bà chủ nhà, chúng tôi học được nhiều về những Thánh Kinh cổ xưa ấy.
Chúng tôi lao mình vào công việc ấy với tất cả tâm hồn. Một buổi sáng, sau độ hai tuần làm việc, chúng tôi đi đến ngôi đền như thường lệ và thấy ông bạn Chander Sen của chúng tôi, là người dường như đã trải qua sự chết và được phục sinh trước đây. Y vẫn mang thể xác bằng xương thịt như mọi người, nhưng những nét mặt của y tuy rằng vẫn y nguyên như cũ, lại không mang dấu vết nào của sự già nua.Không thể lầm được y với một người nào khác. Khi chúng tôi bước vào phòng, y đang ngồi ghế bèn đứng dậy và đến gần để bắt tay chúng tôi với những lời chào hỏi mừng rỡ.
Người ta không thể tưởng tượng sự ngạc nhiên của chúng tôi khi chúng tôi vây chung quanh y và chất vấn y tới tấp. Chúng tôi giống như một đám học trò vô kỷ luật. Tất cả đều hỏi y cùng một lượt, không ai nghe được ai, và không có trật tự trước sau gì cả! Chắc chắn rằng trong cặp mắt của y, chúng tôi có vẻ như một đám trẻ con vừa chận được một đứa khác mang tin sốt dẻo, và tất cả đều muốn biết xem đó là việc gì! Nhưng sự thật vẫn sờ sờ ra đó. Chander Sen đang đứng trước mặt chúng tôi, với giọng nói và những nét mặt đặc biệt của y, nhưng không già chút nào! Thậm chí giọng nói của y cũng đã có được một âm thanh rắn rỏi của người độ vào trung niên. Y có dáng điệu của một người linh hoạt, và khỏe mạnh, sáng suốt. Gương mặt và đôi mắt y phản chiếu những nét linh động khôn tả.
Lúc đầu, chúng tôi chỉ có thể so sánh cái thực trạng của y bây giờ với tình trạng cũ của y. Trước kia, khi chúng tôi mới quen biết y, y là một người già nua lọm khọm, lúc đi đứng phải chống một cây gậy lớn. Y có những lọn tóc dài trắng phau, những bước đi chập choạng, và một gương mặt xanh xao hốc hác. Một người trong bọn chúng tôi đã nhận thấy những điểm đó và đã nói:
-Trong số những nhân vật siêu việt kia, đây là một người đã già đến nỗi có lẽ y gần bước qua bên kia cửa Tử.
Lẽ tất nhiên chúng tôi nhớ đến sự biến đổi ly kỳ mà chúng tôi đã chứng kiến cách đây vài ngày. Nhưng sau khi Chander Sen thình lình biến mất, tất cả những điều ấy đã lui dần vào trong quên lãng, vì chúng tôi tưởng rằng sẽ không còn gặp y trở lại. Những diễn biến kế tiếp theo sau đó một cách mau chóng, đã đẩy thụt lùi việc này vào dĩ vãng đến nỗi chúng tôi hầu như đã quên đi mất. Nhưng nay, nó đã xuất hiện trở lại trong ký ức chúng tôi một cách sống động đến nỗi làm cho chúng tôi ngạc nhiên vô hạn.
Chander Sen đã trẻ hẳn lại một cách không thể tưởng tượng. Nói đúng hơn, y đã trải qua một sự Biến Thể giống như Đấng Christ mà chúng tôi hằng kính yêu rất mực. Xét về sự tương phản rõ rệt giữa hình dáng của y trước kia với tình trạng của y bây giờ, chắc chắn rằng linh hồn y cũng đã tái sinh trở lại. Tuy rằng trước đây chúng tôi không có sống chung với y được bao lâu, nhưng sự tiếp xúc hằng ngày giữa chúng tôi với y đã kéo dài khá lâu để cho chúng tôi được biết y như một người đã già. Kể từ ngày hôm ấy, y đã sống chung với tôi trên hai năm, vừa làm người hướng dẫn vừa làm thông ngôn trong chuyến du hành của chúng tôi vượt qua vùng sa mạc Gobi. Nhiều năm về sau, khi vài người trong phái đoàn chúng tôi gặp lại nhau và hồi tưởng lại việc cũ, thì việc xảy ra sáng ngày hôm ấy là đề tài đầu tiên mà họ nhắc đến trong cuộc nói chuyện.
Khi tôi thuật lại chuyện này, tôi không có ý kể lại tường tận cuộc đàm thoại của chúng tôi đúng từng chi tiết, vì chúng tôi đã trải qua gần trọn hết hai ngày chỉ để nói chuyện mà thôi. Tường thuật từng chi tiết sẽ làm cho độc giả nhàm chán. Bởi vậy, tôi chỉ kể lại những điểm chính trong câu chuyện này. Khi cơn xúc động đầu tiên đã qua, chúng tôi ngồi xuống và Chander Sen bắt đầu nói:
-Người ta đã chỉ cho tôi thấy rằng trí tuệ của con người có thể được chuyển biến thành trí tuệ thiêng liêng. Tôi không còn nghi ngờ gì nữa. Trong khi những điều đó được giải thích cho tôi, tôi phát hiện rằng tôi có thể bước vào cõi Trời và cõi ấy vốn ở tại bên trong nội tâm. Bây giờ tôi biết rằng Thượng Đế là sức mạnh duy nhất, vốn toàn năng, toàn trí và toàn thông. Những tội lỗi, bất hòa, bịnh tật, sự già nua, chết chóc, đều thuộc về những kinh nghiệm của quá khứ. Bây giờ tôi đã nhìn thấy chân lý và tôi biết rằng tôi đã đi lạc trong đám mây mù của ảo giác. Thời gian và không gian đã hoàn toàn biến mất. Tôi biết rằng tôi sống trong thế giới chủ quan, còn cái thế giới hiện tại chỉ là thuộc về một thế giới khách quan. Nếu tôi có thể nắm giữ lấy những sự nhắn nhủ thầm kín và những tia sáng mà thỉnh thoảng tôi nhận thức được nhờ bởi những giác quan tế nhị của tôi, thì tôi đã có thể tránh được bao nhiêu những giờ phút đau khổ, hoang mang và mệt mỏi!
Trong thời niên thiếu của tôi, tôi đã bắt chước phần lớn của nhân loại. Tôi chỉ tin nơi một lối sống, đó là lối sống thụ hưởng khoái lạc trong mọi lãnh vực. Bởi đó, tôi quyết định sống cuộc đời sung mãn, thụ hưởng đến mức tối đa. Tôi lấy sự ích kỷ làm mục đích chính của đời tôi. Tôi sống buông thả theo đủ mọi thứ nhục dục, thú tánh, và hoang phí nguồn sinh lực đến mức làm cho thể xác tôi trở thành cái vỏ khô khan trống rỗng như các bạn đã thấy trước đây. Bây giờ, tôi xin trình bày một hình ảnh xác nhận việc đó.
Chander Sen ngồi im lặng định thần trong một lúc. Không bao lâu, trên một vách tường của gian phòng hiện ra một hình ảnh giống như đã diễn tả trước đây. Đó là hình ảnh cái thể xác của y vào thời kỳ mà chúng tôi mới quen biết y, hình ảnh của một ông già lọm khọm, đi đứng phải chống gậy. Tiếp theo đó là hình ảnh con người của y bây giờ.
Chander Sen nói tiếp:
-Hình ảnh đầu tiên là của một người đã hoang phí sinh lực của thể xác đến mức chỉ còn để lại có cái lớp vỏ khô kiệt. Còn hình ảnh thứ nhì là của một người đã bảo tồn sinh lực còn nguyên vẹn trong thể xác mình. Trong trường hợp của tôi, các bạn nghĩ rằng đó là một sự phản lão hoàn đồng toàn vẹn và hầu như diễn ra trong khoảnh khắc, điều đó thật đúng. Nhưng tôi nhìn vấn đề dưới một khía cạnh khác. Biết bao nhiêu người cũng có thể có cái dịp may như tôi để nhận được sự giúp đỡ, lòng ưu ái và sự cứu trợ của những đấng Cao Cả mà chúng ta được biết?
Nếu người đời có thể hiểu rằng sinh lực của họ có hàm xúc một nguồn sinh khí dồi dào mãnh liệt như thế nào, họ sẽ cố gắng bảo tồn sinh lực thay vì hoang phí nó. Nhưng họ vẫn nhắm mắt làm ngơ đối với việc ấy. Họ tiếp tục sống trong sự mù quáng, hay sự vô minh, cho đến khi Thần Chết đến đem họ đi mất. Các bạn kính trọng tuổi già và coi mái tóc bạc như một cái mão danh dự, điều đó tôi không hề chối cãi. Nhưng các bạn hãy thử đi sâu hơn vào vấn đề, để xem đằng nào là đáng được đặt trên đài danh dự hơn: một đàng là người có những lọn tóc bạc phơ như tuyết, đã gây nên sự già nua lọm khọm cho chính mình do bởi sự vô minh, nếu không là do bởi sự trác táng trụy lạc của thời niên thiếu; và một đàng là người đã bảo tồn sinh lực, càng ngày càng trở nên mạnh khỏe hơn và dũng mãnh hơn, đủ sức trang bị thể chất để có thể đối phó với tuổi già, và nhờ đó làm tăng trưởng thêm sự hảo tâm và lòng quảng đại của mình? Tôi thú thật là nên có lòng trắc ẩn và tôi nghiệp cho người đã đi đến cõi chết do sự vô minh. Nhưng ta có thể nghĩ gì đối với người cũng đi đến một kết quả tương tự, nhưng có đầy đủ tinh thần sáng suốt minh mẫn để thấu đạt chân lý?
II
Kể từ khi đó, chúng tôi chuyên cần chăm chỉ học chữ cổ tự dưới sự chĩ dẫn của Chander Sen. Ngày tháng trôi qua rất mau như thoi đưa. Đến cuối tháng tư, tức là sắp đến ngày chúng tôi lên đường đi đến đồng sa mạc Gobi, phần lớn các tài liệu cổ vẫn còn chưa dịch xong. Chúng tôi tự an ủi với ý nghĩ rằng chúng tôi sẽ có thể trở lại một ngày nào đó để hoàn tất công việc phiên dịch. Các vị Chân Sư đã dịch giúp chúng tôi một phần lớn các tài liệu, nhưng các Ngài đòi hỏi chúng tôi phải học các chữ cổ tự để có thể tự mình dịch lấy các tài liệu ấy.
Tháng chín năm trước, chúng tôi có hẹn tái ngộ với những nhân viên khác trong phái đoàn tại vùng sa mạc Gobi. Kế đó, họ sẽ đưa chúng tôi đến địa điểm tọa lạc của ba thành phố cổ xưa nay đã chôn vùi dưới lòng đất. Vị trí đúng đắn của những thành phố này có ghi trong vài tài liệu cổ mà chúng tôi chưa được xem, nhưng đã được nghe nói đến. Chúng tôi chỉ có trong tay những bổn sao chép lại các tài liệu đó, nó càng làm khích động sự tò mò của chúng tôi. Những tài liệu cổ cho biết rằng thời đại phát triển của những thành phố này được truy nguyên từ trên hai trăm ngàn năm trở về trước. Dân cư ở đó đã từng có một nền văn minh rất tiến bộ, đã từng biết các môn nghệ thuật cùng các nghề nghiệp thủ công như rèn đồ sắt và làm đồ vàng bạc. Thời đó, vàng ở xứ này rất thông dụng đến nỗi người ta dùng vàng ròng để làm đồ chén đĩa và móng ngựa. Tục truyền rằng người thời ấy có quyền năng chế ngự các sức mạnh thiên nhiên, biết sử dụng những năng lực thần bí của chính họ. Thật vậy, những huyền thoại đó thật giống một cách lạ lùng với những chuyện trong Thần Thoại Hy Lạp.
Theo các bản đồ chỉ dẫn thì ngày xưa, đế quốc Uigour gồm một phần lớn Châu Á và Châu Âu đến tận bờ biển Địa Trung Hải của Pháp, với một vùng đồng bằng rộng lớn vô cùng phì nhiêu sung túc và rất đông dân cư. Sự khám phá di tích những thành phố cổ của đế quốc ấy chắc chắn sẽ đóng góp một phần rất lớn cho lịch sử nhân loại. Những tài liệu cổ diễn tả đế quốc Uigour dưới triều đại của bảy vị hoàng đế có những nét huy hoàng lộng lẫy vượt hẳn rất xa xứ Ai Cập thời cổ. Dẫu cho trước thời kỳ bảy vị hoàng đế, các bia đá cổ diễn tả xứ ấy như một nước phồn thịnh hơn Ai Cập rất nhiều. Dân tộc xứ ấy đã sống một thời thái bình thịnh trị, không hề có chiến tranh, không có các nước chư hầu xưng hùng xưng bá, cũng không có chế độ nô lệ.
Thời gian vẫn tiếp tục qua mau và chúng tôi rất bận rộn lo chuẩn bị cuộc hành trình. Chúng tôi phải đến chỗ hẹn vào tháng năm, tại đó chúng tôi sẽ cụ bị đầy đủ lương thực và đồ vật dụng trang bị để hoàn tất chuyến đi cuối cùng.
Tôi không thể nào diễn tả những sự cảm nghĩ của tôi vào lúc gần đến ngày lên đường. Những giờ phút trong thời gian chúng tôi ở lại đây là những giờ phút thần tiên. Tuy rằng chúng tôi đã ở tại đây trên năm tháng và sống gần các Chân Sư trong suốt thời gian đó, thời giờ đã trôi qua rất mau và năm tháng đó đối với chúng tôi dường như chỉ có năm ngày. Một thế giới lạ lùng đang chờ đón chúng tôi, dường như trước mắt chúng tôi là một cánh cửa mở rộng để đưa chúng tôi vào một cõi giới huyền linh với những sự diễn biến không có giới hạn. Mỗi người trong chúng tôi có cảm giác rằng mình chỉ cần vượt qua cái cửa đó, nhưng lại do dự, cũng như chúng tôi cảm thấy phân vân lưỡng lự khi phải từ giã các bậc siêu nhân cao khiết mà chúng tôi tôn kính như những bậc Anh Cả.
Tôi nghĩ rằng trong đời của mỗi người trần gian sẽ có lúc mà y có thể nhìn thấy cái cửa mở rộng cũng như vào cái ngày đẹp trời tháng tư năm ấy chúng tôi đã thấy rõ trước mắt những viễn ảnh vô biên mà người ta có thể đạt tới. Tôi yêu cầu quý độc giả hãy tạm thời bỏ qua tất cả mọi thành kiến của mình, và nếu có thể, quý vị hãy nhìn xuyên qua cặp mắt của chúng tôi. Tôi không ước mong quý vị tin tưởng điều gì cả. Tôi chỉ yêu cầu quý vị hiểu rõ sự khác biệt giữa việc diễn tả cuộc đời của các Chân Sư với việc ngồi dưới chân các Ngài để nghe các Ngài dạy bảo. Dường như nếu chúng ta dám táo bạo tiến tới để vượt qua cái cửa mở rộng nói trên, chúng ta sẽ có thể thực hiện mọi điều mong ước. Tuy thế, chúng ta lại do dự. Tại sao? Đó là bởi vì chúng ta không có một đức tin tuyệt đối. Chúng ta để cho những ý nghĩ truyền thống thủ cựu kéo ta thụt lùi lại phía sau và đóng sầm cái cửa kia lại. Rồi sau đó chúng ta nói rằng cái cửa kia bị đóng lại là do định mệnh, mặc dầu chúng ta biết quá rõ rằng định mệnh của mỗi người chỉ tùy ở tự nơi mình.
Đây là những người tốt lành, sống giản dị nhưng lại là những người phi thường, trong số đó có nhiều người đã vượt qua cái cửa ngõ đó từ nhiều thế hệ đã qua và có lẽ không biết từ bao giờ. Họ sống cuộc sống tâm linh. Họ không tuân theo truyền thống hay quy luật nhất định nào, mà chỉ sống một cuộc đời lương thiện và trong sạch, một cuộc đời toàn vẹn đáng sống, với hai chân trồng vững trên mặt đất. Tôi để cho quý vị độc giả hãy tự do so sánh. Chúng tôi do dự không muốn từ giã các vị siêu nhân quý mến mà chúng tôi đã từng sát cánh một cách chặt chẽ trong những tháng vừa qua, tuy vậy chúng tôi lại háo hức nhìn về tương lai, vì biết rằng còn những kinh nghiệm khác đang chờ đợi chúng tôi.
Bởi vậy, chúng tôi từ giã các vị siêu nhân vào một buổi sáng đẹp trời của tháng tư. Các vị thân mật bắt tay chúng tôi và thành thật mời chúng tôi trở lại khi nào có dịp. Chúng tôi vái chào các vị một lần cuối và đi về hướng Bắc để vượt qua sa mạc Gobi. Những câu chuyện phiêu lưu nguy hiểm đáng sợ mà chúng tôi nghe nói đã từng xảy ra ở vùng này luôn luôn ám ảnh chúng tôi như những viễn ảnh đen tối. Tuy nhiên chúng tôi không sợ vì có đức Tuệ Minh và Dật Sĩ đi theo chúng tôi và Chander Sen thì thay chỗ của Nê Bưu.
Đối với chúng tôi là những người đã từng đi du lịch nhiều nơi, viêc tháp tùng theo đoàn người đi trên sa mạc là một việc thông thường hằng ngày. Tôi chắc là tất cả các đoàn viên trong nhóm chúng tôi đều sung sướng ra đi trong cuộc phiêu lưu đầy hứa hẹn này. Tất cả đều biết rằng một thế giới mới đã bắt đầu xuất hiện trước mắt chúng tôi. Mỗi người đều biết rõ sự xa xôi hẻo lánh và cô lập của vùng sa mạc và biết rõ những nguy cơ có thể xảy đến trong những chuyến du hành thuộc loại này. Tuy nhiên, một mãnh lực huyền bí không cưỡng lại được đã thúc đẩy chúng tôi tiến bước. Đức tin tuyệt đối nơi các vị siêu nhân đã giúp chúng tôi dứt bỏ mọi ý nghĩ sợ sệt hay lo ngại những sự khó khăn xảy đến, và chúng tôi lao mình vào cuộc phiêu lưu với một sự hứng khởi nhiệt thành của tuổi trẻ.
Chúng tôi đã từng quen thuộc với những vùng hẻo lánh nhất thế giới, nhưng chưa bao giờ chúng tôi có kinh nghiệm về một xứ xa xôi và cô lập như vùng này. Tuy nhiên, chúng tôi có thể du lịch nơi đây một cách tự do và dễ dàng khác thường. Quý độc giả sẽ không ngạc nhiên về sự yêu thích của chúng tôi đối với xứ này và đối với các vị ân nhân của chúng tôi. Chúng tôi có cảm giác mình có thể đi lên hướng Bắc đến khi vượt khỏi vùng Bắc Mỹ và chinh phục luôn cả vùng ấy. Chúng tôi chưa đi được bao xa thì một bạn nói:
-Ồ! Nếu chúng ta có thể đi như các vị siêu nhân, thì chuyến đi này sẽ dễ dàng xiết bao! Nhưng chúng ta lại bắt buộc các vị cũng đi bộ một cách nặng nề chậm chạp như chúng ta chỉ vì chúng ta không thể bắt chước các Ngài!
Mọi sự đều trôi chảy tốt đẹp cho đến cuối ngày thứ bảy của cuộc hành trình. Chiều hôm ấy, vào khoảng năm giờ, chúng tôi vừa ra khỏi một khe núi sâu thẳm thì một đoàn viên báo tin có nhiều người kỵ mã ở đàng xa. Chúng tôi lấy ống dòm ra xem và đếm tất cả hai mươi bảy người kỵ mã dường như có mang đầy đủ khí giới. Chúng tôi liền báo cáo với Dật Sĩ. Anh ta đáp rằng có lẽ đó là những đoàn người du mục thường có ở vùng này. Chúng tôi hỏi y phải chăng đó là một bọn cướp. Y đáp rằng có thể như vậy, vì bọn chúng không có dắt theo một đoàn trừu hay dê nào.
Chúng tôi rời khỏi đường mòn và tiến tới một chòm cây rậm rạp, tại đây chúng tôi cắm trại để nghỉ ban đêm. Trong khi đó, hai người trong nhóm chúng tôi vượt qua một giòng suối gần nơi cắm trại và bước lên một ngọn đồi, từ đó họ có thể nhìn thấy vùng đồng bằng ở chỗ chúng tôi đã khám phá ra đoàn người kỵ mã. Khi lên tới đỉnh đồi, họ ngừng lại và soi ống dòm rồi hối hả trở về trại. Khi họ về gần tới, họ loan báo rằng đoàn kỵ mã ở cách đây không xa hơn năm cây số và đang tiến về phía chúng tôi.
Ngay khi đó, một người trong nhóm chúng tôi nói rằng một cơn giông bão sắp thổi đến. Chúng tôi nhìn lên trời, thì quả thật thấy hai đám mây u ám nặng nề đang kéo về phía Tây Bắc, đồng thời một đám sương mù từ bốn phía áp lại gần chúng tôi. Chúng tôi cảm thấy rất băn khoăn lo ngại, vì bây giờ chúng tôi có thể nhìn thấy đoàn kỵ mã đang tiến thẳng về phía trại chúng tôi. Tuy nhóm chúng tôi có tất cả ba mươi hai người, chúng tôi không có một khẩu súng nào, và điều này làm chúng tôi rất lo lắng.
Không bao lâu, cơn bão tuyết thổi đến chúng tôi với một tốc độ mãnh liệt kinh khủng. Sự lo ngại của chúng tôi mỗi lúc càng tăng vì chúng tôi đã từng kinh nghiệm sức tàn phá của giông bão trong những vùng sa mạc hẻo lánh như vậy. Trong một lúc, cơn giông với tốc độ 120 cây số giờ, chứa đầy những mảnh tuyết vụn, quất vào chúng tôi và gầm thét ầm ĩ chung quanh tất cả mọi người. Chúng tôi đang e ngại sẽ bị bắt buộc dời trại đi chỗ khác để tránh những cành cây gẫy đổ rơi lên đầu mình, thì bầu không khí chung quanh trại thình lình lắng dịu và trở nên yên tĩnh. Trong một lúc chúng tôi nghĩ cơn bão tuyết có lẽ chỉ có giới hạn trong một lúc ngắn ngủi, như thường xảy ra trong vùng này.
Vì bầu trời chưa đến nỗi quá u ám, chúng tôi bèn lợi dụng lúc tranh tối tranh sáng để lập lại trật tự trong các lều trại, và mất độ nửa giờ để làm công việc này. Ký ức về cơn bão tuyết và bọn cướp, nó đã làm cho chúng tôi sợ sệt, nay đã hoàn toàn biến mất ra khỏi đầu óc chúng tôi. Chúng tôi ngừng tay trong một lúc, và vị trưởng nhóm bước ra chỗ cửa trại. Sau khi đã nhìn ra ngoài, y day lại và nói:
-Cơn bão tuyết dường như đang hoành hành dữ dội ở gần đây, còn tại chỗ chúng ta đang ở, thì chỉ có một cơn gió thoảng nhẹ. Các bạn hãy nhìn xem; lều vải và cây cối chung quanh đây không bị lay động gì. Khí trời ấm áp và thoang thoảng mùi hương thơm của hoa cỏ.
Nhiều người trong bọn chúng tôi đi theo y ra ngoài và trong một lúc, đứng lặng người vì ngạc nhiên. Trong khi chúng tôi lo dọn dẹp đồ đạc bên trong trại, chúng tôi không ý thức được cơn giông bão. Chúng tôi nghĩ rằng nó đã qua và thổi về phía khe núi. Thật vậy, vài cơn bão thổi tạt ngang qua vùng này như một cơn gió lốc. Chúng hoành hành dữ dội trên nhiều cây số đường trường trước khi lắng dịu, và tiếp theo đó là một cơn yên tĩnh lạ thường. Nhưng trường hợp này không giống như thế. Cơn bão đang thổi mạnh ở cách chúng tôi độ ba chục thước, nhưng khí trời lại êm ả và ấm áp ở chung quanh chúng tôi. Trái lại, chúng tôi đã từng kinh nghiệm rằng trong những cơn bão tuyết tương tự, người ta thường bị lạnh buốt thấu xương, và có thể bị nghẹt thở vì trong cơn thịnh nộ gầm thét của vũ bão, những mảnh tuyết vụn và bén nhọn bị lôi cuốn theo sức gió và quất mạnh vào mặt mũi người du khách chẳng khác nào như kim đâm.
Thình lình, vùng yên tĩnh chung quanh chúng tôi sáng lên dường như bởi một phép lạ. Trong cơn kinh ngạc, dường như chúng tôi nghe có những tiếng người xen lẫn với tiếng gầm thét của cơn giông. Người ta báo hiệu đến giờ ăn chiều. Chúng tôi bước vào lều và ngồi xuống. Trong bữa ăn, một bạn tôi băn khoăn về số phận của những người kỵ mã. Một bạn khác nói:
-Chúng tôi nghe dường như có tiếng người kêu gọi khi chúng tôi bước ra ngoài trại. Chúng ta có thể nào cứu giúp những người kỵ mã hay chăng trong trường hợp họ bị đi lạc trong cơn bão tố?
Dật Sĩ bèn lên tiếng và nói rằng những người ấy thuộc về một trong những bọn cướp khét tiếng trong vùng. Họ chuyên môn cướp bóc xóm làng, và chiếm đoạt những đoàn dê trừu của dân chúng.
Sau bữa ăn chiều, trong một lúc gió lặng, chúng tôi nghe có tiếng người kêu ngựa hí, cùng với tiếng vó ngựa đạp lộn xộn dường như những người kỵ mã không còn làm chủ chúng nó được nữa. Những tiếng động ấy có vẻ như rất gần, nhưng chúng tôi không thể nhìn thấy gì cả vì ban đêm tuyết xuống dầy đặc. Chúng tôi không còn nhìn thấy một ánh sáng nào của những đèn đuốc và lửa trại.
Sau đó một lát, đức Tuệ Minh đứng dậy và nói rằng Ngài phải đi mời những kẻ cướp vào trại, vì trừ những trường hợp phi thường, không một người hay con vật nào có thể sống sót đến sáng ngày hôm sau trong cơn bão tuyết.
Thật vậy, không khí ở bên ngoài đã trở nên lạnh buốt vô cùng. Hai người trong bọn chúng tôi tình nguyện xin đi theo đức Tuệ Minh, điều này có vẻ làm cho Ngài vui lòng. Ngài nhận lời, và cả ba người đều biến mất dạng trong cơn giông bão. Độ hai mươi phút sau, ba người đã trở lại, cùng với hai mươi tên cướp đi bộ, tay cầm cương dắt ngựa đi theo sau. Những tên cướp này cho chúng tôi biết rằng bảy người đồng bọn của họ đã mất liên lạc với cả đoàn và có lẽ đã đi lạc trong cơn bão tuyết.
Những tên cướp gồm một thành phần hỗn tạp với những gương mặt hung dữ của bọn lục lâm cường đạo. Khi họ bước vào trại có đèn lửa ấm áp, họ có vẻ nghi ngờ rằng chúng tôi gài bẫy để bắt họ. Sự lo âu của họ hiện rõ trên nét mặt, nhưng đức Tuệ Minh bảo đảm rằng họ được tự do ra đi bất cứ lúc nào. Ngài chỉ cho họ thấy rằng nếu họ muốn tấn công chúng tôi, chúng tôi không có một khí giới nào để tự vệ. Tên đầu đảng bọn cướp thú thật rằng đó chính là ý định đầu tiên của họ khi họ vừa nhìn thấy chúng tôi từ trong khe núi đi ra trước cơn giông bão. Sau đó, họ trở nên do dự và đã đi lạc đến nỗi họ mất phương hướng để trở về trại. Khi đức Tuệ Minh và hai người trong bọn chúng tôi tìm thấy họ, thì họ đang trú ẩn một bên vách núi ở cách trại chúng tôi có độ một trăm thước.
Tên đầu đảng bọn cướp nói rằng nếu chúng tôi hất hủi họ, thì chắc chắn là họ sẽ phải chết vì lạnh. Đức Tuệ Minh trấn an họ và nói rằng điều đó sẽ không xảy ra. Bọn cướp bèn cột ngựa vào những gốc cây để nghỉ lại ban đêm, rồi ngồi riêng với nhau ở một góc. Họ bắt đầu ăn thịt dê phơi khô và bơ con yak (một loại bò rừng và có sừng lớn dài ở xứ Tây Tạng) mà họ lấy ra từ những bọc da dấu dưới yên ngựa. Trong khi ăn, họ để khí giới trong tầm tay và thỉnh thoảng ngừng lại để nghe ngóng mỗi khi có một tiếng động nhỏ. Họ nói chuyện và bộ tịch rất tự nhiên. Dật Sĩ nói với chúng tôi rằng họ lấy làm ngạc nhiên về những đồ trang bị của chúng tôi và về ánh lửa trong trại. Họ tự hỏi tại sao ở đây không có gió lớn, tại sao không khí trong trại rất ấm cúng, và tại sao mấy con ngựa có vẻ ung dung thoải mái như thế?
Một đứa lúc nào cũng nói chuyện huyên thuyên và nói nhiều nhất trong bọn cướp, đã từng nghe nói về các vị chân sư. Y nói với những kẻ đồng bọn rằng các vị siêu nhân cũng như thánh thần và có thể tiêu diệt bọn họ tùy ý muốn và mau lẹ trong khoảnh khắc. Nhiều tên khác tưởng chúng tôi âm mưu để bắt sống họ, bèn tìm cách thuyết phục cả bọn đánh cướp tài sản chúng tôi rồi tẩu thoát. Nhưng tên đầu đảng ra lịnh cho họ không được phá phách chúng tôi, và nói rằng nếu họ làm hại chúng tôi, tất cả bọn sẽ bị tiêu diệt.
Sau một cơn thảo luận giông dài, tám tên cướp bèn đứng dậy, bước đến gần chúng tôi, và nói với Dật Sĩ rằng bọn chúng không muốn ở lại thêm nữa. Họ sợ có xảy ra những việc bất trắc và muốn trở về trại của họ ở cuối giòng sông cách đó vài cây số. Họ đã tìm ra phương hướng nhờ căn cứ vào cái lùm cây to chỗ chúng tôi cắm trại. Họ bèn lên ngựa và bắt đầu đi xuống thung lũng. Sau đó hai mươi phút, tất cả bọn đều quay lại và nói rằng tuyết xuống dầy đặc đến nỗi ngựa của họ không thể tiến tới được nữa. Chính họ cũng không thể đương đầu với cơn bão tuyết này, là cơn bão mãnh liệt nhất từ nhiều năm nay. Kế đó, họ tìm chỗ ở ngoài trại để nghỉ lại ban đêm.
Một bạn tôi nói:
-Tuy bọn này làm tôi sợ, nhưng tôi cảm thấy an toàn hơn ở trong lều so với ở bên ngoài, giữa cơn gió bão.
Dật Sĩ quay lại chúng tôi và nói:
-Các bạn ở đâu, là nhà của Thượng Đế ở đó. Nếu các bạn ở tại đây, trong trại này, các bạn sống trong niềm vui của Thượng Đế. Sự ấm áp và tiện nghi trong trại có nghĩa gì nếu các bạn không ở tại đây, hoặc nếu các bạn không nhận thấy có sự ấm áp và tiện nghi đó? Các bạn có thể tự do mời những người ngoài vào đây. Tuy nhiên, họ không chịu vào, vì họ không biết tới chỗ ở của các bạn. Mặc dầu họ cảm thấy sự ấm cúng nhưng những người anh em thân mến này không muốn lại gần, bởi vì họ vẫn luôn luôn sống bằng nghề cướp bóc. Họ không thể hiểu rằng chính những người mà họ coi như những miếng mồi đương nhiên của họ, lại có thể dành cho họ một sự tiếp đón thân hữu mà không có lý do đặc biệt, và nhất là mình không thuộc về giới lục lâm cường đạo. Họ không biết rằng giữa cơn bão tuyết, lạnh lẽo, hay giữa cơn giày vò đau khổ nhất, vẫn luôn luôn có sự hiện diện của Thượng Đế. Không một cơn giông to, gió lớn, hay bão lụt nào có thể làm hại được những người đã đặt sự an toàn của mình trong tay của Thượng Đế. Người ta chỉ bị đắm đuối trong giông gió, bão lụt, khi nào người ta đã mất liên lạc với Thượng Đế. Thượng Đế chỉ có thể thực hiện được những gì các bạn hiện đang nhìn thấy, khi nào người ta hướng tầm nhãn quang của mình đến Ngài một cách vững chắc, không hề lay chuyển, đến mức không còn biết gì và không nhìn thấy gì khác nữa ở bên ngoài…
Người ta có thể tìm thấy yên tĩnh thật sự giữa cơn bão tố, vì sự yên tĩnh chân thật vốn ngự trong tâm hồn của người nào đã tìm thấy Chân Ngã. Trái lại, người ta có thể ngồi ở một nơi vắng vẻ tĩnh mịch, giữa chốn sa mạc hẻo lánh hoang vu, một mình đối diện với bóng hoàng hôn êm ả và giữa cảnh yên lặng của thiên nhiên, nhưng lại bị dầy vò cấu xé bởi cơn bão lòng của những đắm mê, dục vọng, hoặc bị giao động rung chuyển tâm hồn bởi những sấm sét của sự sợ hãi, kinh hoàng…
Những người này là tàn tích của một dân tộc xưa kia đã từng có một nền văn minh cao cả và thịnh vượng. Tổ tiên của họ cư ngụ nơi xứ này vào thời kỳ mà xứ ấy còn là một đế quốc kỹ nghệ phồn thịnh, hùng cường. Họ đã từng biết thực hành các môn khoa học và mỹ thuật. Họ cũng đã biết rõ nguồn gốc tinh thần và sức mạnh tâm linh của họ và đã biết tôn thờ sùng kính Thiêng Liêng. Về sau đến một thời kỳ họ bắt đầu say mê những khoái lạc vật chất và rơi vào tình trạng trụy lạc, sa đọa tâm linh. Khi đó một tiếng động lớn, một cơn thiên tai địa chấn tàn phá và làm sụp đổ tất cả, chỉ còn để lại có những bộ lạc sơn nhân miền thượng ở rải rác trên những vùng hẻo lánh. Những bộ lạc sống sót này mới quy tựu lại thành những cộng đồng sinh hoạt, từ đó mới xuất phát ra những chủng tộc lớn ở Âu Châu ngày nay.
Vùng này là vùng sa mạc Gobi bị cơn địa chấn tàn phá và đưa lên một chiều cao mà không còn một loài thảo mộc nào có thể sống được. Dân cư vùng ấy đã hầu như bị hoàn toàn tiêu diệt, đến nỗi chỉ còn lại có những cộng đồng hiếm hoi cô lập, và có nơi chỉ còn lại có một hoặc hai gia đình. Những cộng đồng này mới tổ hợp lại thành từng đoàn. Đó là tổ tiên của những người dân sống tại nơi đây, họ không thể phát triển để tiến bộ hơn nữa, vì họ luôn luôn bị lôi cuốn vào những cuộc chiến tương tàn giữa họ với nhau.
Lịch sử và nguồn gốc của họ đã bị lãng quên, nhưng người ta có thể truy nguyên đến tận nguồn gốc duy nhất của nền tôn giáo và những huyền thoại của họ. Những nền tảng của tôn giáo và huyền thoại này ở đâu cũng giống như nhau, tuy rằng những hình thức sắc tướng rất là khác biệt, và có những điểm dị đồng rất lớn…
Đến đây, Dật Sĩ nói y không muốn làm nhàm tai chúng tôi, vì phần đông các bạn tôi đã ngủ mê. Chúng tôi bèn nhìn về phía bọn cướp. Họ cũng đã ngủ mê, và cũng như chúng tôi, họ đã quên mất cơn giông bão tuy rằng cơn giông vẫn tiếp tục hoành hành dữ dội. Chúng tôi bước vào lều để nghỉ ngơi sau khi đã một lần nữa, tỏ sự biết ơn của chúng tôi đối với các vị chân sư cao cả.
Sáng hôm sau, chúng tôi thức dậy, mặt trời chiếu tỏ rạng, cả trại đều rộn rịp. Chúng tôi hối hả thay quần áo và thấy rằng tất cả mọi người, luôn cả bọn cướp, đều sắp sửa chuẩn bị ăn sáng. Trong khi ăn, chúng tôi được thông báo chương trình ngày hôm ấy là lên đường hộ tống bọn cướp trở về trại của họ. Thật vậy, người ta dễ tìm đường khi đi chung với nhau từng đoàn, hơn là đi lẻ tẻ. Điều này làm cho bọn cướp hài lòng, nhưng không làm cho chúng tôi vui, vì chúng tôi được biết rằng ở trại của họ, bọn cướp có đến 150 người. Khi chúng tôi điểm tâm xong, thì mọi vết tích của cơn bão đã biến mất. Chúng tôi bèn dỡ trại và cùng đi với bọn cướp, cả người lẫn ngựa, để tìm đường về trại họ.
Trại của bọn cướp ở cách đó dưới hai mươi cây số. Tuy vậy, chúng tôi chỉ đến nơi vào lúc xế chiều, và lấy làm sung sướng mà có thể nghỉ chân tại đó. Chúng tôi nhận thấy trại ấy rất tiện nghi, có đủ chỗ rộng rãi để chứa tất cả phái đoàn. Sau bữa ăn chiều, chúng tôi nhận thấy rằng nên ở lại đó một hai ngày để chờ cho tuyết ém chặt lại. Thật vậy, qua ngày hôm sau chúng tôi phải vượt một truông núi cao gần năm nghìn thước. Vì thời tiết không tạnh ráo trở lại như chúng tôi mong, chúng tôi phải kéo dài thời gian lưu trú tại đây trong bốn ngày. Dân làng đối xử với chúng tôi một cách tôn kính và cố gắng làm cho chúng tôi được vui lòng.
Khi chúng tôi lên đường, có hai người đến xin nhập bọn với phái đoàn. Chúng tôi vui vẻ nhận lời, vì dầu sao chúng tôi cũng phải tuyển mộ một số lao công phụ giúp khi đến làng sắp tới, cách đó độ một trăm cây số. Hai người này tháp tùng đi theo chúng tôi cho đến bận về, vào mùa thu.
Khi chúng tôi rời khỏi làng, gần hết phân nửa dân làng tiễn đưa chúng tôi đến tận đỉnh của truông núi để giúp chúng tôi tìm ra con đường mòn bị tuyết dầy đặc lấp mất cả dấu vết. Chúng tôi rất cám ơn sự cố gắng khả ái của họ, vì công việc leo núi thật rất khó khăn. Lên đến đỉnh truông núi, chúng tôi từ biệt các người anh em lục lâm cường đạo và trực chỉ đi đến chỗ hẹn. Chúng tôi đến đây ngày 28 tháng 5, tức là ba ngày sau những toán đoàn viên bạn, như họ đã hẹn gặp chúng tôi tại đây hồi mùa thu năm trước.
III
Sau một tuần lễ nghỉ ngơi, chúng tôi tom góp đồ hành trang và toàn thể phái đoàn đều lên đường đi đến chỗ địa điểm tọa lạc của thủ đô đế quốc Uigour thời tiền sử. Chúng tôi đến đây vào ngày 30 tháng 6, và bắt đầu ngay công việc đào xới. Giếng đào đầu tiên của chúng tôi chưa sâu tới hai chục thước, thì chúng tôi gặp phải vách tường của một dinh thự cũ. Chúng tôi đào sâu độ ba chục thước để có thể lọt vào một gian phòng lớn, tại đây chúng tôi tìm thấy những xác ướp còn nguyên vẹn ở tư thế ngồi xếp bằng, gương mặt bao phủ bởi một cái mặt nạ bằng vàng. Tại đó có nhiều pho tượng bằng vàng, bạc, đồng, và đất sét, tất cả đều chạm trổ rất đẹp. Chúng tôi đã chụp ảnh tất cả. Khi công việc đào xới đã tiến hành đến một mức độ đủ chứng minh một cách thỏa đáng rằng đó thật là những di tích cổ xưa của một thành phố rất lớn, chúng tôi bèn đi đến địa điểm thứ nhì, mà chúng tôi tìm thấy ngay nhờ bởi những bút tích diễn tả trên những tấm bia đá cổ đã nói ở trên. Tại đây chúng tôi đào sâu chừng mười hai thước trước khi tìm thấy những di tích chắc chắn của một nền văn minh cổ. Chúng tôi đã làm một công việc khá đầy đủ để chứng minh lại một lần nữa và một cách chắc chắn rằng đó thật là những di tích điêu tàn của một thành phố cổ. Kế đó chúng tôi đi đến địa điểm thứ ba, tại đây chúng tôi định khám phá những tàn tích chứng minh sự hiện diện của một thành phố còn cổ xưa hơn và rộng lớn hơn nữa.
Để tiết kiệm thời giờ và tài nguyên, chúng tôi tổ chức thành bốn toán, trong số đó có ba toán gồm một trưởng toán và sáu người phụ tá, tức là mỗi toán có bảy người. Công việc đào xới và bảo tồn các giống đào được giao phó cho ba toán đó, mỗi toán thay phiên nhau làm việc tám giờ mỗi ngày. Còn toán thứ tư gồm hết tất cả số người còn lại. Toán này có phận sự canh chừng chung quanh trại và lo việc chu cấp lương thực cho cả phái đoàn. Tôi thuộc về toán đặt dưới sự chỉ huy của vị trưởng nhóm Tô Mặc. Toán của tôi làm việc từ nửa đêm đến tám giờ sáng.
Sau khi đã đào xong giếng đầu tiên, chúng tôi lọt vào bốn gian phòng dưới lòng đất, mà chúng tôi lo quét dọn lại. Sau đó, chúng tôi đã có thể chứng minh rằng đó là di tích của thành phố lớn nhất trong ba thành phố, và nó chứa đựng rất nhiều kho tàng.
Một buổi sáng, toán công nhân đến thay phiên toán của tôi báo động rằng có nhiều người kỵ mã đang tiến đến gần trại từ hướng bắc. Chúng tôi ngoi lên mặt đất và thấy họ đang tiến về phía chúng tôi. Đó chắc lại là một đoàn lục lâm cường đạo, vì rõ ràng là họ noi theo con đường mòn đã đưa chúng tôi đến đây. Trong khi chúng tôi còn đang nhìn, thì Dật Sĩ bước tới và nói:
-Đó là một bọn cướp định đến đánh phá trại chúng ta, nhưng chúng ta không cần phải sợ hãi.
Chúng tôi để cho bọn cướp đến gần. Khi họ đến gần trại còn cách chừng năm trăm thước thì họ ngừng lại. Sau đó một lát, có hai tên cướp tế ngựa lại trại chúng tôi, cất tiếng chào xong rồi liền hỏi chúng tôi đang làm gì ở đây. Chúng tôi nói rằng chúng tôi đang thử tìm kiếm những tàn tích của một thành phố cổ. Họ đáp rằng họ không tin như vậy, và nghi rằng chúng tôi là những kẻ đi tìm vàng. Họ toan tính với nhau để đánh cướp những đồ khí cụ trang bị và lương thực của chúng tôi.
Chúng tôi hỏi họ có phải là binh lính của chính phủ không? Họ đáp rằng họ không thừa nhận một chính phủ nào cả vì ở xứ này chỉ có sức mạnh là đáng kể. Nhìn thấy chúng tôi không có vẻ gì lo sợ và cũng không có khí giới, có lẽ họ cho rằng chắc là chúng tôi còn đông người hơn chứ không phải chỉ có bấy nhiêu. Họ bèn quay trở về bọn cướp để thảo luận kế hoạch. Được một lát, hai tên ấy đã trở lại và nói rằng nếu chúng tôi chịu khuất phục một cách êm thấm, thì họ sẽ không làm hại ai cả. Nếu không, họ sẽ tiến đến và giết chết tất cả những người nào dám chống cự họ. Họ cho chúng tôi mười phút để quyết định, sau mười phút đó họ sẽ tấn công mà không cần báo trước. Dật Sĩ đáp rằng chúng tôi không chống cự mà cũng không đầu hàng ai cả; điều này có vẻ làm cho họ nổi nóng. Họ quày ngựa trở về với bọn cướp, và rút súng ra sẵn sàng. Tất cả bọn cướp bèn cho ngựa phóng nước đại tấn công vào trại chúng tôi.
Tôi thú thật là đã sợ hoảng vía. Nhưng ngay khi đó, bỗng thấy xuất hiện nhiều hình bóng giống như những người kỵ mã tế ngựa xung quanh chúng tôi. Những hình bóng này càng hiện rõ, trở nên linh động và đông đảo hơn. Bọn cướp cũng đã nhìn thấy điều ấy. Vài tên cướp mau tay giật giây cương quay đầu trở lại. Những con ngựa của vài tên khác sợ hoảng nhảy chồm lên, ngã quỵ xuống đất và thoát ra khỏi sự điều khiển của chủ chúng nó. Chỉ trong khoảnh khắc, một cơn náo loạn kinh khủng đã diễn ra trong hàng ngũ của bọn cướp gồm độ 75 người. Bầy ngựa bắt đầu hí vang và ngã quỵ, quăng bọn cướp té ngã lổng chổng. Cơn náo loạn kết thúc bằng một cuộc chạy trốn xiểng liểng, trong khi đó những người kỵ mã vừa xuất hiện phi ngựa đuổi theo bén gót.
Khi cơn loạn động đã êm, vị trưởng nhóm, một đoàn viên và tôi, cùng đi tới chỗ mà bọn cướp bị chận lại để nhìn xem nhưng không thấy có dấu vết nào ngoài ra những dấu chân ngựa lộn xộn của bọn cướp. Điều này có vẻ là một điều bí hiểm, vì những người cứu trợ chúng tôi đã xuất hiện rõ ràng thật sự cũng như bọn cướp, và chúng tôi đã nhìn thấy họ đến từ bốn phía. Bởi vậy chúng tôi chắc sẽ tìm thấy trên bãi cát những dấu chân ngựa của họ xen lẫn với những dấu vết của bọn cướp.
Khi chúng tôi quay trở lại, Dật Sĩ nói:
-Những người kỵ mã ấy chỉ là những hình bóng mà chúng tôi đã làm cho y xuất hiện y như thật đến nỗi các bạn và cả bọn cướp đã có thể nhìn thấy. Đó là những hình ảnh của quá khứ mà chúng tôi có thể phóng ra một cách linh động đến nỗi nhìn thấy không khác gì sự thật. Chúng tôi có thể phóng những hình ảnh đó để tự vệ và để bảo vệ kẻ khác, mà kết quả là không làm hại ai cả. Khi một mục đích nhất định đã được đặt ra, thì kết quả là không gây thương tổn. Một sự nghi ngờ đã nẩy sinh ra trong óc của bọn cướp. Họ nghĩ rằng không có lý nào một phái bộ như chúng ta lại mạo hiểm đi đến chỗ xa xôi như vậy mà không có phòng vệ. Chúng tôi lợi dụng sự nghi ngờ đó để nhát họ. Họ rất mê tín và luôn luôn nghi ngờ những cạm bẫy. Bọn cướp là một bọn người rất nhát gan. Họ sợ thứ gì thì họ sẽ gặp thứ đó. Nếu chúng tôi không dùng phương pháp đó, thì có lẽ chúng tôi bắt buộc phải tiêu diệt một số đông bọn cướp trước khi kẻ sống sót chịu để cho chúng ta yên. Nhưng bây giờ thì chúng ta sẽ không còn nghe ai nói đến bọn cướp ấy nữa. Thật vậy, chúng ta không còn sợ bị họ quấy phá.
Khi những cuộc đào xới đã có những bằng chứng để làm cho chúng tôi tin tưởng sự hiện hữu của ba thành phố cổ, chúng tôi có ý nghĩ lấp những giếng đào để che mắt những đoàn người du mục vì họ có thể tìm ra dấu vết của những cuộc khảo cổ này. Thật vậy, sự khám phá ra các giếng này chắc sẽ gây nên một sự cướp bóc toàn diện do bởi sự hấp dẫn của các kho tàng, vì những huyền thoại được lưu truyền khắp nơi về sự hiện hữu của những thành phố cổ và những kho vàng bạc châu báu chôn dấu trong đó. Bởi vậy, sau khi hoàn tất công việc khảo cổ, chúng tôi lấp giếng và cố gắng che đậy các dấu vết chỉ còn để lại đến mức tối thiểu, và trông cậy nơi cơn bão đầu tiên để xóa bỏ mọi di tích còn sót lại về sự có mặt của chúng tôi. Những cồn cát ở xứ này luôn luôn di chuyển, cũng đủ làm một chướng ngại cho việc truy tầm các tàn tích cổ. Nếu không có sự giúp đỡ của các bậc siêu nhân, chúng tôi không bao giờ có thể tìm ra những nơi cổ tích này.
Chúng tôi được cho biết rằng những di tích cổ xưa tương tự còn ở rải rác trong vùng sa mạc đến tận phía nam xứ Tây Bá Lợi Á. Hiển nhiên là có một số dân cư đông đảo xưa kia đã từng sống thịnh vượng ở vùng này và đã đạt tới một trình độ văn minh rất cao. Có những bằng chứng xác thực không thể phủ nhận rằng giống dân này đã từng thực hành khoa nông nghiệp, canh tác, cùng những khoa kỹ nghệ hầm mỏ, dệt cửi và những ngành sinh hoạt liên hệ. Họ đã từng biết đọc, viết chữ và biết cả những ngành khoa học khác. Thật rõ ràng là lịch sử của giống dân Aryen (tức giống dân thứ năm, thủy tổ của các dân tộc văn minh Âu Mỹ hiện nay).
Trước ngày chúng tôi lên đường, trong bữa ăn có một bạn tôi hỏi đức Tuệ Minh rằng lịch sử của giống dân vĩ đại này có thể nào viết lại được chăng? Đức Tuệ Minh đáp rằng có thể được, vì thành phố cổ chôn vùi ở phía dưới chỗ chúng tôi đang cắm trại, có chứa đựng những tài liệu bút tự hoàn toàn xác đáng. Người ta chỉ cần tìm lại và phiên dịch những tài liệu đó để có một sự xác nhận trực tiếp về lịch sử của giống dân này.
Câu chuyện bị gián đoạn khi có người vừa xuất hiện ở ngoài cửa trại. Người ấy xin phép bước vào lều. Đức Tuệ Minh, Dật Sĩ và Chander Sen liền vội vàng bước ra để gặp người ấy. Xét về việc các vị mừng rỡ tiếp đón chào hỏi nhau, chúng tôi hiểu rằng các vị đã từng quen biết nhau nhiều. Tô Mặc liền đứng dậy đi theo các vị. Khi y ra đến cửa, y đứng sựng lại một lúc trong cơn ngạc nhiên, rồi bước ra ngoài lều đưa thẳng hai tay ra trước và nói:
-Đây mới thật là một sự bất ngờ!
Những tiếng kêu ngạc nhiên thốt lên cùng một lượt như một cuộc hòa tấu, trong khi những vị quý khách mới đến, cả nam lẫn nữ, trao đổi những lời chào hỏi với y và với ba vị siêu nhân. Khi đó, những người ngồi trong lều bèn đứng dậy, hối hả bước ra ngoài và thấy một nhóm gồm tất cả mười bốn người khách vừa mới đến. Trong nhóm ấy, có bà Mã Ly, thân mẫu đức Tuệ Minh, bà chủ nhà của chúng tôi ở tại căn cứ mùa đông, vị thiếu phụ đẹp tuyệt trần đã chủ tọa buổi dạ tiệc tại nhà đức Tuệ Minh, cùng với người con trai và người con gái của đức Tuệ Minh và một số người khác. Tất cả mọi người đều vui vẻ, và chúng tôi hồi tưởng lại những cuộc hội họp trong những ngày đã qua.
Chúng tôi thật là hoàn toàn ngạc nhiên, và chúng tôi không dấu diếm điều đó. Nhưng sự ngạc nhiên ấy lại còn lớn hơn nữa trong những bạn đoàn viên thuộc các toán khác của phái đoàn. Nhìn vào gương mặt họ, chúng tôi hiểu rằng họ ngạc nhiên đến mức vô hạn không thể nào diễn tả nổi, vì họ chưa từng chứng kiến như chúng tôi về những cơn xuất hiện và biến mất một cách bất ngờ kiểu đó. Công việc khảo cổ đã làm chúng tôi quá bận rộn đến nỗi chúng tôi đã bỏ qua không kể lại cho họ nghe đầy đủ những kinh nghiệm đã qua của chúng tôi, ngoài những câu chuyện vắn tắt đứt đoạn. Sự xuất hiện của các vị quý khách dường như từ vòm trời trong sáng mà đến, đã làm cho họ hoàn toàn khựng lại và đứng trơ như tượng đá, điều này là một đầu đề để chúng tôi bỡn cợt họ một cách nhẹ nhàng.
Sau khi việc giới thiệu đã xong xuôi, người phụ trách việc nấu ăn bước tới nói riêng với đức Tuệ Minh và Tô Mặc với một vẻ mặt thất vọng:
-Làm sao đãi ăn tất cả bấy nhiêu người? lương thực của chúng ta đã cạn, và đồ tiếp tế còn chưa đến kịp. Chúng ta chỉ còn vừa tạm đủ để ăn bữa chiều nay và bữa điểm tâm sáng ngày mai. Vả lại, mọi sự đã được chuẩn bị sẵn sàng cho chúng ta lên đường.
Lê Mông, vị trưởng phái đoàn, đã lắng tai nghe rõ câu chuyện. Y bèn bước tới, và tôi nghe y hỏi:
-Trời đất! tất cả những người này từ đâu đến đây?
Tô Mặc vừa nhìn y vừa cười và đáp:
-Lê Mông, anh có vẻ ngớ ngẩn. Các vị đến trực tiếp từ trên trời. Hãy nhìn xem, các vị không có một phương tiện di chuyển nào cả.
Lê Mông nói:
-Điều làm tôi ngạc nhiên nhất, là hình như họ không có cánh. Khi họ đáp xuống bãi cát, đáng lẽ chúng ta phải nghe tiếng động, vì họ đi rất đông. Nhưng chúng ta chẳng nghe thấy gì cả. Như vậy, tôi tạm kết luận rằng giả thuyết hoàn toàn hợp lý của anh là đúng.
Lúc ấy, đức Tuệ Minh day lại và nói rằng để trấn an tinh thần của người đầu bếp, có lẽ ngài bắt buộc sẽ phải trách các vị khách đã không chịu đem theo lương thực để tự túc vì lương thực của chúng ta xét ra không đủ. Người đầu bếp có vẻ rất lúng túng và giải thích rằng y không có ý muốn nói một cách thô lỗ như vậy, nhưng dù sao thì sự thật cũng vẫn còn đó, là không đủ thức ăn cho tất cả mọi người. Các vị quý khách bèn đồng thinh cười vang lên một cách vui vẻ, điều này có vẻ làm cho y càng lúng túng hơn.
Bà Mã Ly nói rằng không cần phải sợ có sự bất tiện hay thiếu sót. Bà chủ nhà của chúng tôi và vị giai nhân trong buổi dạ tiệc hôm trước nói rằng hai bà vui lòng đảm đương lấy trách nhiệm về bữa ăn, vì các vị quý khách đến viếng chúng tôi với ý định rõ rệt là sẽ cùng chia sẻ bữa ăn đó với chúng tôi. Người đầu bếp có vẻ yên lòng và liền chấp nhận ngay lời đề nghị đó.
Lúc ấy trời đã xế chiều. Đó là một trong những ngày mà ngọn gió mát thổi nhẹ dường như vuốt ve đồng cát Gobi, dẫu rằng có khi chỉ một lát sau nó có thể biến thành một cơn bão tố gầm thét thịnh nộ với một tốc lực kinh khủng. Chúng tôi lấy tất cả thứ gì có thể dùng làm khăn trải bàn và trải lên bãi cát, ngay ở phía ngoài trại. Đối với người ngoài đó có vẻ giống như một cuộc đi chơi cắm trại.
Những người đoàn viên thuộc các toán đến sau chúng tôi vẫn còn tỏ vẻ ngạc nhiên và do dự. Lê Mông nhìn vào các nồi đựng thức ăn và nói:
-Nếu tôi nhìn thấy rõ, và nếu người ta có thể chia sớt có bấy nhiêu thức ăn cho tất cả số người đông đảo như vậy thì tôi xin mở lớn đôi mắt để nhìn xem một phép lạ được thực hiện!
Một người trong nhóm chúng tôi nói:
-Thật vậy, anh hãy chống mắt cho thật lớn; vì anh sắp sửa nhìn thấy điều mà anh vừa nói.
Tô Mặc nói:
-Anh Lê Mông, đây là lần thứ nhì trong ngày hôm nay mà anh đã đoán đúng!
Kế đó, hai bà nữ khách bắt đầu múc thức ăn trong nồi để chia cho tất cả mọi người. Khi một dĩa đã được múc đầy, nó được chuyền qua tay người khác và lại được thay thế bằng một cái dĩa mới, và cứ tiếp tục như thế cho đến khi tất cả mọi người đều được cung cấp thức ăn một cách dồi dào thừa thãi.
Khi những đĩa được múc đầy thức ăn mỗi lúc càng tiếp tục thêm, chúng tôi thấy gương mặt Lê Mông càng tỏ vẻ lo ngại. Khi người ta đưa một đĩa cho y, y chuyền qua người bên cạnh rồi nói rằng y có thể bằng lòng với một đĩa ít hơn như thế nhiều. Bà chủ nhà chúng tôi nói rằng không phải lo ngại gì cả, vì có đủ thức ăn cho tất cả mọi người.
Sau khi mỗi người đã được cung cấp thức ăn một cách rộng rãi, Lê Mông lại nhìn vào các nồi niêu một lần nữa và thấy rằng thức ăn vẫn còn đầy, không giảm bớt chút nào. Y bèn đứng dậy và nói:
-Nếu quý bà không cho tôi là một kẻ vô phép, mất dạy và thô bỉ, thì tôi xin phép được đến ngồi gần các bà. Tôi xin nhìn nhận rằng sự tò mò ngự trị trong mọi tư tưởng của tôi đến mức làm cho tôi không thể nuốt trôi một miếng nào.
Các bà nữ khách đáp rằng nếu y muốn đến ngồi gần các bà, thì các bà sẽ coi đó như một cử chỉ lịch sự. Khi đó, y bèn đi vòng quanh sau lưng nhóm thực khách và đến ngồi cạnh chiếc khăn trải dưới đất, giữa bà Mã Ly và vị giai nhân tuyệt sắc.
Khi y đã ngồi xuống, có người xin bánh mì. Trong giỏ bánh mì chỉ còn có một miếng. Vị giai nhân đưa hai bàn tay ra, thì ngay đó một ổ bánh lớn liền xuất hiện trên tay bà. Bà đưa ổ bánh cho bà chủ nhà chúng tôi, bà này sửa soạn đem cắt ra từng khoanh trước khi chia cho mỗi người thực khách. Lê Mông bèn đứng dậy và xin phép quan sát ổ bánh mì còn nguyên vẹn. Người ta đưa ổ bánh cho y, y quan sát trong một lúc với cặp mắt dò xét rồi đưa trả lại với sự băn khoăn hiện rõ trên nét mặt. Y bước đi vài bước, rồi quay trở lại và nói thẳng với người thiếu phụ:
-Thưa bà, tôi không muốn có vẻ xấc láo, nhưng đầu óc tôi bị đảo lộn đến mức làm cho tôi không khỏi đưa ra vài câu hỏi.
Vị giai nhân khẽ nghiêng mình, và nói rằng y được tự do hỏi bất cứ điều gì y muốn. Y nói:
-Phải chăng bà có ý muốn nói rằng bà có thể bất chấp tất cả mọi định luật thiên nhiên, ít nhất là những định luật mà chúng ta đã biết, và không cần làm một cố gắng nào? Rằng bà có thể làm cho bánh mì xuất hiện từ một kho dự trữ vô hình?
Người thiếu phụ đáp:
-Đối với chúng tôi, kho dự trữ không phải là vô hình, mà nó lúc nào cũng hữu hình.
Khi bà chủ nhà chúng tôi cắt ổ bánh mì và phân phát các khoanh bánh mì, chúng tôi nhận thấy rằng ổ bánh không hề giảm bớt. Lê Mông đã bình tĩnh lại, trở về chỗ ngồi, và vị giai nhân nói tiếp:
-Ước gì các bạn có thể hiểu rằng tấn thảm kịch về cuộc đời của Đức Jesus đã chấm dứt trên cây Thánh Giá, còn niềm phúc lạc của cuộc sống nơi Đấng Christ đã bắt đầu với sự phục sinh của Ngài! Mọi đời sống phải nhắm mục đích phục sinh thay vì mục đích tử Đạo trên Thánh Giá. Bằng cách đó, mỗi người có thể theo gương Đức Jesus trong cuộc đời tràn đầy tâm thức Bồ Đề, tức tràn đầy sức sống của Chân Ngã. Người ta có thể nào tưởng tượng một cuộc đời phúc lạc hơn và phong phú hơn sự hòa đồng với quyền năng của Chân Ngã trong nội tâm? Với cuộc sống tâm linh đó, các bạn có thể biết rằng mình được sáng tạo để chế ngự mọi hình thể, mọi tư tưởng, mọi lời nói, và mọi hoàn cảnh.
Bằng cách sống cuộc đời thỏa mãn mọi nhu cầu, các bạn sẽ nhận thấy rằng đó là một cuộc đời đúng đắn và khoa học. Đức Jesus đã làm cho vài ổ bánh mì và vài con cá của đứa trẻ nhỏ tăng lên gấp bội để cho đám quần chúng được ăn uống thừa thãi. Các bạn nhớ rằng Ngài yêu cầu đám quần chúng hãy ngồi trong vòng trật tự, trong một thái độ trông chờ, sẵn sàng nhận lãnh thức ăn được tăng thêm do bởi định luật sáng tạo. Muốn tìm thấy sự an vui và thỏa mãn trong đời sống của Đức Jesus, người ta phải thực hiện định luật của đời Ngài bằng cách hành động thuận theo những lý tưởng của Ngài. Người ta không nên ngồi yên bất động và tự hỏi rằng làm sao có đủ thức ăn để sống. Nếu Đức Jesus làm như vậy, thì đám quần chúng đã không bao giờ được ăn uống no đủ. Thay vì làm như thế, Ngài ban ân huệ trong âm thầm, Ngài cám ơn Chúa về những gì mà Ngài đang có, và những phần ăn được tăng thêm đủ cung cấp cho tất cả mọi người.
Cuộc đời chỉ trở nên một bài toán khó khăn khi con người bắt đầu từ chối không chịu nghe theo tiếng nói của nội tâm. Khi nào y biết hối hận và tập nghe tiếng nói ấy, y sẽ không còn làm việc để mưu sinh. Y chỉ làm việc vì niềm vui sáng tạo mà thôi. Y sẽ bước vào niềm phúc lạc sáng tạo, một lãnh vực được cai quản bởi luật Trời hay tiếng nói của Thượng Đế…
Kế đó, vị giai nhân day qua Lê Mông và nói:
-Đức Jesus đã dạy những luật Đạo nhằm mục đích thiết lập cõi Trời ở dưới thế gian. Bạn đã nhìn thấy những luật đó được áp dụng trong một phạm vi khiêm tốn. Những luật đó vốn đúng đắn và rất khoa học. Con người, vốn là con của Chúa Trời, và thật sự cùng một bản chất như Ngài, nên y vốn chứa đựng ở tự nơi mình cái tinh thần bất diệt của Chúa Trời. Y có thể phân biệt những định luật của đấng đã sinh ra y, sử dụng những luật ấy, để đem lại một năng xuất dồi dào toàn vẹn trong lãnh vực sinh hoạt hằng ngày của y. Y chỉ cần muốn là được.
Kế đó, giai nhân nói rằng bà sẽ rất vui lòng trả lời tất cả mọi câu hỏi của Lê Mông. Vị trưởng phái đoàn đáp rằng y đã quá xúc động để có thể hỏi bất cứ một câu nào nữa. Y cần phải có một lúc yên lặng để suy nghĩ. Y có nhiều điều muốn nói và hy vọng rằng y sẽ không làm phật ý một người nào, vì y không hề có ý muốn chỉ trích ai cả. Y còn nói:
Khi đi đến xứ này, chúng tôi tưởng rằng mình sẽ tìm thấy những tàn tích của những thổ dân đã suy vong và biệt tích từ lâu. Trái lại, chúng tôi lại thấy những người mà chúng tôi không thể tưởng tượng rằng họ có cuộc đời hoạt động một cách cao quý vô cùng. Nếu những điều mà chúng tôi vừa thấy có thể được công bố bên các nước Âu Mỹ, thì toàn thể thế giới sẽ nằm mọp dưới chân quý vị!
Ba vị phu nhân đáp rằng các bà không hề có ý muốn thấy toàn thể thế giới nằm mọp dưới chân các bà. Các bà giải thích rằng nhân loại đã có quá nhiều thần tượng, nhưng thiếu lý tưởng.
Khi đó, tất cả các vị quý khách, trừ ra người đầu tiên đã đến trước cửa lều, đều đứng dậy và nói rằng đã đến lúc các vị phải ra đi. Các vị bắt tay từ giã chúng tôi và mời chúng tôi đến viếng các vị khi nào có dịp thuận tiện. Kế đó các vị biến mất một cách đột ngột cũng như khi mới đến, làm cho Lê Mông và toán đoàn viên của y trố mắt thật lớn và đứng sững ngay trước chỗ mà các vị vừa hội họp lúc nãy.
Sau một lúc, Lê Mông day lại nói chuyện với người khách còn ở lại, và yêu cầu người ấy cho biết danh tánh. Người này đáp rằng y tên Bạch Lãng. Khi đó Lê Mông nói:
-Phải chăng quý vị có thể đi lại tự do đó đây tùy ý muốn mà không cần dùng một phương tiện di chuyển hữu hình nào như chúng tôi vừa thấy, và khinh miệt tất cả những định luật vật lý học mà người ta được biết từ trước đến nay?
Bạch Lãng đáp:
-Chúng tôi không khinh miệt một định luật nào, chúng tôi cũng không vi phạm một định luật nào dù là luật Trời hay luật thế gian. Chúng tôi chỉ hợp tác. Chúng tôi hành động theo những định luật thiên nhiên và luật Trời. Những phương tiện di chuyển mà chúng tôi sử dụng thật là vô hình đối với các bạn, nhưng hoàn toàn hữu hình đối với chúng tôi. Điều khó khăn, chính là bởi vì không nhìn thấy những phương tiện đó nên các bạn không tin. Chúng tôi nhìn thấy, tin tưởng, biết rõ, và có thể sử dụng những phương tiện đó. Các bạn hãy làm như chúng tôi, hãy để tâm trí mở rộng, rồi các bạn sẽ nhận thấy rằng những định luật đó vốn hoàn toàn đúng đắn và có thể vô cùng hữu ích cho nhân loại hơn là những định luật có giới hạn mà người ta đã từng quen thuộc. Từ trước đến giờ, người ta chỉ mới phớt qua chứ chưa tận dụng đúng mức những tiềm năng của con người. Chúng tôi luôn luôn vui lòng giúp đỡ các bạn với tất cả mọi phương tiện sẵn có.
Chander Sen giải thích rằng Bạch Lãng đến đây để mời chúng tôi ghé qua làng của y khi chúng tôi trở về địa điểm khởi hành. Chúng tôi sẵn lòng nhận lời mời và Bạch Lãng cho biết y sẽ cùng đi với chúng tôi. Về sau chúng tôi được biết rằng y thuộc giòng giõi những dân tộc phú cường của đế quốc Uigour thuở xưa, ngày nay đã biệt tích và biến thành vùng sa mạc Gobi.
CHƯƠNG BẢY
Một cuộc cứu chữa nhiệm mầu – Cái nhà huyền diệu – Phái đoàn trở về căn cứ mùa đông – Bọn cướp hăm dọa tấn công –Cuộc điều đình với bọn cướp bị thất bại.
I
Chúng tôi thức dậy thật sớm vào sáng ngày hôm sau, và lên đường trước khi mặt trời mọc, để đi đến chỗ làng quê của Bạch Lãng. Chúng tôi đến làng ấy mười hai ngày sau đó. Khi đến nơi chúng tôi được đón tiếp bởi những vị siêu nhân đã đến viếng chúng tôi vào ngày cuối cùng trên sa mạc, và lấy làm sung sướng nhận lời khi các vị mời chúng tôi hãy nghỉ ngơi tại nhà các vị trong vài ngày.
Chúng tôi được đưa vào những gian phòng rất sang trọng so với những lều trại của chúng tôi trên sa mạc. Buổi cơm tối đã sẵn sàng nửa giờ sau đó. Chúng tôi thay đổi y phục chỉnh tề và bước vào gian phòng khách bên cạnh, tại đây chúng tôi gặp nhiều vị chân sư mà chúng tôi đã từng được quen biết trong những chuyến du hành đã qua xuống miền Nam. Các vị vui mừng tiếp đón, nói rằng vùng này là chỗ đất lành của chúng tôi, và sẵn sàng mở rộng cửa để tiếp đón tất cả mọi người.
Vị thống đốc của vùng này tiếp đón chúng tôi bằng một bài diễn từ khả ái xuyên qua một thông dịch viên. Người còn cho biết rằng buổi cơm tối được sắp đặt tại tư dinh và chúng tôi sẽ đến đó ngay lập tức. Chúng tôi rời khỏi phòng khách, do vị thống đốc đi trước dẫn đường, có hai người vệ sĩ đi kèm hai bên theo lễ nghi bổn xứ. Kế đó là Lê Mông với bà chủ nhà trọ của chúng tôi khi trước, rồi đến Tô Mặc với người thiếu phụ tuyệt sắc, và sau cùng là đức Tuệ Minh, đức bà Mã Ly, mẫu thân của ngài, và tôi, kỳ dư đều tháp tùng đi theo sau.
Chúng tôi vừa mới đi được một đoạn chưa được bao xa thì một đứa bé gái ăn mặc rách rưới tách ra từ trong đám đông người đang nhìn chúng tôi từ bên lề đường, và hỏi bằng tiếng bổn xứ để xin nói chuyện với đức bà Mã Ly. Bà Mã Ly nắm tay tôi và tay đức Tuệ Minh rồi cả ba chúng tôi đều bước ra khỏi hàng ngũ để nghe xem em bé ấy muốn hỏi điều gì. Thấy vậy, bà chủ nhà chúng tôi do dự một lúc, rồi nói rằng bà muốn ngừng lại. Trong khi bà bước ra khỏi hàng ngũ quan khách, tất cà đoàn đều dừng chân lại. Bà Mã Ly giải thích cho viên thống đốc biết rằng bà muốn tất cả mọi người hãy cứ tiếp tục lộ trình và ngồi vào bàn ăn trước, sau đó, bà sẽ đến sau để nhập tiệc chung với tất cả.
Trong khi đó, bà nằm hai bàn tay của đứa bé gái trong lòng bàn tay bà. Sau khi viên thống đốc và đoàn tùy tùng đã đi qua, bà quỳ xuống thấp để áp gương mặt bà vào gò má của đứa bé, choàng hai tay vòng quanh cổ nó, và nói:
-Con hỡi, con muốn ta giúp con điều gì?
Sau đó, bà Mã Ly đước biết rằng em trai của đứa bé này đã bị té ngã vào lúc xế trưa và có lẽ đã bị gãy xương sống. Đứa bé khẩn cầu bà Mã Ly đi theo nó để xem bà có thể cứu chữa cho em trai nó, vì đứa em này đang đau đớn rên xiết rất khổ sở.
Bà Mã Ly đứng dậy, giải thích tình hình cho chúng tôi nghe và yêu cầu chúng tôi hãy đi về tư dinh viên thống đốc, còn bà đi theo đứa bé gái và sẽ gặp lại chúng tôi sau. Lê Mông xin phép đi với bà. Bà nói rằng tất cả chúng tôi có thể đi theo bà nếu chúng tôi muốn. Chúng tôi bèn đi theo bà. Bà vừa đi vừa nắm tay đứa bé gái, em bé này nhảy nhót vì vui mừng. Bà chủ nhà chúng tôi thông dịch lại những lời em nói. Nó nói nó biết rằng đứa em trai của nó sẽ được đức bà chữa khỏi.
Khi đi đến gần nhà, đứa bé gái chạy vọt tới trước để báo tin có chúng tôi đến. Chúng tôi thấy em ở một cái chòi lá vách đất nghèo nàn. Bà Mã Ly có lẽ đọc được tư tưởng chúng tôi vì bà nói:
-Căn nhà nghèo nàn này chứa đựng những quả tim ấm áp.
Khi đó, cánh cửa đột nhiên mở. Chúng tôi nghe một giọng đàn ông và chúng tôi bước vào. Chòi lá này bên trong rất nheo nhóc. Nó chỉ vừa đủ khoảng trống để chứa tất cả chúng tôi, và trần nhà thấp đến nỗi chúng tôi không thể đứng thẳng người. Một ngọn đèn dầu leo lét chiếu ánh sáng lập lòe lên gương mặt của cha mẹ đứa bé ngồi ở một góc, áo quần dơ bẩn. Trong góc ở xa nhất, nằm trên một đống rơm rạ và giẻ rách cũ hôi hám ẩm thấp, là một đứa bé trai độ chừng năm tuổi đang rên xiết, gương mặt tái ngắt như sáp và nhăn nhó như có vẻ rất đau đớn.
Đứa bé gái ngồi xuống bên cạnh và đặt hai bàn tay lên hai gò má đứa em trai. Em nói với đứa bé trai rằng nó sẽ được hoàn toàn chữa khỏi vì đức bà đã có mặt tại đó. Em rút hai bàn tay ra và xích qua một bên để cho em trai ấy nhìn thấy đức bà. Đến khi đó em mới nhìn thấy lần đầu tiên những vị khách lạ, và nét mặt em liền biến đổi ngay, dường như em đang trải qua một cơn sợ hãi. Em lấy hai tay che mặt, và thân hình em run rẩy hòa nhịp với những tiếng khóc thổn thức:
-Ồ! Con tưởng rằng đức bà chỉ đến có một mình.
Bà Mã Ly ngồi xuống bên cạnh em và ôm em vào lòng trong một lúc. Khi em đã bình tĩnh, bà nói rằng bà sẽ cho chúng tôi về nếu em muốn. Em đáp rằng em chỉ ngạc nhiên và sợ hãi, thế thôi, vì em chỉ nghĩ đến đứa em trai đang đau ốm. Bà Mã Ly nói:
-Con thương yêu em con nhiều lắm phải không?
Đứa bé gái, tuy chưa chín tuổi, đáp:
-Dạ, nhưng con thương yêu tất cả mọi người.
Đức Tuệ Minh thông dịch lại cho chúng tôi, vì chúng tôi không hiểu một tiếng nào. Bà Mã Ly nói:
-Nếu con thương em con nhiều như vậy, con có thể giúp sức một phần vào sự cứu chữa cho nó.
Kế đó, bà bảo em bé ấy ngồi trở lại tư thế lúc nãy, với hai bàn tay ôm lấy hai gò má của em nó, rồi bà xoay mình lại để đặt một bàn tay bà trên trán đứa bé. Ngay tức khắc, những tiếng rên xiết liền ngưng bặt, gương mặt đứa trẻ sáng lên, thân mình nó duỗi thẳng giữa một cơn yên tĩnh hoàn toàn của bầu không khí chung quanh, và đứa trẻ ngủ yên trong một giấc ngủ tự nhiên.
Bà Mã Ly và đứa bé gái ngồi yên trong tư thế đó trong một lúc, rồi bà gạt nhẹ hai bàn tay đứa bé gái ra và nói:
-Em bé trai này thật khôi ngô, mạnh giỏi và tráng kiện thay.
Kế đó bà rút bàn tay ra một cách thật nhẹ nhàng.
Lúc đó tình cờ tôi lại đứng gần bên bà trong khi bà đưa cánh tay trái ra trước. Tôi đưa bàn tay tôi ra để đỡ bà đứng dậy, nhưng khi bàn tay tôi chạm vào bàn tay trái của bà thì tôi cảm thấy bị va chạm như điện giật, nó làm cho tay tôi bị tê liệt. Bà nhẹ nhàng đứng dậy và nói:
-Tôi đã quên đi mất. Đáng lẽ tôi không nên nắm lấy bạn như tôi đã làm, vì tôi cảm thấy trong một lúc sức mạnh kinh khủng của luồng từ điển chạy xuyên qua thân mình tôi.
Khi bà vừa nói dứt lời, thì tay tôi đã lành mạnh trở lại như thường. Tôi tin rằng không ai đã nhận thấy việc ấy xảy ra, vì họ còn đang chú trọng vào những gì diễn ra ở chung quanh.
Đứa bé gái đã thụp xuống chân bà Mã Ly, và hôn lấy hôn để gấu áo của bà. Bà Mã Ly cúi xuống, lấy tay đỡ gương mặt ứa lệ của đứa bé, rồi quỳ xuống ôm nó vào lòng và hôn lên mắt và miệng nó. Đứa bé quàng tay ôm cổ bà Mã Ly, và cả hai đều yên lặng như thế trong một lúc.
Kế đó, ánh sáng lạ lùng mà chúng tôi đã diễn tả trước đây bắt đầu tràn vào gian phòng. Ánh sáng ấy mỗi lúc càng trở nên sáng rỡ, và sau cùng tất cả mọi vật đều có vẻ trong suốt, dạ quang. Không có vật gì phát ra một cái bóng, và dường như gian phòng mỗi lúc càng trở nên to lớn hơn.
Từ lúc đầu, cha mẹ những đứa bé vẫn ngồi yên trên nền đất, có vẻ im lặng vì sợ hãi. Nhưng đến lúc đó, thì cả hai đều biến sắc, gương mặt họ trở nên trắng bệch vì kinh hoàng; người cha sợ hãi đến nỗi y chạy phóng ra cửa và đụng vào mình Lê Mông trong cơn hấp tấp vội vàng. Người mẹ thì thụp xuống chân bà Mã Ly, vừa cúi lạy vừa khóc mướt. Bà Mã Ly đặt một bàn tay lên trán người đàn bà ấy và kề tai nói thì thầm. Tức thì người đàn bà kia hết khóc, y bèn ngồi nhổm dậy và nhìn thấy sự biến dổi đang diễn ra trong gian nhà. Gương mặt y lại lộ vẻ kinh hoàng, y bèn hối hả đứng dậy và toan chạy trốn. Đức Tuệ Minh nắm lấy một tay y trong khi vị giai nhân tuyệt sắc nắm cánh tay kia. Hai vị giữ y lại tư thế trong một lúc, rồi thay vì là cái chòi lá bẩn thỉu khi chúng tôi mới bước vào, thì lúc ấy chúng tôi đang ở trong một gian phòng đầy đủ tiện nghi với những giường ghế bàn tủ tươm tất.
Đức Tuệ Minh bước qua gian phòng, ẵm lấy đứa nhỏ đang nằm ngủ trên đống rạ mốc meo, và nhẹ nhàng đặt nó lên một cái giường có trải nệm trắng và chăn mền sạch sẽ. Ngài cúi xuống đặt một chiếc hôn lên trán đứa bé một cách âu yếm như một người hiền mẫu. Bà Mã Ly và đứa bé gái đã đứng dậy và bước tới gần người mẹ các đứa nhỏ. Chúng tôi cũng tựu lại chung quanh y. Người mẹ quỳ thụp xuống hôn lấy hai bàn chân của bà Mã Ly và khẩn cầu bà đừng tách rời khỏi y.
Đức Tuệ Minh bước tới nắm hai bàn tay người đàn bà kia, đỡ y đứng dậy, rồi nói chuyện với y bằng tiếng thổ ngữ bản xứ. Khi người mẹ đã đứng dậy, những áo quần lấm lem nhơ nhuốc của y đã biến thành những áo quần mới. Y thị im lặng trong một lúc dường như không còn hiểu biết chuyện gì nữa, và lao mình vào trong vòng tay mở rộng của bà Mã Ly. Hai người đàn bà đó giữ tư thế đó một lúc trong im lặng, rồi đức Tuệ Minh bước lại gỡ người ấy ra.
Kế đó, đứa bé gái chạy tới đưa hai tay ra trước và nói:
-Bà hãy nhìn xem quần áo mới của con.
Nó day lại bà Mã Ly, bà cúi xuống đỡ nó lên; trong khi đó nó choàng tay ôm cổ và áp mặt vào vai bà. Lê Mông đang đứng phía sau, đứa bé gái liền đưa hai tay ngang qua vai bà Mã Ly, ngẩng đầu lên và mỉm cười với y. Lê Mông bước tới và đưa hai tay ra, đứa bé nắm lấy và nói rằng nó yêu thương tất cả chúng tôi, nhưng nó yêu mến bà Mã Ly nhiều nhất.
Đức Tuệ Minh nói để Ngài đi tìm người cha các đứa bé. Một lúc sau Ngài đưa y về nhà, với dáng điệu sợ sệt và còn lầm bầm. Bà Mã Ly bước tới và đặt đứa bé gái xuống gần bên y. Dưới cái vẻ mặt khó chịu của người đàn ông này, chúng tôi có thể nhận thấy ẩn tàng một lòng biết ơn sâu xa. Chúng tôi bèn bước ra khỏi căn nhà. Trước khi chúng tôi ra về, người mẹ các đứa bé yêu cầu chúng tôi hãy trở lại khi có dịp. Chúng tôi cho biết là sẽ trở lại vào ngày hôm sau.
Chúng tôi bèn hối hả đi đến tư dinh thống đốc vì sợ rằng đi trễ làm cho mọi người phải đợi chờ. Chúng tôi có cảm giác như đã trải qua nhiều giờ trong cái chòi lá, nhưng thật ra chỉ có nửa giờ đã trôi qua từ lúc chúng tôi tách rời khỏi đoàn người đến khi chúng tôi gặp họ trở lại. Tất cả mọi sự đã diễn ra trong một lúc còn ngắn ngủi hơn là cái thời giờ cần thiết để ghi chép lại câu chuyện. Chúng tôi đến tư dinh viên thống đốc đúng vào lúc mọi người đang ngồi vào bàn ăn. Lê Mông xin phép ngồi gần bên Tô Mặc. Y lộ vẻ vô cùng khích động. Về sau Tô Mặc cho chúng tôi biết rằng Lê Mông bị xúc động mạnh về những gì y đã nhìn thấy, đến nỗi y không thể nào giữ được sự bình tĩnh.
Qua ngày hôm sau, Lê Mông thức dậy trước hết mọi người. Trong bữa ăn sáng, y ngồi giữa đức Tuệ Minh và Dật Sĩ và luôn luôn đặt câu hỏi trong suốt bữa ăn. Khi chúng tôi vừa ăn xong, y đã đứng dậy và muốn chạy ra ngoài để nhìn xem cái nhà “đã mọc lên trong một khắc đồng hồ”. Quàng một tay lên vai Dật Sĩ, y nói rằng nếu y có được hai vị cứu trợ như đức Tuệ Minh và bà Mã Ly, y sẽ đi chu du khắp chốn và làm cho nhà cửa mọc lên để giúp đỡ những kẻ nghèo khổ không nhà. Y nói thêm:
-Nhưng tôi chắc là những tay chủ phố và nhà đất ở Nữu Ước sẽ nổi giận, và họ sẽ không để tôi yên.
Về sau, Lê Mông cho chúng tôi biết rằng y bị xúc động và ngạc nhiên đến nỗi y không thể nào ngồi yên mà không đặt câu hỏi. Y nói chuyến đi này thật là chuyến xuất hành sôi nổi hào hứng nhất trong đời y, tuy rằng y đã từng đi du lịch ở nhiều nơi xa lạ. Khi đó y có ý định giúp chúng tôi tổ chức một chuyến hành trình thứ nhì để tiếp tục những cuộc đào xới khảo cổ theo chỉ thị của các vị siêu nhân. Nhưng bất hạnh thay, dự án này không được thực hiện vì Lê Mông đã đột ngột từ trần vào năm sau.
Chúng tôi phải vất vả khó nhọc lắm mới ngăn cản được y đến ngay ngôi nhà nhỏ mới dựng lên. Điều này được giải quyết ổn thỏa, theo đó y sẽ cùng với Dật Sĩ và một người nữa đến một nơi mà từ đó y có thể nhìn thấy ngôi nhà ấy từ đằng xa. Sau độ nửa giờ, họ đã trở về. Lê Mông mừng rỡ lộ ra mặt vì y đã nhìn thấy ngôi nhà nhỏ thật sự. Ngôi nhà ấy làm cho y hồi tưởng lại một trong những giấc mơ hồi thơ ấu, trong khi đó y mơ thấy vừa đi dạo chơi với các vị tiên nữ vừa xây nhà cho những kẻ nghèo và làm cho họ được sung sướng.
Đức Tuệ Minh cho chúng tôi biết rằng chiều hôm đó sẽ có một cuộc hội họp giống như phiên họp hồi năm ngoái tại làng quê của Ngài. Ngài mời tất cả chúng tôi cùng đến dự, chúng tôi sung sướng nhận lời.
Chúng tôi quá đông người để có thể cùng đi một lượt đến xem ngôi nhà nhỏ. Bởi đó, chúng tôi chia ra để đi từng nhóm nhỏ độ năm hay sáu người. Nhóm đầu tiên gồm có đức Tuệ Minh, Lê Mông, một hay hai vị phu nhân, và tôi. Chúng tôi đi ngang qua nhà trọ của bà Mã Ly, bà cùng nhập bọn với chúng tôi. Khi chúng tôi gần đến ngôi nhà nhỏ, đứa bé gái chạy ra đón, rồi nhảy vào nằm gọn trong vòng tay của bà Mã Ly, và nói rằng em trai nó nay đã khỏe mạnh.
Khi chúng tôi đến nhà, người mẹ các đứa bé chạy ra quỳ thụp xuống chân bà Mã Ly và thốt vài lời tạ ân bà. Bà Mã Ly đưa tay ra đỡ người đàn bà ấy và nói:
-Bà đừng quá khiêm cung. Tôi có thể làm cho bất cứ ai những gì tôi đã làm cho bà Cái ân huệ thiêng liêng mà bà đã nhận được, không phải do tôi ban ra, mà là do Trời.
Đứa bé trai ra mở cửa, và mẹ nó mời chúng tôi về nhà. Chúng tôi đi theo sau các bà, và bà chủ nhà trọ tình nguyện làm thông ngôn. Không còn nghi ngờ gì nữa, cái nhà vẫn còn đó, với bốn phòng đầy đủ tiện nghi. Ba phía chung quanh nhà là những chòi tranh rất lụp xụp nghèo nàn. Chúng tôi được biết rằng các chủ nhân của những chòi tranh này đang lo chuẩn bị dọn đi nơi khác vì họ tin rằng ma quỷ đã dựng lên ngôi nhà mới này và sẽ làm cho họ chết nếu họ tiếp tục sống ở chung quanh.
Chúng tôi vừa được tin của vị thống đốc. Sáng hôm ấy, ông ta gởi một toán quân hầu và một viên đại úy đến mời chúng tôi đến dự bữa cơm trưa tại tư dinh. Chúng tôi nhận lời, và đến giờ hẹn, một vệ sĩ đến để hộ tống chúng tôi đến tư dinh viên thống đốc.
Đến tư dinh viên thống đốc, chúng tôi thấy một số đông những vị Lạt Ma của tu viện Lạt Ma giáo gần bên đã có mặt tại đó cùng với vị Sư Trưởng của họ. Chúng tôi được biết rằng tu viện này rất quan trọng và có độ 1,500 đến 1,800 sư sãi. Viên thống đốc cũng có chân trong đại Hội Đồng sư sãi của tu viện này. Khi đó chúng tôi được biết bữa tiệc này có mục đích tạo nên một dịp tiếp xúc giữa các vị Lạt Ma và các đoàn viên trong phái đoàn chúng tôi. Các vị Chân Sư đã từng biết vị Sư Trưởng này từ lâu, vì các ngài thường hay gặp gỡ và đã từng làm việc chung với vị Sư Trưởng ấy. Cho đến sáng ngày hôm ấy, viên thống đốc dường như vẫn chưa biết sự liên hệ trên. Thật vậy, vị Sư Trưởng đã vắng mặt ở tu viện trong ba năm nay và mới trở về chỉ có một ngày trước khi chúng tôi đến.
Trong bữa ăn, chúng tôi nhận thấy rằng các vị Lạt Ma là những người có học thức, có những quan điểm rộng rãi về cuộc đời, đã từng du lịch nhiều và có hai vị trong số đó đã từng sống một năm bên Anh Quốc và bên Hoa Kỳ.
Trước khi chia tay, vị Sư Trưởng mời chúng tôi ngày hôm sau đến viếng tu viện Lạt Ma giáo và làm thượng khách của các vị Lạt Ma trong một ngày. Đức Tuệ Minh khuyên chúng tôi nên nhận lời, và chúng tôi đã trải qua một ngày rất tốt đẹp và hữu ích tại tu viện. Vị Sư Trưởng là một người đạo hạnh uyên thâm. Ngày đó, ông ta đã cùng với Tô Mặc kết tình thân hữu, tình thân hữu này về sau đã trở nên một sự cảm thông đậm đà nồng hậu và kéo dài đến suốt đời của hai người. Vị Sư Trưởng đã đem đến cho chúng tôi một sự trợ giúp vô cùng quý báu trong những chuyến du hành về sau của chúng tôi ở tại vùng này.
II
Theo chương trình được sắp đặt, phái đoàn chúng tôi sẽ lên đường vào trưa ngày hôm sau. Dật Sĩ và Chander Sen sẽ cùng đi với chúng tôi đến một địa điểm trao đổi hàng hóa để chúng tôi mua sắm thêm lương thực dự trữ, và đức Tuệ Minh cũng sẽ đến đó sau với chúng tôi. Kế đó, ba vị siêu nhân sẽ cùng với chúng tôi trở lại địa điểm căn cứ mùa đông.
Khi chúng tôi đến căn cứ, phái đoàn thám hiểm giải tán, và mọi việc được sắp đặt để cho những người nào muốn về nhà, có thể đi đến chỗ khởi điểm của họ do con đường mòn của khách thương buôn. Ngày hôm sau đức Tuệ Minh đến với chúng tôi. Chúng tôi từ giã các bạn đoàn viên và cùng với Ngài đi về hướng căn cứ mùa đông.
Chúng tôi nghỉ hai ngày tại trại bọn cướp. Hai người bổn xứ đi theo chúng tôi từ trước bèn từ giã chúng tôi tại đây, và toán chúng tôi chỉ còn lại có bảy người. Hai tên cướp thuật lại cho bọn chúng nghe về chuyến du hành kỳ lạ vừa rồi và những điều nhiệm mầu mà chúng đã nhìn thấy. Chúng tôi được đối xử một cách vô cùng chu đáo. Ba vị siêu nhân được chúng dành cho những sự ưu đãi danh dự đặc biệt. Viên đầu đảng bọn cướp cho ba vị biết rằng để đáp lại thịnh tình mà các vị Chân Sư đã tỏ ra đối với họ, họ sẽ coi địa điểm chôn dấu của ba thành phố cổ như một vùng cấm địa tuyệt đối thiêng liêng và bất khả xâm phạm. vả lại, cũng không có sự e sợ rằng bọn cướp rời khỏi căn cứ họ để toan đánh cướp một nơi xa xôi như thế.
Thật vậy, những bọn cướp sa mạc không bao giờ xâm phạm vào miền núi, và trái lại bọn cướp núi không hề xâm chiếm vùng đồng bằng, vì họ luôn luôn chiến tranh với nhau. Theo chỗ chúng tôi biết, thì cho đến nay họ vẫn giữ vẹn lời hứa phân chia khu vực hoạt động, và không lấn ranh lãnh thổ của nhau.
Sáng ngày chúng tôi lên đường, viên đầu đảng đến tặng cho Tô Mặc một huy chương bạc nhỏ bằng một đồng tiền Shilling, trên đó có khắc chữ rất lạ. Y cho Tô Mặc biết rằng nếu chúng tôi bị bọn cướp đánh trong vùng này, chúng tôi chỉ cần đưa ra cái huy chương này là chúng tôi sẽ được trả tự do lập tức. Gia đình y đã giữ chiếc huy chương ấy từ nhiều thế hệ và coi nó như một vật quý vô giá, nhưng y muốn tặng cho Tô Mặc để chứng tỏ sự ngưỡng mộ của y đối với chàng.
Sau khi xem xét kỹ lưỡng chiếc huy chương, đức Tuệ Minh nói cho chúng tôi biết rằng đó là một bổn sao rất đúng đắn của một đồng tiền đã từng được lưu hành ở phía Bắc vùng Gibi từ nhiều ngàn năm nay. Riêng chiếc huy chương này đã có đến trên bảy trăm năm. Những đồng tiền loại này thường được các thổ dân bản xứ dùng như những linh vật hộ phù, và họ cho rằng đồng tiền càng cổ xưa thì nó lại càng quý và càng có hiệu lực nhiều hơn. Viên đầu đảng và cả bọn cướp hẳn là đánh giá món quà của họ một giá trị rất lớn.
Chúng tôi tiếp tục cuộc hành trình một cách êm thấm và đến căn cứ mùa đông vào thời giờ đã định trước. Tại đây chúng tôi được sự tiếp đón nồng nhiệt của các vị siêu nhân đã đến viếng chúng tôi trên vùng sa mạc và đã từ biệt chúng tôi tại nơi làng nọ khi chúng tôi gặp vị Sư Trưởng của tu viện Lạt Ma giáo. Một lần nữa chúng tôi lại được mời đến ở nhà của bà chủ trọ hồi năm trước, và chúng tôi liền vui vẻ nhận lời.
Lần này chúng tôi chỉ còn lại có bốn người, vì bảy người đoàn viên đã trở về Ấn Độ và Mông Cổ để thực hiện những cuộc sưu tầm khác nữa. Việc sắp đặt ấy giúp cho chúng tôi có nhiều thời giờ hơn để phiên dịch các tài liệu cổ. Làng nhỏ này rất êm tịnh. Chander Sen và chủ nhà luôn luôn sẵn sàng giúp đỡ chúng tôi dịch các đoạn văn khó và bí hiểm.
Công việc này tiếp tục cho đến cuối tháng mười hai. Khi đó chúng tôi nhận thấy một đám khá đông dân chúng lại tựu họp trở lại trong phiên hội hằng năm. Phần đông đều là những người đã tham dự cuộc lễ năm ngoái, nhưng địa điểm hội họp lại khác. Lần này cuộc lễ sẽ diễn ra tại ngôi đền đục trong vách núi, trong gian phòng trung ương dùng làm tòa đại sảnh. Chiều ngày đầu năm dương lịch, chúng tôi bước lên tòa sảnh đường khi còn sớm để nói chuyện với những người đã hội họp tại đó. Họ đến từ nhiều vùng khác nhau và cho chúng tôi biết tin tức của thế giới bên ngoài, cái thế giới mà chúng tôi thật sự cảm thấy rằng đã mất hẳn liên lạc từ lâu. Tuy nhiên công việc của chúng tôi làm cho chúng tôi bận rộn quên mất cả ngoại cảnh, và thời gian đã trôi qua rất mau.
Ngày hôm sau, Tô mặc đề nghị với cả bọn cùng xuống phòng tài liệu để tiếp tục công việc phiên dịch. Chúng tôi mảng lo chăm chú vào công việc đến nỗi không ý thức được sự hiện diện của những người khác trong phòng. Thình lình, Tô Mặc đứng dậy và bước tới đón chào những người mới đến. Chúng tôi ngước mắt nhìn lên thì thấy Đức Jesus, bà Mã Ly, bà chủ nhà trọ và Chander Sen. Vị sau cùng này vốn là người mà trước kia chúng tôi vẫn gọi là “Ông già giữ kho tài liệu,” nhưng bây giờ thì chúng tôi gọi y là “người thanh niên”. Ngoài ra còn có Bạch Lãng, và một người lạ mặt được giới thiệu với chúng tôi dưới cái tên là Bút Già.
Lúc ấy đã quá trưa, chúng tôi dọn bàn và chuẩn bị bữa ăn. Xong rồi chúng tôi ngồi vào bàn, và sau một lúc im lặng, Đức jesus cất tiếng nói:
-Chúng ta hãy chiêm ngưỡng đức Chúa Cha và toàn năng, Nguyên Lý đại đồng thấm nhuần tất cả vạn vật, Ngài là ánh sáng, tình thương và mỹ lệ mà chúng ta được ban những ảnh hưởng tốt lành. Chúng ta có thể vĩnh viễn được thấm nhuần những ân huệ tốt lành ấy nếu chúng ta muốn. Chúng ta nghiêng mình trước bàn thờ trên đó chiếu diệu ngọn lửa thiêng liêng trường cửu của tình bác ái đại đồng, sự điều hòa, minh triết chân chính, sự sùng kính vô tận, và sự khiêm tốn chân thật. Ngọn lửa thiêng ấy chiếu sáng không bao giờ lu mờ. Nó xuất hiện từ đáy lòng của những người đang tựu họp vào giờ phút này nhân danh đấng Cha Lành và Tình Bác Ái. Xuất xứ từ những người thân cận và mến yêu của chúng ta, ngọn lửa thiêng ấy lan tràn trong không gian, soi sáng những vùng xa xôi nhất trên Trái Đất để cho mỗi người có thể nhìn thấy ánh sáng của nó và nhận được những ân huệ tốt lành do tình thương khiết bạch và vô tận của nó ban rải ra.
Những tia sáng rung động của ánh sáng đó, của cái mỹ lệ đó và của sự tinh khiết đó đi xuyên qua những tâm hồn thụ cảm của những người tựu họp chung quanh bàn thờ của Ngài. Bây giờ chúng ta đã có ý thức về tình bác ái mà sức ấm áp đang lan tràn khắp vũ trụ. Chúng ta gởi những tia bác ái đó đi khắp nơi để biến đổi thế gian, cải tạo và hòa hợp tất cả nhân loại. Chúng ta nghiêng mình trước Tinh Thần của Chúa Trời vốn sống động bên trong mỗi người. Chúng ta đứng đối diện với Chúa Trời, ngang hàng với Ngài, hợp nhất với Ngài. Một lần nữa, chúng ta kính cẩn chào đức Chúa Trời vốn sống động nơi chỗ thâm sâu bí ẩn nhất trong lòng chúng ta.
Khi Đức jesus nói xong, có người đề nghị rằng cả bọn trở lại gian phòng mà chúng tôi đã chứng kiến sự phục sinh của Chander Sen.
Khi chúng tôi đến nơi, gian phòng được thắp sáng một cách lộng lẫy cũng như khi chúng tôi ra đi. Gian phòng này đối với chúng tôi là một linh điện, một nơi mà chúng tôi có cái đặc ân thực hiện trên đường tâm linh một giai đoạn mà trước đó người ta không thể nào quan niệm rằng nó có thể có được đối với những người phàm tục như chúng tôi. Kể từ ngày đó cho đến ngày 15 tháng 4 là ngày chúng tôi lên đường,không có ngày nào hoặc đêm nào mà chúng tôi không tựu họp tại đó với tất cà các Chân Sư trong khoảng ít nhất là một tiếng đồng hồ. Trong những cuộc hội họp đó, gian phòng không bao giờ còn có cái hình dáng đục trong vách đá nữa. Dường như chúng tôi luôn luôn có thể nhìn thấy xuyên qua các vách tường vào khoảng không gian vô tận. Chính trong gian phòng này mà những bức rào giới hạn tâm thức của chúng tôi đã bị xóa bỏ. Chính ở đây là nơi đã mở rộng trước mắt chúng tôi một viễn ảnh rộng lớn về tương lai.
Khi chúng tôi đứng dậy kiếu từ, các vị siêu nhân chúc chúng tôi yên giấc và rút lui. Chúng tôi còn ở nán lại trong giây lát để bình luận về những kinh nghiệm vừa qua trước khi trở về nhà trọ. Khi đứng dậy ra về, chúng tôi liền tự đặt câu hỏi:
-Làm sao tìm thấy đường về mà không có đèn lửa chi cả?
Mỗi người trong chúng tôi đều nghĩ như vậy, chỉ có một mình Tô Mặc không đồng ý, vì y nói:
-Các bạn thấy chăng chúng ta chỉ luôn luôn bám víu lấy những thói quen cũ của mình và luôn luôn bị trói buộc bởi những ý tưởng thủ cựu. Ở đây chúng ta hoàn toàn được thấm nhuần trong một vầng ánh sáng không hề sút giảm sau khi các vị siêu nhân quý mến của chúng ta đã ra đi. Phải chăng đây là một dịp để chúng ta tiến tới và tỏ rằng chúng ta tự tin nơi sức mình, tự tin nơi quyền năng của mình là có thể thực hiện những công trình giống như các ngài? Ít nhất chúng ta hãy thử làm xem sao và hãy có can đảm tiến một bước đầu tiên đến chỗ thực hiện. Chúng ta quá nương tựa vào các vị Chân Sư đến nỗi chúng ta cảm thấy như một vết thương khi cần phải xa cách các ngài trong một lúc. Nếu chúng ta không thể tự lực tự cường trong sự thực hiện những việc nhỏ, chúng ta sẽ không bao giờ thành công trong những việc lớn. Tôi chắc rằng các vị đã từ giã chúng ta để cho chúng ta có một cơ hội chứng tỏ khả năng của mình. Vậy chúng ta hãy vượt qua sự khó khăn để thành công.
Trước khi ra đi, một bạn tôi đề nghị là tốt hơn hãy nên suy nghĩ trước về cách hành động. Nhưng Tô Mặc đáp bằng một giọng cứng rắn:
-Không. Nếu chúng ta định đi, ta phải đi ngay tức khắc. Sau những dấu hiệu mà chúng ta đã thấy và những diễn biến mà ta đã tham dự, chúng ta phải hành động một cách quả quyết, nếu không, chúng ta không còn xứng đáng được một sự trọng vọng nào cả!
Chúng tôi liền đi xuống các cầu thang, đi ngang qua nhiều gian phòng, vượt qua con đường hầm, đi xuống thung lũng và trở về làng. Trong khi chúng tôi đi, thì đường đi hoàn toàn được chiếu ánh sáng. Thân thể chúng tôi dường như mất cả sức nặng, chúng tôi di chuyển một cách rất dễ dàng không hề mệt nhọc, và trở về nhà trọ mà trong lòng như điên lên vì sung sướng do bởi sự thành công này. Kể từ lúc đó cho đến khi chúng tôi rời khỏi làng, chúng tôi có thể đi đêm ở khắp nơi tùy ý mà không cần có đèn đuốc chi cả. Những phòng ngủ của chúng tôi tự nhiên thắp sáng lên khi chúng tôi bước vào và tỏa ra một sự ấm cúng và đẹp đẽ khó tả.
Chúng tôi ngủ yên giấc ngay sau đó và khi thức dậy rất trễ vào sáng ngày hôm sau.
III
Ngày 1 tháng 4 đến rất mau chóng. Chúng tôi đã hoàn tất công việc phiên dịch và các tài liệu và sắp sửa vẽ họa đồ những bức tượng cổ xưa tạc trong núi đá. Công việc này được thực hiện một cách mau chóng vì sự hứng thú và hăng say của chúng tôi khi bắt tay vào việc.
Một buổi xế trưa, một người sứ giả đem tin đến làng. Nhìn thấy cách mà các dân làng tựu họp chung quanh người ấy, chúng tôi hiểu rằng đó là một biến cố khác thường. Chúng tôi bỏ dở công việc và đi xuống làng. Tại đó chúng tôi gặp bà chủ nhà trọ cho chúng tôi biết rằng một toán quân cướp khá đông đang có mặt ở dưới thung lũng cách đó không xa. Điều này gây cho dân làng một sự lo ngại rất lớn, vì từ nhiều năm nay, quân cướp thường đánh cướp làng này. Người ta đồn rằng ngôi đền đục trong hang núi có chứa đựng một kho tàng khổng lồ. Những mưu toan đánh cướp làng này từ trước đến nay vẫn thất bại, và những toán quân cướp cho rằng phần lớn sự thất bại này là do bởi sức chống cự mãnh liệt của những nông dân sống ở miền thung lũng.
Hôm nay, nhiều toán quân cướp đã tập hợp nhau lại để tăng cường lực lượng. Chẳng khác nào một đạo binh nhỏ, độ bốn ngàn quân khinh kỵ có võ trang khí giới đầy đủ đang tấn công miền thung lũng để đánh tan sự chống cự của những người nông dân sống chung quanh làng. Bọn cướp hy vọng rằng chiến lược tấn công lần này sẽ có hiệu quả hơn những lần trước.
Người sứ giả cũng kêu gọi cứu trợ giúp cho dân làng vì nhiều người đã bị giết, và những người khác đã sắp sửa từ bỏ mọi sự chống cự. Bà chủ nhà chúng tôi đáp rằng trong làng không còn sẵn người nào để đi xuống thung lũng. Bà nói y có thể trở về và sẽ không có gì xảy ra cho những người chung quanh y. Chúng tôi lại tiếp tục làm việc mặc dầu cũng ý thức được sự lo ngại của dân làng, và chia sẻ phần nào sự lo ngại của họ.
Sáng ngày hôm sau, chúng tôi lại tiếp tục vẽ họa đồ và bổ túc công việc thu góp tài liệu để có thể tìm thấy lịch sử của nền văn minh cổ xưa và của một dân tộc đã từng sống trên phần đất bao la này của thế giới, nay đã trở thành bãi sa mạc hoang vu. Viễn ảnh bị mất đi những kết quả sưu tầm của chúng tôi trong một trận đánh thư hùng với bọn cướp làm cho chúng tôi rất đỗi lo âu. Chúng tôi bèn góp nhặt tất cả các giấy tờ đem vào trong phòng dự trữ tài liệu của ngôi đền, đền này đã từng thoát khỏi một loạt tấn công tương tự của bọn cướp.
Tối hôm đó, chúng tôi cùng với bà chủ nhà mưu toan kế hoạch trợ giúp dân làng. Chúng tôi bày tỏ sự ngạc nhiên mà không thấy các vị Chân Sư. Bà chủ nhà nói rằng sau khi có sự cầu cứu của người đem tin, bọn cướp có lẽ sẽ bị bắt buộc phải gián đoạn cuộc tấn công, nếu không họ sẽ tự diệt lấy họ. Đêm đó, chúng tôi đi ngủ với ý niệm rõ rệt là nỗi lo ngại về sự an toàn của chúng tôi thật là quá đáng.
Ngày hôm sau, chúng tôi thức dậy sớm và sắp sửa bắt tay vào việc, thì người đem tin ngày hôm qua lại xuất hiện. Y báo tin rằng những cuộc tấn công đám nông dân đã dứt và bọn cướp đã tập trung lực lượng ở cách đó độ ba mươi lăm cây số, có lẽ để chuẩn bị đánh vào làng chúng ta.
Trong khi bà chủ nhà nói chuyện với người sứ giả đem tin, với một nhóm dân làng tựu họp ở chung quanh, một người kỵ mã phóng ngựa vào làng và chạy ngay đến chúng tôi. Trên đường y chạy vào làng, những nhóm dân làng có vẻ nhận ra y và liền giải tán dường như vì sợ hãi. Trong khi người kỵ mã sắp đến gần, người sứ giả bất giác thốt ra tên y và liền chạy trốn cùng với những dân làng khác, hiển nhiên là vì sợ rằng bọn cướp sẽ đến nơi sau người kỵ mã.
Chúng tôi còn ở lại với bà chủ nhà để đợi y đến. Y gò cương ngựa và hất hàm nói với Tô Mặc một cách hiên ngang, rằng bọn cướp biết rõ chúng tôi là người ngoại quốc và chúng tôi đến đây với mục đích gì. Y nói chuyện bằng tiếng bổn xứ mà chúng tôi không hiểu gì cả. Nhìn thấy chúng tôi đang ngơ ngác, y hỏi có ai thông ngôn được không. Bà chủ nhà trọ day lại đối diện với người kỵ mã lúc ấy hãy còn ngồi trên lưng ngựa, và hỏi y rằng bà có thể làm việc ấy giúp y được không? Khi y vừa thấy bà, y có vẻ như bị điện giật. Tuy nhiên, y trấn tĩnh lại ngay để nhẩy xuống ngựa một cách gọn gàng và vừa chạy lại vừa đưa hai tay ra trước, y kêu lên:
-Vậy ra bà ở đây?
Kế đó, y đưa hai bàn tay lên trán, quỳ xuống trước mặt bà và xin lỗi bà.
Bà chủ nhà chúng tôi ra lệnh cho y hãy đứng dậy và bày tỏ ý muốn của y. Chúng tôi nhìn thấy bà đứng thẳng người, và trong một lúc gương mặt bà đổi sắc vì nổi cơn thịnh nộ. Bà tỏ ra một cơn xúc động mãnh liệt đến nỗi người kỵ mã phải kinh hoảng. Chúng tôi cũng sợ hãi đến độ mất cả sự bình tĩnh. Những danh từ “hèn nhát, đồ sát nhân, hãy bước tới và nói rõ mi muốn gì “ xuất hiện trên môi của bà với một sức mạnh kinh khủng đến nỗi người kia phải quỳ mọp sát đất. Một lần nữa, bà lại mắng mỏ y thậm tệ:
-Đứng lên, mi quá hèn mạt đến nỗi không dám đứng dậy chăng?
Chúng tôi không ngạc nhiên vì sự sợ hãi bi lụy của người kỵ mã, vì cũng như y, chúng tôi hoàn toàn đứng sững như trời trồng, không dám cựa quậy. Tôi chắc rằng nếu y có thể làm được với sức mình, thì y đã chạy vắt giò lên cổ. Nhưng lúc ấy, cũng như chúng tôi, y không thể làm một cử động hay thốt lên một lời. Y rơi mình xuống đất như một cái xác không hồn, hai mắt giương lên và miệng mồm há hốc.
Trong sự tiếp xúc với các vị Chân Sư có những quyền năng siêu phàm, đây là lần đầu tiên mà chúng tôi có dịp nhìn thấy một vị bày tỏ một cơn xúc động mạnh. Chúng tôi cũng hoảng sợ giống như tên cướp. Những rung động trong giọng nói của bà chủ nhà làm cho chúng tôi bị chạm mạnh như sức va chạm của một tiếng nổ dữ dội kèm theo với một cú điện giật, làm tê liệt không những giọng nói mà luôn cả các bắp thịt của chúng tôi. Tôi không tìm thấy danh từ nào khác để diễn tả những cảm giác của chúng tôi lúc ấy.
Có lẽ quý độc giả sẽ ngạc nhiên mà thấy những rung động xuất phát từ một thân hình nhỏ thó, mảnh mai, nhẹ nhàng của bà chủ nhà lại có thể làm cho chúng tôi bị đè bẹp và trở nên yếu đuối bất lực, nhưng sự thật là như vậy. Tuy tình trạng đó chỉ kéo dài có một lúc, nhưng nó dường như lâu đến hằng giờ trước khi trở lại bình thường. Chúng tôi đứng trân mình như những pho tượng và lấy làm động lòng trắc ẩn đối với tên cướp. Chúng tôi cảm thấy sự mong ước mãnh liệt là muốn trợ giúp y bằng mọi cách. Đó là sự phản ứng chung của tất cả chúng tôi, nhưng ngược lại chúng tôi chỉ có thể đứng sững nhìn bà chủ nhà trân trối.
Thình lình, mọi sự đều thay đổi. Gương mặt bà biểu lộ trước hết một sự cứng rắn, kế đó nét mặt bà biến đổi và trở lại dịu dàng như lúc bình thường. Chúng tôi cảm thấy có lòng trắc ẩn sâu xa đến nỗi chúng tôi tất cả đều chạy lại đỡ cái thân hình nằm mọp dưới đất. Bà chủ nhà cũng cúi xuống và đưa một tay cho tên cướp. Người này giây lát đã tỉnh lại. Chúng tôi đỡ y đứng dậy và đặt y ngồi thoải mái trên một chiếc ghế dài gần đó. Y nhất định từ chối không bước vào bất cứ nhà nào. Bà chủ nhà khi đó mới nhận thấy cái ảnh hưởng mà bà đã gây cho chúng tôi, bèn tỏ lời hối tiếc về cơn thịnh nộ quyết liệt của bà. Chúng tôi vẫn còn run rẩy khắp thân mình, và một chập sau đó mới trấn tĩnh tinh thần lại được.
Bà giải thích rằng người kỵ mã là tên đầu đảng của một bọn cướp khét tiếng trong vùng này của đồng sa mạc Gobi. Một vài người rất hiếm biết được tên y, gọi là tên "Cướp Đen", chỉ dám thốt ra tên ấy một cách sợ hãi vì mọi người đều biết y là một kẻ cướp rất bạo tàn, không biết thương xót ai cả.
Bà chủ nhà chúng tôi đã có dịp tiếp xúc với người này trong hai lần tấn công bị thất bại của bọn cướp. Mỗi lần như vậy, y đã tỏ ra một sự thù hận sâu xa đối với bà và đối với các vị Chân Sư nói chung. Thỉnh thoảng y đã gởi đến các Ngài những bức thông điệp với lời lẽ đầy căm hờn mà các Ngài không hề để ý đến. Sự xuất hiện thình lình của y đã nhắc nhở cho bà chủ nhà những hành động bất hảo trong quá khứ của y một cách rõ rệt đến nỗi bà đã mất bình tĩnh trong một lúc. Nhưng bà liền trấn tĩnh lại và bước đến gần người ấy.
Khi bà đến gần, y toan đứng dậy nhưng không thể làm gì khác hơn là thu hình để ngồi ngay ngắn hơn một chút, với một vẻ mặt kinh khiếp sợ hãi đến cực độ. Sự căm hận toát ra từ mọi cử chỉ của y, thân mình y run rẩy lập cập như người bị chứng liệt bại. Bà chủ nhà chúng tôi tỏ ra một dáng điệu trái ngược hẳn với y, vì bà đã lấy lại được sự bình tĩnh và không còn tỏ ra một dấu hiệu xúc động nào.
Chúng tôi có ý nghĩ đem người kia đi. Trước khi chúng tôi có thể thốt ra lời, bà chủ nhà đã đọc được tư tưởng chúng tôi và đưa tay lên để yêu cầu chúng tôi giữ im lặng. Tô Mặc hiểu rằng bà đảm đương trách nhiệm của tình hình lúc ấy, và những gì mà chúng tôi làm chỉ đưa đến việc đặt bà trong một tình thế khó xử. Chúng tôi bèn rút lui cách đó một quãng xa. Bà nói chuyện với người ấy bằng một giọng thấp nhỏ và êm đềm trong một lúc khá lâu trước khi nhận được sự trả lời.
Khi người ấy bắt đầu trả lời, bà chủ nhà bèn ra dấu cho chúng tôi bước lại gần. Chúng tôi ngồi xuống đất trước mặt hai người và lấy làm sung sướng mà có thể làm một cử chỉ khả dĩ đưa đến sự bớt căng thẳng. Tên cướp giải thích rằng y được các tên chúa đảng đề cử y đến với tư cách một sứ giả hòa bình để thương thuyết việc giao nạp kho tàng của cải mà họ nghi rằng đang được chôn dấu trong ngôi đền khoét trong hang núi. Nếu dân làng chịu đem nạp cái kho tàng ấy, bọn cướp hứa sẽ không đánh phá họ nữa và sẽ thả hết các dân làng bị cầm tù mà theo y cho biết thì có đến trên ba ngàn người. Họ cũng hứa sẽ rời khỏi xứ này và không bao giờ còn làm hại những người dân sống ở miền thung lũng.
Bà chủ nhà chúng tôi giải thích cho y biết rằng trong đền không có một kho tàng nào có một giá trị gì đối với bọn cướp. Bà cho y biết nhiều chi tiết và đề nghị đưa y đi xem tất cả các gian phòng trong đền hoặc bất cứ nơi nào y muốn. Y từ chối hẳn, vì sợ rằng bị giữ lại làm con tin. Không một lời đảm bảo nào của chúng tôi có thể thuyết phục được y. Bà chủ nhà xác nhận với y sự thành thật của chúng tôi, và y liền tin ngay.
Nhưng khi đó y đang ở vào một tình thế khó xử vì y là kẻ chủ mưu vụ đánh cướp này. Chính y đã khêu gợi óc tưởng tượng của bọn cướp và làm cho chúng có nhiệt hứng để đánh cướp kho tàng. Y đã diễn tả một cách linh động và hấp dẫn những kho của cải dồi dào bất tận nó sẽ về tay chúng nếu chúng thành công. Thật vậy, chính sự hứa hẹn kho tàng đã làm cho cha y và y có thể duy trì sự đoàn kết trong bọn cướp. Y là tên đầu đảng của một trong năm toán cướp đang tập trung lực lượng để phát động cuộc tấn công.
Tình hình đã đi đến chỗ bí lối. Nếu y trở về toán cướp của y với cái tin tức không có kho tàng, chúng sẽ lên án y ngay như một kẻ phản bội và sẽ đối xử với y một cách tương xứng. Như vậy, y sẽ không thể ngăn cấm bọn cướp mở cuộc tấn công, vì sau tất cả những cố gắng mà y đã làm để đưa cuộc chuẩn bị đến giai đoạn hiện tại, người ta sẽ không còn tin tưởng nơi y nữa. Y thật là bị lâm vào một tình thế rất khó khăn.
Trước sự vô cùng ngạc nhiên của chúng tôi, bà chủ nhà tình nguyện đưa y về trại. Bất chấp những lời can gián của chúng tôi, bà muốn đi ngay lập tức. Bà trấn an chúng tôi rằng không có gì nguy hiểm nếu bà đi một mình, nhưng nếu có chúng tôi đi theo, thì bọn cướp sẽ nghi kỵ và tất cả chúng tôi sẽ bị lâm nguy. Chúng tôi bèn lẳng lặng tuân theo vì không thể làm gì khác hơn.
Tên tướng cướp bèn lên ngựa, và chúng tôi đỡ bà chủ nhà lên ngồi trên yên ngựa phía sau tên cướp, trên một tấm yên thứ nhì đã sắp đặt sẵn. Hai người ra khỏi làng, bày trước mắt chúng tôi một cảnh tượng khó quên nó sẽ luôn luôn sống động trong ký ức chúng tôi đến tận muôn đời: tên cướp với những nét mặt tỏ vẻ nghi ngờ, còn bà chủ nhà quay lại mỉm cười và thản nhiên nói với chúng tôi rằng bà sẽ trở về vào lúc chiều tối.
Suốt những giờ còn lại trong ngày hôm đó, chúng tôi không còn hứng thú để làm việc, và đi thẩn thơ vô định chung quanh làng cho đến lúc xế chiều. Sau đó chúng tôi trở về nhà trọ để đợi bà chủ nhà. Về đến nơi chúng tôi thấy trên bàn đã có bày những thức ăn ngon lành. Quý vị độc giả thử tưởng tượng sự ngạc nhiên của chúng tôi đến bực nào khi chúng tôi thấy bà chủ nhà ngồi nơi đầu bàn với nét mặt tươi cười hồn nhiên như mọi ngày. Chúng tôi đứng sững sờ trong im lặng. Bà lấy dáng trang trọng và nói với một giọng hơi chế diễu:
-Các bạn hỡi, người ta thường chào hỏi nhau khi bước chân vào nhà.
Khi đó, chúng tôi mới nghiêng mình và tìm thấy lại giọng nói để thốt ra tiếng chào bà.
Bà nói tiếp:
-Tôi đã hoàn toàn thất bại trong mưu toan thuyết phục bọn cướp, nhưng bọn họ đồng ý với nhau là hứa sẽ trả lời tôi trong vòng ba ngày. Bây giờ tôi biết rằng sự trả lời của họ sẽ là khởi một cuộc tấn công, vì không gì có thể ngăn cản bọn chúng được nữa.
Tôi nghĩ rằng mỗi người trong chúng ta chắc phải có lúc nghĩ đến sự công bình thiêng liêng để tìm thấy đức tin vững chắc hầu có vượt qua những lúc khó khăn nguy hiểm trong đời.
Share this article :
 
Support : Creating Website | phuctriethoc | NGUYỄN VĂN PHÚC
Copyright © 2013. NGUYỄN VĂN PHÚC - All Rights Reserved
By Creating Website Published by KINH TẾ HỌC
Proudly powered by NGUYỄN VĂN PHÚC
NGUYỄN VĂN PHÚC : Website | Liên hệ | phuctriethoc@gmail.com
Proudly powered by Triết học kinh tế
Copyright © 2013. NGUYỄN VĂN PHÚC - All Rights Reserved